Ngày 25-10, Thủ tướng Shinzo Abe công du Trung Quốc 2 ngày. Đây là một chuyến thăm lịch sử, có thể so sánh với chuyến thăm Nhật Bản cách nay 40 năm của lãnh đạo Trung Quốc Đặng Tiểu Bình để ký kết một hiệp ước hòa bình và hữu nghị, mở đường cho quan hệ bình thường với Nhật Bản.
Quan hệ Nhật Bản-Trung Quốc nguội lạnh kể từ năm 2012, sau biến cố Tokyo quốc hữu hóa quần đảo Senkaku/Điếu Ngư, mà Bắc Kinh đòi hỏi chủ quyền. Trong 7 năm liền, hai nền kinh tế thứ hai và thứ ba thế giới đã không hề có cuộc gặp thượng đỉnh song phương nào.
Ngày 26-10, Thủ tướng Nhật Bản đã có buổi hội đàm với Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình. Nhân chuyến công du của Thủ tướng Abe, Nhật Bản và Trung Quốc đã ký hàng loạt thỏa thuận kinh tế, trong đó có một thỏa thuận trao đổi ngoại tệ với tổng giá trị tương đương 30 tỉ USD. Các thỏa thuận được ký kết đợt này cho thấy Tokyo và Bắc Kinh muốn củng cố niềm tin, chính thức chấm dứt chuỗi ngày lạnh nhạt giữa hai cường quốc châu Á.
Vì sao lại có chuyển biến này? Theo các nhà bình luận, việc Nhật Bản và Trung Quốc xích lại gần nhau là do chính sách đối ngoại khác thường của Nhà Trắng và chủ trương bảo hộ mậu dịch của Mỹ hiện nay. Là một đồng minh truyền thống của Hoa Kỳ, Thủ tướng Shinzo Abe công du Trung Quốc vào lúc Mỹ và Trung Quốc đang lao vào cuộc chiến thương mại và Washington “tấn công” Bắc Kinh trên nhiều mặt trận.
Tương tự như Bắc Kinh, Tokyo cũng là nạn nhân của các biện pháp bảo hộ mà chính quyền Tổng thống Trump đang áp dụng. Một chuyên gia về Nhật Bản thuộc Đại học Bắc Kinh, được báo Japan Times trích dẫn, cho rằng “đôi bên cần có nhau” và sưởi ấm quan hệ song phương là điều cần thiết hơn bao giờ hết trong bối cảnh “chính sách của ông Donald Trump về châu Á gây nhiều lo ngại”.
Chủ đề được bàn thảo nhiều trong cuộc họp thượng đỉnh này là vấn đề kinh tế, thương mại. Những chủ đề nhạy cảm khác như tranh chấp lãnh thổ, lịch sử, quân sự và chiến lược được gạt qua một bên. Chỉ cần nhìn vào phái đoàn 500 doanh nhân Nhật Bản tháp tùng ông Abe tới Bắc Kinh lần này đủ thấy mục đích của chuyến thăm Bắc Kinh của Thủ tướng Nhật.
Về kinh tế, Nhật Bản không thể lơ là với Trung Quốc, thị trường gần 1 tỷ rưỡi người tiêu dùng và cũng là đối tác thương mại và kinh tế hàng đầu của nhiều tập đoàn xứ hoa anh đào. Ngoài ra, Tokyo vẫn còn choáng váng vì bị Mỹ bỏ rơi khi quyết định rút khỏi Hiệp định Tự do mậu dịch xuyên Thái Bình Dương (TPP). Sau cùng, từ mùa xuân năm nay, điểm tựa của Nhật là Mỹ, lại liên tục dùng lá bài kinh tế và thương mại để hù dọa Tokyo.
Nhiều người cho rằng, nếu Trung Quốc đang không dính vào cuộc chiến thương mại với Mỹ thì có lẽ cũng chưa chắc có cuộc gặp Thủ tướng Nhật Bản ngày 25-10-2018. Bắc Kinh đang cần đến Nhật Bản, đối tác và cũng là đối thủ trong vùng Đông Bắc Á, trong lúc Washington liên tục tăng thuế nhập khẩu nhắm vào hàng Trung Quốc bán sang Hoa Kỳ. Để bảo đảm cho tăng trưởng quốc gia, để đối phó với những đòn tấn công liên tục từ phía một tổng thống chủ trương bảo vệ quyền lợi của nước Mỹ trên hết, ông Tập Cận Bình cần có thêm đồng minh trong vùng châu Á, mà Nhật Bản là một yếu tố không thể thiếu.
