“Con đường đúng nhất đi đến hòa bình”: Bài viết của Tổng thống Mỹ Richard Nixon tháng 6/1972

Trước khi lên đường sang Bắc Kinh thực hiện chuyến đi lịch sử vào tháng 2/1972, Tổng thống Mỹ Richard Nixon đã viết bài nghiên cứu với tiêu đề “Con đường đúng nhất đi đến hòa bình” (The real road to peace) gửi vội cho báo US News & World Report nói về chính sách đối ngoại của Mỹ. Sau khi đi Trung Quốc và Liên Xô về, Nixon đã chau chuốt và chỉnh sửa lại bản văn rồi gửi riêng cho US News & World Report để công bố. Tạp chí Phương Đông gửi tới bạn đọc một phần bài viết này do báo Sóng Thần trích dịch và đăng tải trên các số báo từ 248 đến 252, tháng 6/1972. Các câu từ Nixon sử dụng trong bài được giữ nguyên văn để đảm bảo tính khách quan và giá trị nghiên cứu, tham khảo.

Một chính sách đối ngoại mới cho thế giới mới

Mỗi thế hệ đều có thể bảo được rằng: thế hệ mình đang sống trong một thế giới mới. Nhưng trong thời đại chúng ta, thế giới đã thay đổi nhanh chóng và mạnh mẽ hơn bất cứ thời đại nào trước kia. Một chính sách đối ngoại thông minh, phải là một chính sách can dự vào những thay đổi ấy, chứ không được phép đứng ngoài lề lịch sử: chính sách ấy cũng lại không được hướng theo lịch sử, nhưng phải tìm cách để hướng tất cả những đổi mới ấy vào các mục tiêu lớn lao mà chúng ta, nhân danh một quốc gia, tin tưởng như vậy.

Trang bìa tạp chí “US News & World Report” ngày 26/6/1972, số báo đăng tải bài viết “The real road to peace” của Tổng thống Mỹ Richard Nixon. Ảnh: ebay

Trong thời gian ba năm rưỡi qua, các chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ đã tỏ ra bị lôi cuốn và xa rời các biến đổi, tuy thế các chính sách ấy cũng còn giữ được một căn bản vững của nó. Chúng ta giữ lại cái căn bản trong mục tiêu của nước Mỹ, nhưng đã thích ứng con đường trong đó mục tiêu ấy được theo đuổi để hướng về những hoàn cảnh thay đổi của một thế giới đang thay đổi.

Trong những năm liền sau Thế chiến thứ hai, nước Mỹ đã đi vào một hoàn cảnh không thể nào tránh được với trách nhiệm đầu tiên để duy trì hòa bình trên thế giới, và để giúp đỡ cho các quốc gia đã bị tàn phá vì chiến tranh có thể phục hồi được tất cả.

Nhưng thế giới đã đổi thay thật sâu xa kể từ những ngày ấy. Các điều kiện khiến hình thành cái hình dáng của chính sách Mỹ đã được cấu thành phần nền tảng của nó.

– Các quốc gia Tây Âu và Nhật Bản – bị kiệt quệ, suy nhược sau Thế chiến thứ hai – với sự giúp đỡ của chúng ta nay đã kinh qua một trường hợp phục hồi gần như là huyền diệu. Các đồng minh của chúng ta ở khắp mọi nơi đã được độc lập và tự tin hơn.

– Các quốc gia đang phát triển cũng đã đạt được một khả năng mới để tự tạo được an ninh và hạnh phúc. Một ý nghĩa mới về quyền tự trị quốc gia nay đang là ngọn đuốc chỉ đạo cho hầu hết các quyết định của các quốc gia ấy.

– Cái sức mạnh quân sự vượt tất cả của chúng ta có thể sẽ đối đầu với sức mạnh quân sự của Nga Xô, đã tìm được chỗ cho một phương trình cân bằng quân sự hơn nữa. Các khả năng quân sự của chúng ta nay vẫn không chịu đứng thứ hai sau bất cứ một nước nào, nhưng chúng ta có thể không đưa những khả năng vĩ đại siêu đẳng của mình ra để làm công việc canh giữ hòa bình ở khắp nơi trên thế giới nữa.

– Khối vững chắc các nước Cộng sản đối đầu với chúng ta từ sau Thế chiến thứ hai nay không còn là một khối vững chắc nữa. Và ngay cả trong trường hợp các nước Cộng sản đã đi từ đoàn kết sang chia rẽ, ngay cả trường hợp các nước Cộng sản hướng về khơi rộng các nghịch thù tranh chấp với nhau, các nước Cộng sản đã thay đổi trong giai đoạn hậu Stalin từ tình trạng thù nghịch tranh chấp liên miên sang một thế đứng ít ra cũng là thích nghi với thế giới bên ngoài.

