Hiệp định Geneve năm 1954 quy định vĩ tuyến 17 là ranh giới tạm thời giữa hai miền Nam Bắc và khoản 14d của Hiệp định cho phép một khoảng thời gian 300 ngày cho việc di dân tự do giữa hai miền Nam Bắc. Sử liệu từ các nguồn có sự vênh nhất định nhưng đều khẳng định có ít nhất 810.000 người đã di cư từ Bắc vào Nam trong đó ít nhất 75% số đó là tín đồ Công giáo.
Tại sao lại có quá nhiều người bỏ miền Bắc thời kỳ 1954 – 1955 và tại sao đa phần trong số họ lại là người Công giáo? Hai câu hỏi này liên quan trực tiếp với nhau và trả lời được câu hỏi thứ hai sẽ góp phần giải đáp câu hỏi thứ nhất.
Một điểm cần lưu ý trước tiên là vào thời điểm diễn ra Hội nghị Geneve 1954, có khoảng 1.900.000 tín đồ Công giáo ở Việt Nam trong đó chỉ có 520.000 người sống ở phía Nam vĩ tuyến 17, chủ yếu tại Sài Gòn và Huế. Số lượng người Công giáo trong Nam lúc đó chỉ chiếm hơn ¼ tổng số người Công giáo trên toàn Việt Nam. Các số liệu thu thập bởi Việt Nam Cộng Hoà vào tháng 10/1955 cho biết có khoảng 676,348 tín đồ Công giáo từ Bắc đã di cư vào Nam, đẩy số người Công giáo chỉ riêng ở hai giáo khu tại Sài Gòn và Huế lên tới con số 1.170.000 tín đồ.
Con số khổng lồ những người Bắc di cư là sản phẩm của một hỗn hợp các động cơ bên trong và ảnh hưởng bên ngoài, mà yếu tố chi phối bên ngoài lớn nhất chính là các hoạt động “chiến tranh tâm lý” của CIA, cụ thể là Đại tá tình báo Mỹ Lansdale và cấp dưới Lou Conein.
Một sử gia đã mô tả chiến dịch chiến tranh tâm lý đẩy người Công giáo miền Bắc vào Nam của CIA là “một trong những chiến dịch tuyên truyền táo bạo nhất trong lịch sử hoạt động gián điệp”[1]. Nhóm tình báo của Lansdale đã vẽ ra những thông điệp tôn giáo đầy mê tín như “Chúa đã đến miền Nam”, “Đức Mẹ Đồng Trinh đã rời miền Bắc”. CIA cũng thuê các chuyên gia chiêm tinh “soạn lịch dự báo số phận thảm khốc cho giới lãnh đạo Cộng sản và đội ngũ dưới quyền, đồng thời những tin đồn đáng sợ về kế hoạch của Việt Minh được lan truyền.”[2] Linh mục Nguyễn Văn Thuận sau này đã thừa nhận với an ninh Việt Nam rằng những thông điệp như “Đức Mẹ khóc, Chúa đi vào nam” là “những lời xuyên tạc phi lý” để “kích động giáo dân.”[3]
Những thông điệp và tin đồn này được phát tán bằng cả những truyền đơn thả từ máy bay. Lansdale tin rằng biện pháp hiệu quả nhất là “kích động tâm lý sợ hãi rằng Việt Minh sẽ tịch thu tài sản cá nhân”[4], và khẳng định chỉ riêng biện pháp này đã khiến số lượng người đăng ký di cư tăng gấp ba lần.
