Tại sao Việt Nam dường như sẽ trở thành mục tiêu tiếp theo cho việc đánh thuế của Tổng thống Trump?

Phải chăng đang đến lượt Việt Nam bị Donald Trump làm khó? Trong một cuộc phỏng vấn rầm rộ vào tuần trước với Fox News, Trump đã bất ngờ thổi phồng Việt Nam, một đối tác ngày càng lớn của Mỹ ở Đông Nam Á và là chủ nhà của cuộc gặp thượng đỉnh được dự đoán rất nhiều nhưng cuối cùng đã thất bại giữa Trump với nhà lãnh đạo Triều Tiên Kim Jong Un vào tháng Hai. Nhưng sau đó, khi trả lời câu hỏi về việc áp thuế đối với Việt Nam, ông Trump đã đưa ra những lời lên án mạnh mẽ rằng Việt Nam đang lợi dụng Mỹ.

Đó là một khoảnh khắc mà các quan chức Việt Nam vẫn lo sợ kể từ khi Tổng thống Trump nhậm chức. Trong vài giờ kể từ khi nhậm chức vào tháng 1 năm 2017, ông Trump đã đưa Hoa Kỳ ra khỏi Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương, hay TPP, trọng tâm của chính sách thương mại của Tổng thống Barack Obama. Nó sẽ ràng buộc Mỹ, Việt Nam và mười quốc gia Thái Bình Dương khác trong thỏa thuận thương mại tự do táo bạo nhất thế giới, một hiệp ước bao gồm một phần ba thương mại hàng hóa và dịch vụ thế giới và đặt ra các tiêu chuẩn cao về điều kiện làm việc, quản lý môi trường và bảo vệ sở hữu trí tuệ.

Đàm phán TPP là một bước tiến của Việt Nam. Hà Nội đã nắm bắt cơ hội để tiến lên, dưới sự bảo trợ của Hoa Kỳ và các đồng minh ở Châu Á, hướng tới một cấp độ ưu tú trong hệ thống thương mại thế giới. Việc Trump kết thúc thỏa thuận này chỉ là động thái đầu tiên trong nhiều động thái của Nhà Trắng coi chính sách đối ngoại và đặc biệt là chính sách thương mại chỉ đơn giản là “Chúng ta sẽ được gì?” Trump đặc biệt để ý tới những nước có sự mất cân bằng thương mại lớn với Hoa Kỳ. Với thặng dư thương mại lớn và ngày càng tăng của Việt Nam, 42 tỷ đô la xuất khẩu sang Hoa Kỳ và 10 tỷ đô la nhập khẩu trong năm 2016, thì đồng hồ đang đếm ngược giờ.

Vào tháng 5 năm 2017, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã đến thăm Washington và cam kết mua nhiều sản phẩm của Mỹ để xoa dịu Trump. Trong những tháng tiếp theo, ông và các nhà lãnh đạo cấp cao khác của Đảng Cộng sản Việt Nam đã tranh thủ mọi cơ hội để nhắc nhở Hoa Kỳ về giá trị của Việt Nam như một sự khác biệt nổi bật so với Trung Quốc. Các nhà lãnh đạo Hà Nội đã hết sức cố gắng để trở thành những người bạn hữu ích, đến mức phải im lặng khi Trump và những người đại diện của ông đưa Việt Nam ra như một tấm gương sáng về những gì Triều Tiên có thể noi theo nếu Bình Nhưỡng từ bỏ giấc mơ hạt nhân.

Điều mà các quan chức Việt Nam không thể làm được là ngăn chặn sự mất cân bằng thương mại song phương gia tăng hơn nữa. Có lẽ có một điều họ có thể làm nhưng chưa làm là ngăn cản các công ty Trung Quốc đổi thương hiệu hàng tỷ đô la hàng hóa có nguồn gốc từ Trung Quốc thành hàng hóa sản xuất tại Việt Nam.