Kết quả của tất cả những thay đổi ấy là có một phong trào đi từ khuynh hướng cực đoan cứng rắn của hai thập niên 1940 và 1950 sang một trật tự quốc tế mềm mỏng, đa dạng, đa cực, trật tự này cân bằng và vững vàng hơn bởi nó được đặt trên những nền tảng rộng rãi hơn, khác biệt hơn.

Khi tôi lên cầm quyền Tổng thống, tôi nghĩ (một cách mạnh mẽ) rằng chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ không làm tăng tiến được các quyền lợi của nước Mỹ, trừ phi chính sách ấy mau lẹ thích ứng được với hoàn cảnh ngoại giao mới này. Sự thích ứng ấy, trong hình thức đơn giản nhất của nó đòi hỏi chúng ta phải dành một chỗ lớn cho cuộc thương thuyết của chúng ta với các kẻ địch của ta, và của người bạn đồng hành với các đồng minh.

Những đòi hỏi mới này, trái lại, thể hiện trước mặt chúng ta cả những thách thức thô bạo, khó khăn, lẫn những cơ hội đầy gay cấn, kích thích. Sự kiện chúng ta không còn một mình gánh vác các trách nhiệm nữa, có thể làm cho quyền tự trị của chúng ta bị thu hẹp lại, nhưng nó cũng lại soi tỏ một vài gánh nặng của chúng ta. Sự kiện chỉ một sức mạnh quân sự thượng đẳng thôi không còn là một trả lời thích đáng cho một cuộc thách thức của Cộng sản vừa mạnh hơn vừa dị biệt hơn đối với chính sách ngoại giao đầy phức tạp của chúng ta, nhưng chính sách ngoại giao này cũng lại giúp cho ta có được những con đường lớn hướng về tiến bộ và hòa bình.

Mặc dầu với tất cả những thay đổi trên thế giới, một sự thật chủ chốt vẫn tỏ ra đứng vững, không thay đổi là: sự tham dự của nước Mỹ vẫn là một sự thật tất nhiên phải có trong bất cứ một sự vũng vàng, ổn định và hòa hợp nào của trật tự quốc tế. Đức khôn ngoan lớn lao cho thấy tự một mình chúng ta không thể nào tạo được hòa bình, cho thấy phải làm sao không bị hỗn loạn với ảo tưởng nguy hiểm là hòa bình không thể có được nếu không có bàn tay của chúng ta. Nếu nước Mỹ đã đi theo con đường được các nhà chính trị chủ trương cô lập mới hô hào thì hòa bình và tự do của thế giới sẽ bị đặt vào nguy cơ ghê gớm. Những điều kiện mới của thập niên 1970 đòi hỏi phải định nghĩa lại cách xây dựng thế lãnh đạo của Mỹ, chứ không phải là đòi hỏi định nghĩa lại sự tiết chế đáng buồn của mình.

Nếu chúng ta chủ trương quay trở về tất cả cho quốc nội, nếu chúng ta từ bỏ các trách nhiệm đối với thế giới, nếu chúng ta chiếu theo xu hướng vị kỷ và tự mãn, thì chắc chắn là khoảng trống chúng ta bỏ lại trong các vấn đề thế giới sẽ mau lẹ bị kẻ khác ào tới chiếm lấy ngay. Chúng ta cũng lại chắc chắn rằng thế giới như vậy sẽ làm cho an toàn của nước Mỹ bị giảm đi, giảm an toàn của lý tưởng dân chủ, và giảm an toàn của cả nhân loại.

Chẳng có an ninh nào, chẳng có hòa bình nào lại có thể tìm được trong tình trạng trốn tránh che giấu sự thật. Đã có quá nhiều thế hệ, trong quá nhiều lần, phải trả giá quá khủng khiếp cho sự tự dễ dãi trong những nỗ lực để vượt thoát con đường vượt thoát.

Mục đích của chúng ta không phải là làm cho thế kỷ này thành thế kỷ của Mỹ, nhưng chúng ta cũng lại không chịu để cho thế kỷ này trong đó có nước Mỹ bị suy đồi. Chúng ta không thể nào dựng được một trật tự thế giới mới đúng thực và vững vàng nếu chúng ta đơn phương hành động một mình. Nhưng trật tự ấy cũng lại sẽ không thể xây dựng được nếu không có bàn tay tích cực của nước Mỹ.

Vì thế, chúng ta đã lựa chọn để tiếp tục vai trò dẫn dắt tích cực của mình trên thế giới, dù rằng chúng ta đã quyết định đặt vai trò ấy vào các đường lối hành động mới. Mục đích nền tảng của thế chỉ đạo ấy là xây dựng một cơ cấu hòa bình hữu hiệu và tồn tại lâu dài.