Không chỉ kích động, Mỹ còn hỗ trợ phương tiện và hậu cần cho việc di cư vào Nam. Tài liệu tổng kết chiến tranh xuất bản tại Mỹ viết: “Mỹ đã tổ chức một lực lượng đặc nhiệm gồm khoảng 50 chiếc thuyền theo một chương trình mang cái tên mĩ miều “Hành trình đến Tự do” và song song với những hoạt động từ thiện tư nhân, họ đã thành lập nhiều trung tâm đón tiếp, cung cấp lương thực, thực phẩm, quần áo và thuốc men khẩn cấp cho dân di cư.”[5]
Một cách khách quan, phải thừa nhận rằng có những nguyên nhân khác của cuộc di cư hậu Geneve. Một trong số đó là tình hình kinh tế bi đát ở miền Bắc những năm 1954. Theo báo cáo của Đại sứ Ba Lan đầu tiên đặt chân tới Hà Nội vào tháng Chạp năm 1954, Tomasz Pietka, “vấn đề di cư đã tăng lên trong thời gian vừa qua, không những người Công giáo mà cả người không Công giáo cũng xin đi vào Nam. Nguyên nhân tình trạng này là nạn thiếu lương thực, thất nghiệp, và cả chiến dịch tuyên truyền Mỹ – Pháp vẫn tiếp tục triển khai.”[6]
Nạn thiếu lương thực từ những năm 1945 ở vùng nông thôn Việt Nam vẫn kéo dài dai dẳng, báo cáo của phái đoàn Ba Lan có nhiệm vụ giám sát Hiệp định Geneve ghi nhận: “những dấu hiệu thiếu đói gây ra bất mãn, ngay trong những người đã tham gia kháng chiến, là những người đã quen ăn rễ củ để tiếp tục chiến đấu giành lại tự do cho Tổ Quốc… Gặp những người phụ trách những bộ quan trọng của Chính Phủ, nhiều khi thấy họ rơm rớm nước mắt khi nói tới những vấn đề của họ.”[7]
Tuy vậy, vai trò của CIA trong việc thúc đẩy người Bắc di cư là then chốt. Tình báo Mỹ tìm mọi cách đẩy dân Công giáo vào Nam để hỗ trợ và tạo vốn chính trị cho Diệm, làm cơ sở dân cư cho tương lai chính trị của Diệm. Diệm không sinh ra ở miền Bắc nhưng là một nhân vật Công giáo nổi bật sinh ra trong một gia đình Công giáo nổi tiếng ở Việt Nam. Đại tá tình báo Mỹ Lansdale đã “cảnh tỉnh” Diệm về vai trò quan trọng của cộng đồng Công giáo đông đảo bởi, khi một cuộc bầu cử ở miền Nam Việt Nam diễn ra, cộng đồng Công giáo lớn sẽ là những “lá phiếu” quan trọng cho Diệm, một người Công giáo thuần thành.
Về phía ngược lại, nhiều người Bắc di cư giai đoạn hậu Geneve muốn đi về phía Diệm với hi vọng những lợi ích cá nhân và lợi ích Công giáo của họ sẽ được đảm bảo tốt hơn nhờ Diệm.
Một số hình ảnh về cuộc di cư 1954:
Chú thích
[1],[2],[4] Peter Hansen (2009). Bắc Di Cư: Dân Công giáo tị nạn từ miền Bắc và vai trò của họ tại Việt Nam Cộng Hoà, 1954 – 1959. Journal of Vietnamese Studies, Vol. 4, No. 3. Bản dịch của Đỗ Hải Yến đăng trên Tạp chí Nghiên cứu Quốc tế.
[3] Nguyễn Văn Thuận. Tự thuật của Linh mục Nguyễn Văn Thuận. Bản viết tay trong thư viện độc lập của Thượng tướng Nguyễn Văn Hưởng.
[5] Herring, G. (2013). Cuộc chiến dài ngày giữa Mỹ và Việt Nam, 1950-1975. McGraw-Hill Higher Education.
[6],[7] Trần Thị Liên. (2005). Vấn đề Công giáo miền bắc Việt Nam qua tư liệu lưu trữ Ba Lan (1954-1956). Văn bản trên Tạp chí Thời Đại Mới.
Bài: trích Phán Xét – Nguyễn Văn Hưởng
Ảnh: Flickr Manhhai