Ngoài ra, Trung Quốc cũng muốn hối thúc Nhật tham gia, ít nhất là về mặt biểu tượng, vào một số dự án trong kế hoạch đầy tham vọng “Một vành đai, một con đường”. Theo chuyên gia về quan hệ quốc tế Akio Tahakara, Đại học Tokyo, Trung Quốc vốn có thói quen tìm đến Nhật Bản, khi quan hệ với Hoa Kỳ bị trục trặc. Nhà nghiên cứu Giulio Pugliese, King’s College, ở London, trong một hội thảo cách đây ít tuần, đã tóm lại quan hệ Nhật-Trung trong một câu: “Đó là sự hòa hoãn mang tính chiến thuật”.
Câu hỏi đặt ra là giai đoạn hòa dịu nhất thời này có thể kéo dài bao lâu, nếu căng thẳng bùng lên tại Biển Hoa Đông hay trong vấn đề Đài Loan? Điều cơ bản nhất là Nhật Bản đang hết sức lo ngại trước sức mạnh đang lên của Trung Quốc, muốn thay thế vị trí lãnh đạo của Mỹ tại khu vực. Chiến lược của Nhật là tìm cách đối trọng lại với Trung Quốc. Cụ thể là tham gia vào Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), một thỏa thuận tự do mậu dịch không có Trung Quốc. Hay liên minh với các quốc gia trong vùng cũng chia sẻ nỗi lo ngại này, như Ấn Độ, Úc và một số quốc gia Đông Nam Á. Tokyo cũng chủ trì dự án “khu vực Ấn Độ-Thái Bình Dương tự do và mở” để đối lại tham vọng “Con đường tơ lụa mới” của Bắc Kinh.
Ngoài ra, Thủ tướng Abe cũng phải thận trọng, tránh để thái độ thân thiện với Bắc Kinh khiến Tổng thống Mỹ phẫn nộ, bởi đến nay, ông Donald Trump vẫn treo lơ lửng quyết định đánh thuế nhôm, thép và nhất là xe hơi Nhật bán sang thị trường Mỹ. Đó là chưa kể an ninh của Nhật được đặt trong tay Hoa Kỳ và Washington có thể dùng lá bài này chi phối đối thoại Nhật-Trung. Một số người cho rằng, Nhật Bản có nguy cơ bị kẹt giữa Mỹ và Trung Quốc.
Nhưng theo báo The Economist của Anh, suy nghĩ như vậy là không hiểu gì về dụng tâm của Nhật Bản. Trong việc xích lại gần Bắc Kinh, hầu như Tokyo không cầu cạnh bất kỳ điều gì. Kết quả đáng kể nhất của hội nghị thượng đỉnh Shinzo Abe – Tập Cận Bình là tái lập một thỏa thuận hoán đổi tiền tệ giữa hai ngân hàng trung ương. Nếu được áp dụng toàn diện, có khả năng Trung Quốc, với các ngân hàng ngập nợ và tiền tệ lung lay, sẽ là bên phải cầu cạnh Nhật Bản.
Một số nhà chiến lược phương Tây mô tả thái độ hòa hoãn của Nhật Bản đối với Trung Quốc như là một hành động phô bày chỗ yếu của mình cho người khác đánh. Nhưng đối với The Economist, nếu chủ trương cứng rắn của ông Trump đối với Trung Quốc là nhằm tái khẳng định quyền bá chủ của Mỹ ở châu Á thì chủ trương đó được một số người ở Tokyo ủng hộ nhiệt tình nhất, trong đó có cả Thủ tướng Abe.
Theo nhà nghiên cứu Giulio Pugliese, ngoài đợt hòa hoãn hiện nay vì lý do kinh tế, thương mại, không có bất kỳ cấu trúc mang tính xây dựng nào cho phép Tokyo và Bắc Kinh thiết lập được quan hệ mang tính tin cậy kể cả hiện tại lẫn trong tương lai gần.
M.T. (tổng hợp)