Trong sự xây dựng một cơ cấu hòa bình thì quan niệm quan trọng nhất là phải đạt được một loạt các thỏa hiệp, các thông cảm và thực tế, và như thế thì cuộc đi tìm sự thay đổi phải thực hiện trên những đường lối hòa bình.

Đây là con đường để tiến tới một thế hệ hòa bình. Đây là tâm điểm của các chính sách đối ngoại của chúng ta.

Các chính sách ấy, đang mang lại các kết quả:

– Sau một thế hệ thù nghịch, một trang sử mới và hứa hẹn hơn đã được lật trong các mối liên lạc của chúng ta với Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.

– Sau một thời đại đụng độ, một thời đại của thương thuyết bây giờ đã mở ra, chứng cớ là điểm xúc động nhất nằm trong toàn bộ các cuộc thương thuyết và thỏa hiệp của chúng ta với Nga Xô.

– Sau một thời kỳ bấp bênh và điều chỉnh, các đồng minh của chúng ta nay đang đổi mới và đã hùng mạnh.

– Sau 10 năm chiến tranh, sự can dự của chúng ta tại Việt Nam đang đi đến hồi kết thúc. Kết thúc trong các mục tiêu của chúng ta vẫn nguyên vẹn, và như thế sẽ đóng góp được vào một nền hòa bình trường cửu cho vùng Thái Bình Dương.

– Sau 10 năm khủng hoảng, giai đoạn bắt đầu đã được dựng thành trong vấn đề tạo dựng một hệ thống tiền tệ thế giới tốt đẹp đối với Hoa Kỳ và tốt đẹp cho cả thế giới.

Các hội nghị thượng đỉnh

Việc thiếu sự tương tác lành mạnh, đôi khi gần như tê liệt về mặt chính sách, trong các mối liên lạc của nước Mỹ với hai đại cường Cộng sản là một trong những yếu tố nguy hiểm nhất của tình thế thế giới, khi chính phủ này lên cầm quyền vào năm 1969. Lời cảnh báo sâu sắc của ông George Washington từ thời đại Napoleon – rằng một thái độ chấp nhịn một cách dễ dàng “những ác cảm thâm căn cố đế chống lại các quốc gia đặc biệt” nào đấy sẽ đưa một quốc gia tới “một tình trạng nô lệ cho chính sự thù địch của mình” – đã sống lại trong kỷ nguyên chiến tranh lạnh, tình trạng càng bi thảm hơn nữa vì các hỏa tiễn, chứ không phải vì thứ súng trường cổ lỗ sĩ thời ông Washington nữa, ngày nay xuất hiện đầy rẫy trong các hệ thống của tất cả ba phe đi về cái ngõ cụt chết người này. Nếu thế giới đã thoát được khỏi sự đụng độ như là một lối sống còn, như chúng ta đã nhìn thấy trong năm 1969, thì các bang giao mới phải được phát triển với cả Nga Xô lẫn Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.

Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai đón Tổng thống Mỹ Richard Nixon và phu nhân tại Bắc Kinh, tháng 2/1972. Ảnh: Nhà Trắng

Vì chúng ta theo đuổi cái mục tiêu ấy, nên chúng ta công nhận rằng có những thay đổi nào đấy đã xuất hiện trong các hành động, chủ trương của các nhà lãnh đạo Cộng sản. Dù thế nào đi chăng nữa thì các hi vọng họ có thể ôm ấp được là các nước tư bản sẽ sụp đổ trong đám mây mù của giáo điều Mác xít nay đã tiêu tan cả. Điều hiển nhiên là họ đang tìm cách để sống chung với nước Mỹ, Tây Âu và với Á châu tự do, Á châu tự do nay đang lên mạnh, không còn yếu nữa, và Á châu với kinh nghiệm đủ để giữ thế phòng giữ chứ không còn thờ ơ với sự phòng giữ này.

Đây là một sự thay đổi chính sách có tầm quan trọng thật sâu xa: nhưng có điểm quan trọng cần phải công nhận là: đây là một sự thay đổi trong tư tưởng chứ không phải sự thay đổi trong tấm lòng. Đây là một quyết định hợp lý và có tính toán trước, các chiến thuật cổ đều không làm như vậy.

Cả Nga Xô lẫn Trung Quốc đều không từ bỏ quan điểm riêng của họ về thế giới. Nhưng cả hai đều chấp nhận ý tưởng rằng các quyền lợi tốt đẹp nhất của họ sẽ được bảo đảm hơn bằng đường lối thương thuyết hơn là bằng các sự đụng độ. Chúng ta nhìn cũng cùng một quan điểm như vậy đối với các quyền lợi của nước Mỹ. Từ đây mới có sự khởi đầu cho một loạt các sáng kiến khiến cho năm nay là năm cao nhất với các cuộc viếng thăm của một Tổng thống Mỹ tại Bắc Kinh và Mạc Tư Khoa.