Hiện tượng đổi nhãn mác, mà các quan chức thương mại Hoa Kỳ gọi là “trung chuyển”, không phải là hiện tượng mới. Gần như ngay khi hàng xuất khẩu của Trung Quốc tăng vọt so với hạn ngạch ở châu Âu và Mỹ cách đây hơn chục năm, các công ty Trung Quốc đã tìm kiếm, hoặc thành lập, các công ty Việt Nam để hoàn thiện sản phẩm may mặc và giày dép nhập khẩu từ Trung Quốc và sau đó gửi đi rất nhiều cửa hàng của các chuỗi Walmart và Euromarché.

Năm 2015, khi chính quyền Obama áp đặt phí chống bán phá giá đối với các nhà sản xuất thép cán nguội của Trung Quốc, Việt Nam đã cho phép các nhà sản xuất Trung Quốc này chuyển đổi rất ít sản phẩm của họ tại các nhà máy Việt Nam và sau đó tái xuất sang Mỹ. Washington đã phản ứng chậm, nhưng vào tháng 5 năm 2018, chính quyền Trump đã đóng sập cửa, áp thuế đối kháng nặng nề đối với các sản phẩm được cho là của Việt Nam này. Hà Nội hầu như không buồn phản đối.

Sau đó, vào tháng 7 năm 2018, chính quyền Trump quyết định áp thuế 25% đối với khoảng 200 tỷ đô la hàng hóa Trung Quốc, tạo ra một làn sóng lừa đảo thương hiệu mới. Trong vài tuần, hàng hóa Trung Quốc đã được định tuyến lại sang các nước láng giềng với cơ sở hạ tầng cảng phát triển tốt, các quan chức hải quan “dễ uốn nắn” và đã có một bảng màu hàng sản xuất xuất khẩu lớn sang Hoa Kỳ – điều đó hầu hết đồng nghĩa với Việt Nam. Đôi khi không phải làm gì khác ngoài việc thay đổi nhãn mác, hàng hóa sau đó được chuyển đến các cảng của Hoa Kỳ.

Chẳng hạn như các tấm pin năng lượng mặt trời. Kể từ năm 2012, Washington đã cố gắng hết sức để giữ cho một số nhà sản xuất tấm pin năng lượng mặt trời của Hoa Kỳ có thể hoạt động cầm chừng bằng cách áp thuế chống bán phá giá đối với các đối thủ cạnh tranh Trung Quốc bị cho là sao chép công nghệ và được bao cấp. Với đợt thuế quan đầu tiên của Trump vào giữa năm 2018 bổ sung thêm vào các loại thuế đối kháng vốn đã rất nặng nề, các loại pin và tấm pin mặt trời Trung Quốc không còn tồn tại được nữa ở thị trường Mỹ. Trong khi đó, theo dữ liệu của Phòng Thương mại Trung Quốc, trong quý đầu tiên của năm 2019, xuất khẩu tấm pin mặt trời từ Trung Quốc sang Việt Nam đã tăng vọt lên 739 triệu USD từ mức gần 0 một năm trước đó.

Tờ South China Morning Post có trụ sở tại Hồng Kông đưa tin rằng rõ ràng là “các công ty Trung Quốc đang sử dụng Việt Nam như một cách để giải quyết thuế quan: bán các bộ phận của họ cho các công ty ở Việt Nam để hoàn thiện và lắp ráp, thay đổi đáng kể hàng hóa để đáp ứng các tiêu chuẩn xuất xứ, sau đó xuất khẩu sang thị trường Mỹ và người tiêu dùng cuối cùng.”

Năm 2018, theo dữ liệu hải quan của Mỹ, Hoa Kỳ đã nhập khẩu 49,2 tỷ đô la hàng hóa và dịch vụ của Việt Nam trong khi xuất khẩu sang Việt Nam trị giá chỉ 9,7 tỷ đô la. Dữ liệu từ những tháng đầu năm 2019 cho thấy xuất khẩu của Việt Nam tăng mạnh hơn nữa trong tất cả các danh mục áp dụng thuế quan của Hoa Kỳ. Đó là một cú hích lớn trong thương mại song phương, nhưng không phải là một biến dạng thực sự lớn trong một thế giới thương mại đa phương. Hoa Kỳ thường bán ít thứ cho các nước đang phát triển hơn so với nhập khẩu từ các nước này. Và trớ trêu thay, Việt Nam đã có tất cả những gì cần thiết để làm rất tốt trong thương mại toàn cầu mà không cần chuyển nhãn trên hàng hóa Trung Quốc, và từ đó tự đặt mình ra trước sự trừng phạt của Hoa Kỳ và có lẽ cả các đối tác thương mại khác. Việt Nam có một lực lượng lao động tương đối trẻ, lương thấp và áp đặt ít gánh nặng cho các nhà đầu tư nước ngoài. Việt Nam là một phần trong thỏa thuận thương mại toàn diện với tất cả các quốc gia đã đàm phán TPP, nhưng hiện tại đã trừ Hoa Kỳ; và, kể từ ngày 30 tháng 6, nước này có thỏa thuận thương mại tự do với Liên minh châu Âu. Việt Nam là “cục cưng” hiện nay của các công ty công nghệ cao đa quốc gia đang tìm kiếm những nơi khác ngoài Trung Quốc để sản xuất sản phẩm của họ.