Với Trung Quốc, tương lai mở ra có phần còn hệ trọng, đáng kể hơn nữa, bởi vì tình trạng nghịch thù và cô lập giữa chúng ta còn nặng nề hơn nữa. Trước khi giữ ghế Tổng thống, năm 1967 tôi có viết trong tam nguyệt san “Foreign Affairs” rằng:

“Nhìn về đường xa, chúng ta hiển nhiên không thể cứ tiếp tục để cho Trung Quốc mãi mãi đứng ra bên ngoài đại gia đình các quốc gia, bởi như thế là nuôi dưỡng những thói ngông cuồng phóng túng của họ, làm cho họ ôm chặt mãi lấy những oán hờn, đẩy họ đến chỗ đe dọa các nước lân bang. Trên hành tinh bé nhỏ này, không có chỗ nào dành riêng cho một tỷ người có một sức mạnh ghê gớm nhất để mà sống trong hận thù cô độc”.

Theo đuổi ngay từ khi Chính phủ này bắt đầu ngày thứ nhất một cách kiên nhẫn, điểm hữu lý này đã bắt đầu chuyển động đưa các sự thật, các vấn đề tiến tới – mới đầu thì không nhận ra được, rồi một năm nay kể từ khi có chiến trận Triều Tiên đến giờ, mới lại thấy lần đầu tiên có những cuộc tiếp xúc ngoại giao cao cấp giữa 2 nước chúng ta (Trung – Mỹ), và cuối cùng là tháng 2 năm nay có “chuyến hành trình cho hòa bình” của tôi sang Bắc Kinh.

Với chuyến đi ấy, chúng ta bắc một cây cầu qua con vịnh sâu đến 22 năm im lặng cay đắng giữa một nước mạnh nhất thế giới và một nước đông dân nhất thế giới. Chúng ta đã chứng minh rằng các nước với những bất đồng sâu xa và căm hờn vẫn có thể thảo luận được với nhau một cách êm thấm về các bất đồng ấy, thảo luận một cách hợp lý từ gốc rễ, thật thẳng thắn, và không cần phải nhượng bộ hy sinh các nguyên tắc của mỗi phía, hoặc không cần phải hy sinh các quyền lợi sinh tử của mỗi bên.

Cuộc gặp gỡ của chúng tôi với các nhà lãnh đạo Trung Quốc không hề sản xuất ra một phương thức huyền diệu nào để cho các bất đồng giữa hai nước có thể bị tiêu tan. Tuy thế, chúng tôi đã tạo ra vài điều khởi đầu quan trọng hướng về mở rộng các liên lạc về văn hóa, báo chí và giáo dục, hướng về phát triển giao thương và hướng về củng cố đồng thời phát triển các sự liên lạc viễn thông chúng tôi đã lập được giữa hai nước với nhau.

Quan trọng hơn cả là chúng tôi đã thỏa thuận trên một vài nguyên tắc căn bản của phép sinh hoạt quốc tế, các nguyên tắc này sẽ giảm thiểu được mọi nguy hiểm các sự đụng độ và chiến tranh tại Á châu và Thái Bình Dương. Chúng tôi sẽ thỏa thuận rằng: cả hai nước chống lại sự thống trị vùng Thái Bình Dương bằng bất cứ một uy quyền nào. Chúng tôi thỏa thuận rằng các cuộc tranh chấp quốc tế sẽ phải được giải quyết mà không cần viện cầu đến sức mạnh quân sự và chúng tôi thỏa thuận là hai nước, mỗi bên hành động để thêm vào các nguyên tắc này bằng cách mở các liên lạc giữa 2 nước với nhau. Và chúng tôi đã đạt được các điều thông cảm này mà vẫn không phải từ bỏ bất cứ một hình thức can dự nào có từ trước của nước Mỹ đối với Trung Hoa Dân Quốc hoặc có với các quốc gia bạn bè của nước Mỹ.

Nói tóm lại, chuyến viếng thăm Bắc Kinh của tôi biểu hiện một bước dài đầu tiên hướng về việc thiết lập một cuộc đối thoại liên tục và đầy kết quả với nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, với chiều hướng là cuộc đối thoại ấy sẽ đóng góp được cho hòa bình không chỉ riêng ở vùng Thái Bình Dương, mà còn cho cả thế giới nữa. Bước tiến thứ nhì và thành công chính là chuyến viếng thăm Bắc Kinh của các nhân vật lập pháp, cuộc gặp gỡ định kỳ trên cấp bậc đại sứ tại Ba Lê và các tiếp xúc khác mà một năm về trước vẫn được coi là không thể nào có thể thực hiện nổi.