Việt Nam nhận thức rõ rằng có một vấn đề trung chuyển kinh niên. Báo chí quốc gia đã đưa tin rằng Cơ quan Hải quan Việt Nam đang nhanh chóng thắt chặt kiểm soát các giấy chứng nhận xuất xứ đáng ngờ của hàng xuất khẩu. Các phương tiện truyền thông Việt Nam có thể đã nói nhiều hơn nữa, nếu kiểm duyệt nhà nước cho phép. Họ có thể suy đoán rằng Hà Nội đã cho phép các công ty Trung Quốc né tránh thuế quan của Mỹ như một sự nhượng bộ đối với nước láng giềng hùng mạnh.

Trung chuyển là kiểu thực tiễn mờ ám mà Hà Nội cần phải dừng lại để có được một vị trí an toàn trong câu lạc bộ thương mại thế giới. Việt Nam phải chịu rất nhiều ác ý và gần như không có lợi ích gì khi hàng hóa của Trung Quốc hoặc các nước khác đi qua các nhà máy và cảng của Việt Nam chỉ để có được một nhãn hiệu mới. Mặc dù chính quyền Trump có thể có tầm nhìn phiến diện về hầu hết các vấn đề thương mại, nhưng về việc trung chuyển thì họ đã đúng. Chừng nào Việt Nam còn giúp đỡ cho các mưu đồ của Trung Quốc để trốn tránh các hạn chế thương mại của Hoa Kỳ, thì họ không có cơ hội nhận được sự công nhận của Hoa Kỳ rằng họ đã trở thành một “nền kinh tế thị trường”, một vị thế có thể bảo vệ đáng kể cho họ trước các loại thuế chống bán phá giá và đối kháng của Hoa Kỳ.

Những cuộc tranh cãi thương mại của Trump với Việt Nam vẫn là một biểu hiện không mấy quan trọng so với một cuộc thách đấu thảm khốc có thể xảy ra giữa Mỹ với Trung Quốc. Rõ ràng là Việt Nam sẽ có lợi khi giữ họ theo cách đó bằng cách đóng cửa việc trung chuyển tránh né. May mắn thay cho Việt Nam, có một giải pháp đơn giản giúp củng cố nền kinh tế của chính họ. Nước này có thể đánh thuế xuất khẩu lành mạnh đối với bất kỳ hàng hóa nào không thể hiện, giả sử là 5%, giá trị gia tăng ở Việt Nam. Ngoài ra, Việt Nam có thể chỉ đơn giản là cấm xuất khẩu những hàng hóa đó.

Mọi quốc gia châu Á công nghiệp hóa nhanh chóng ban đầu đều được Mỹ và các đối tác thương mại lớn khác của phương Tây yêu thích và sau đó, khi sức mạnh thị trường của nó trở nên ghê gớm, nước đó sẽ bị ép buộc phải tuân theo các quy tắc thương mại quốc tế. Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore và Đài Loan đều đã vượt qua rào cản này nhiều năm trước, và không có nước nào không phải trải qua những xáo trộn lớn. Việt Nam vẫn đang trong giai đoạn tập sự, và phải tìm ra kỷ luật tự giác để ưu tiên cho những lợi ích lớn hơn của mình.

Minh Thư dịch

(Theo World Politics Review)

BÌNH LUẬN

BÀI VIẾT LIÊN QUAN