Trong khi theo đuổi công tác tìm các bang giao tốt hơn nữa với Nga Xô, chúng ta gặp phải một bất đồng và nhiều hình thức tình hình phức tạp hơn là khi chúng ta gặp phải đối với Bắc Kinh. Cũng như Hoa Kỳ từng hành động từ lâu, vào cuối thập niên 1960 Nga Xô chủ trương một chính sách đối ngoại toàn diện: mỗi phía đều có những quyền lợi và những hoạt động va chạm với những quyền lợi và hoạt động của bên kia ở nhiều nơi trên thế giới. Mỗi phía, Hoa Kỳ và Nga Xô đều có một khả năng nguyên tử có thể hủy diệt được nền văn minh khiến cho một cuộc chiến tranh toàn diện có thể xảy ra.

Tổng thống Mỹ Nixon và Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô Brezhnev ký Hiệp ước chống tên lửa đạn đạo và thỏa thuận SALT về hạn chế vũ khí chiến lược tại Moscow, tháng 5/1972. Ảnh: Thư viện Tổng thống Richard Nixon

Chỉ riêng một sự kiện về sức mạnh nguyên tử không thôi cũng đủ bênh vực được thật hùng hồn cho việc nước Mỹ mở các cuộc gặp gỡ ở cấp bậc cao nhất nhằm giúp làm cho giảm hẳn nguy cơ về chiến tranh. Bởi vậy thực tế cụ thể trong các bất đồng giữa Mỹ và Nga và thực tế cụ thể của các vấn đề vũ trang khiến cho các bất đồng ấy đã được đặt thành vấn đề cũng lại bênh vực cho biện minh rằng bất cứ hội nghị thượng đỉnh nào đáng đặt thì giờ và nỗ lực vào cũng đều phải được thực hiện phù hợp với những viễn ảnh cụ thể cho các cuộc dàn xếp về một vài vấn đề thực sự gai góc, khó khăn.

[…]

Chủ thuyết Nixon

Chủ thuyết gọi là “Chủ thuyết Nixon” cốt yếu là một kế hoạch để làm cho các đồng minh của Hoa Kỳ hùng mạnh lên, san sẻ đều các gánh nặng về vấn đề mưu tìm hòa bình, đưa thêm được nhiều nước vào công tác bảo đảm an ninh của riêng mình, và để giúp bảo đảm được rằng các cuộc tranh chấp mai sau, các cuộc tranh chấp xảy ra ở chung quanh các quyền lợi chính yếu của các đại cường, sẽ không liên quan gì tới các đại cường, không lôi cuốn chính các đại cường vào cuộc tranh chấp.

Các nước nhỏ có thể mở các trận chiến tranh nhỏ, nhưng chỉ các đại cường mới có thể mở chiến tranh lớn được. Toàn thể thế giới có một công tác chung, một nhiệm vụ chung là bảo đảm rằng các khả năng vũ khí nguyên tử của các đại cường sẽ không bao giờ được sử dụng đến.

Và dĩ nhiên, toàn thể chúng ta đều hi vọng rằng trong mai sau sẽ không có bất cứ loại chiến tranh nào nữa. Nhưng dù sao chăng nữa thì chúng ta cũng phải sửa soạn cho một công tác được coi là đúng thật, ấy là các cuộc tranh chấp sẽ xảy ra giữa các nước nhỏ với nhau, và các cuộc tranh chấp ấy sẽ liên hệ đến việc sử dụng vũ khí.

Kể từ sau Thế chiến thứ hai đến nay, trên thế giới đã có nhiều cuộc tranh chấp đủ mọi loại bằng vũ khí giữa các nước với nhau. Trong khi mục tiêu tối hậu của chúng ta là loại bỏ cho kỳ hết các cuộc tranh chấp như vậy, mục đích trung gian của chúng ta phải là ngăn cản các nước ấy không cho họ đưa chiến tranh đến mức độ bi thảm là một trận chiến tranh thế giới.

“Học thuyết Nixon” khẳng định rằng Mỹ “sẽ duy trì sức mạnh nguyên tử đủ để chống lại bất cứ đe dọa nào đối với nền an ninh của nước Mỹ và của các đồng minh của Mỹ”. Hình ảnh bom hạt nhân tại Căn cứ Không quân Barksdale của Mỹ. Ảnh: Paul Shambroom

Trong bài Thông điệp Liên bang của tôi đọc hồi tháng Giêng năm nay, tôi có đúc kết cái gọi là “Chủ thuyết Nixon” vào các điểm dưới đây:

– Chúng ta sẽ duy trì sức mạnh nguyên tử của ta đủ để chống lại bất cứ đe dọa nào đối với nền an ninh của nước Mỹ và của các đồng minh của nước Mỹ.

– Chúng ta sẽ giúp đỡ các nước khác phát triển khả năng tự phòng vệ.

– Chúng ta sẽ hoàn tất tất cả những gì về phần chúng ta trong các hiệp ước đã ký với các nước.

– Chúng ta sẽ hành động để bảo vệ các quyền lợi của nước Mỹ chúng ta, nếu các quyền lợi ấy bị đe dọa bằng bất cứ cách nào, ở bất cứ nơi nào trên thế giới.

– Nhưng ở nơi nào các quyền lợi của chúng ta hoặc các hiệp ước của chúng ta không ảnh hưởng, không liên quan tới thì vai trò của chúng ta ở các nơi ấy sẽ bị giới hạn.

– Chúng ta sẽ không can thiệp bằng quân sự. Nhưng chúng ta sẽ dùng ảnh hưởng của mình để ngăn chặn chiến tranh.

– Nếu chiến tranh đến, chúng ta sẽ dùng ảnh hưởng của mình để làm cho chiến tranh dừng lại.

– Một khi chiến tranh đã hết, chúng ta sẽ gánh vác phần chia sẻ của mình trong vấn đề giúp đỡ hàn gắn lại các vết thương của các nước tham dự chiến tranh.

Về vấn đề Việt Nam

Một vùng đất trên thế giới, nơi các chủ trương chính sách đối ngoại mới của chúng ta gặp phải những thử thách, những thách thức khó khăn nhất, là nước Việt Nam. Trong suốt 3 năm rưỡi qua, chúng ta đã đối đầu và đạt được thắng lợi hoàn toàn trước các thách thức ấy. Nay, chúng ta đang ra khỏi Việt Nam, nhưng chúng ta ra khỏi Việt Nam mà các mục tiêu của chúng ta phải vẫn còn nguyên vẹn.

Khi chính phủ này (Nixon) lên cầm quyền thì chiến tranh ở Việt Nam là vấn đề chủ yếu thu hút sự chú ý của nước Mỹ chúng ta. Chiến tranh ấy nặng trong tâm tư chúng ta, làm hao mòn các tài nguyên của nước ta, và thử thách gay go đức kiên nhẫn của chúng ta.

Khi tôi lên cầm quyền, đã có gần 550.000 binh sĩ Mỹ ở Việt Nam rồi và lúc ấy chưa có một chương trình nào để đưa các binh sĩ Mỹ tại Việt Nam trở về Mỹ cả. Trung bình con số lính Mỹ chết trận ở Việt Nam mỗi tháng là 1.000 người. Tình trạng ngày càng gia tăng mãi tính chất Mỹ hóa của chiến tranh, cùng lúc thái độ quá đàn anh của chúng ta đối với người Việt Nam, tất cả đã làm cho các đồng minh của ta mệt mỏi, trong khi ấy thì một mình nước Mỹ chúng ta càng ngày càng một mình gánh vác nặng dính líu vào chiến tranh Việt Nam.

Đối đầu với vấn đề phức tạp này, chúng ta lập tức hành động theo hai chiều: một đằng, chúng ta thực hiện những nỗ lực quan trọng và chịu đựng để chấm dứt chiến tranh làm sao càng êm thấm càng tốt qua đường lối thương thuyết dàn xếp. Một đằng, chúng ta chuẩn bị cho Nam Việt Nam, cả về quân sự lẫn tâm lý, để họ tự gánh vác lấy gánh nặng chính yếu là tự phòng vệ trong trường hợp các cuộc thương thuyết không thành công.

Mức độ và nhịp độ chúng ta theo đuổi cùng một lúc qua các cuộc vận động ngoại giao vừa công khai vừa bí mật nhằm đạt một cuộc dàn xếp bằng thương thuyết nay đã trở thành một vấn đề công khai ai cũng biết. Chính phủ Nam Việt Nam đã cộng tác toàn diện với chúng ta trong nỗ lực này. Cùng lúc ấy, chính phủ và dân chúng Nam Việt Nam đang nỗ lực trong công tác xây dựng các cơ cấu dân cử hiến định tốt đẹp hơn nữa, dù rằng họ đang phải chiến đấu cho một trận chiến tranh gìn giữ cho đất nước được tồn tại.

Trong lịch sử, rất ít quốc gia đang chiến tranh lại có thể phát triển được các cơ cấu dân chủ hiến định, và càng hiếm có nước đạt được thành công như Nam Việt Nam đã đạt được. Và vì binh sĩ Hoa Kỳ đã thực sự triệt hồi, Nam Việt Nam đã thực sự nhận lãnh nhiệm vụ tác chiến, và Nam Việt Nam đã hành động thành công hầu hết các mặt.

Khi Bắc Việt mở cuộc tấn công lớn xâm lăng Nam Việt Nam vào ngày thứ Bảy tuần lễ Phục Sinh năm nay thì chiến tranh tại đất nước này bỗng nhiên lên thang trở lại và tính chất của trận chiến tranh đã thay đổi.

Trận chiến tranh này không thể còn gọi là một trận nội chiến được nữa bởi vì Hà Nội đã tung hầu hết toàn bộ lục quân của họ vào các mặt trận ở bên ngoài lãnh thổ của họ. Chiến xa, đại bác, thiết vận xa, các hỏa tiễn địa không, và 12 sư đoàn quân chính quy Bắc Việt ồ ạt xâm lăng Nam Việt Nam, đã làm thay đổi hoàn toàn bản chất của trận chiến tranh. Ở Nam Việt Nam, không chỉ có sự thật: không hề có cuộc nổi dậy của dân chúng mà còn có sự việc hết sức đông đảo người dân di cư chạy nạn, cố tìm đường trốn tránh “các người giải phóng”, các người di cư ấy chạy về các vùng an toàn ở đằng sau chiến tuyến của Nam Việt Nam. Thế là, Bắc Việt công khai bước những bước chiến tranh, đưa cuộc tranh chấp thành một cuộc vũ trang xâm lăng, do Cộng sản Bắc Việt hành động để chống lại Nam Việt Nam, vì Nam Việt Nam chiến đấu để cố bảo toàn nền độc lập của mình.

Cuộc xâm lăng lớn lao của Bắc Việt làm cho chúng ta gặp phải một tình thế mới. Tình thế mới này đòi hỏi phải có đáp ứng toàn diện, đáp ứng bằng các lực lượng của Nam Việt Nam ở trên bộ, bằng sự phối hợp không và hải quân của Việt Nam Cộng hòa với Hoa Kỳ.

Sự đáp ứng này đã được thi hành. Đồng thời, chúng ta thực hiện một nỗ lực lớn lao khác nữa để chấm dứt chiến tranh bằng các cuộc thương thuyết với tiến sĩ Henry Kissinger mang sứ mạng sang Mạc Tư Khoa, và với sự trở lại bàn hội đàm Ba Lê của chúng ta. Nhưng trả lời của Bắc Việt là Bắc Việt vẫn tiếp tục tỏ ra không muốn dàn xếp, ngoại trừ việc đòi đặt một chính phủ Cộng sản ở Nam Việt Nam.

Đối đầu với cuộc xâm lăng cứ tiếp diễn và thái độ cường ngạnh của Hà Nội tại bàn hội đàm, ngày mồng 8 tháng 5, tôi đã quyết định các biện pháp quân sự có tính chất quyết định để giúp sớm chấm dứt chiến tranh. Sau khi đã cân nhắc thật cẩn thận tất cả mọi khía cạnh liên hệ, tôi đã loan báo quyết định thả thủy lôi ở tất cả các cửa ngõ vào các hải cảng của Bắc Việt, và chỉ thị cho các lực lượng của ta hành động để cấm tiếp tế cho Bắc Việt, cắt đứt bất cứ một hệ thống thiết lộ và giao thông đường bộ nào, các hoạt động phải lên đến tối đa. Các hành động này không hề có ý nhắm vào bất cứ nước nào khác. Các hành động ấy chỉ nhằm mục đích duy nhất là ngăn chặn khiến cho Hà Nội không nhận được các tiếp tế và vũ khí cần để tiếp tục cuộc xâm lăng ở Nam Việt Nam.

Trước cuộc tiến công chiến lược đầu năm 1972 của quân và dân ta, lo sợ cho sự sụp đổ của nguỵ quyền Sài Gòn và chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”, Mỹ vội vàng “Mỹ hoá” trở lại cuộc chiến và mở chiến dịch phá hoại miền Bắc lần thứ 2. Hình ảnh cầu Phú Lương (Hải Dương) bị máy bay Mỹ ném bom tháng 5/1972. Ảnh: U.S. Navy

Đáp ứng mau lẹ và hữu hiệu này là cần thiết, vì có nhiều lý do.

Thứ nhất, cần phải bảo vệ cho các lực lượng của ta còn lại ở Việt Nam, và để duy trì áp lực cần có để bảo đảm cho việc trả lại cho chúng ta tù binh chiến tranh.

Thứ hai, cần phải hành động như vậy vì 18 triệu người dân ở Nam Việt Nam, những người ấy phải chịu đựng, bị hành hạ khổ sở vì hơn 20 năm chiến tranh, 18 triệu người dân miền Nam chiếu trên luân lý thế giới, chiếu trên quốc tế pháp, hoặc chiếu trên quyền làm người, được quyền quyết định tương lai của riêng họ, chứ không phải là phải chịu sự định đặt của một quân đội xâm lăng.

Thứ ba, là vì cần thiết cho sự ổn định vững vàng trong tương lai của cả vùng Đông Nam Á. Với sự kiện bộ đội Bắc Việt đã có mặt ở Ai Lao, Cao Miên, với sự thật là Hà Nội yểm trợ cho sự nổi dậy đang bành trướng ở Thái Lan, thì không thể cho phép hành động của Hà Nội thắng được Nam Việt Nam, để từ đấy gieo nguy ngập cho tất cả các nước láng giềng của Nam Việt Nam, như các nhà lãnh đạo các nước ấy đã nhận định và tuyên bố.

Thứ tư, là vì cần thiết để làm cho các nhà lãnh đạo các quốc gia khác thấy rằng các lời cam kết của Hoa Kỳ sẽ được thi hành và một cuộc thách thức trực tiếp như vậy sẽ không thể không bị trừng trị. Trong suốt ba năm qua, tôi đã từng tuyên bố nhắc đi nhắc lại nhiều lần rằng: nếu Hà Nội lợi dụng việc chúng ta rút quân khỏi Nam Việt Nam để lên thang chiến tranh, thì chúng ta sẽ có đáp ứng thỏa đáng ngay.

Thứ năm, là vì cần thiết để ủng hộ cho nguyên tắc, mà nguyên tắc này là mối hi vọng tim óc của cả thế giới, là một nền hòa bình lâu dài; nguyên tắc này nói rằng không một quốc gia nào có quyền tấn công lãnh thổ của nước láng giềng. Suốt trong bảy năm trời, Hoa Kỳ đã chiến đấu bên cạnh Nam Việt Nam và đã có hơn 45.000 người lính Mỹ tử trận tại Nam Việt Nam. Chúng ta và Nam Việt Nam đã cùng nhau hợp tác để đạt một cuộc dàn xếp bằng thương thuyết: chúng ta đã giúp đỡ cho Nam Việt Nam để họ chuẩn bị chiến đấu tự vệ được nếu như một cuộc dàn xếp không thể nào thành hình được. Vào lúc quân Bắc Việt mở cuộc xâm lăng xuống Nam Việt Nam, chúng ta còn gần 85.000 binh sĩ tại Nam Việt Nam. Chấp nhận các sự thật như vậy và đứng ra bên ngoài khi cuộc tấn công của kẻ thù tung ra là một hành động tự chế hèn hạ về trách nhiệm, hành động ấy lịch sử sẽ không thể nào tha thứ cho chúng ta được.

Kể từ khi quân Bắc Việt mở trận tấn công xâm lăng Nam Việt Nam đến giờ, đã được 11 tuần lễ. Các trận giao tranh đang tiếp tục, nhưng Nam Việt Nam đã được giữ vững. Không phải là Nam Việt Nam chỉ giữ vững được về mặt quân sự mà con đường dân chúng Nam Việt Nam đã đứng chung với nhau để chiến đấu bảo vệ quốc gia họ sẽ chứng tỏ rõ ràng nhất rằng chính Sài Gòn, chứ không phải Hà Nội, là người đại diện nói thay cho nhân dân Nam Việt Nam.

Quân và dân ta đã đánh bại chiến tranh phá hoại lần thứ 2 của đế quốc Mỹ, buộc Mỹ phải trở lại bàn đàm phán và ký kết Hiệp định Paris vào tháng 1/1973. Hình ảnh một dãy phố tại Hà Nội tháng 3/1973. Ảnh: Werner Schulze

Đứng về mặt quân sự và chính trị mà nói thì Hà Nội lúc này đang đại bại trong canh bạc của họ. Tuy thế chúng ta cũng đã sửa soạn để dàn xếp cuộc tranh chấp bằng các cuộc thương thuyết trong danh dự, không đòi hỏi bất cứ bên nào phải đầu hàng hay bị nhục. Chúng ta sẽ ngưng các hành động quân sự, ngay khi nào Bắc Việt trả lại các tù binh cho ta, và một cuộc ngưng bắn trên toàn lãnh thổ Đông Dương sẽ bắt đầu và đặt dưới sự giám sát của quốc tế. Sau đấy, trong vòng 4 tháng, chúng ta sẽ rút hết các binh sĩ Mỹ còn lại ở Nam Việt Nam.

Đấy là những hành động quân tử. Các hành động ấy sẽ chấm dứt được chiến tranh, đưa được các tù binh Mỹ trở về nước. Các hành đông ấy sẽ cho phép nước Mỹ rút khỏi Nam Việt Nam trong danh dự. Các hành động ấy sẽ cho phép tất cả các cuộc thương thuyết về một cuộc giải quyết bằng chính trị giữa người Việt Nam với nhau. Bây giờ là đến lượt Hà Nội lựa chọn: chiến tranh hay hòa bình. […]■

BÌNH LUẬN

BÀI VIẾT LIÊN QUAN