Từ truyền thống đến đương đại: Làng xã Việt Nam dưới lăng kính biến đổi xã hội

Làng xã Việt Nam là một hình thái tổ chức xã hội đã tồn tại, thích ứng và biến đổi liên tục qua mấy nghìn năm lịch sử. Bàn về làng xã, nhà nghiên cứu Trần Từ (1984)[2] nhấn mạnh rằng khái niệm “làng” có nguồn gốc từ chữ Nôm, được dùng để gọi đơn vị định cư nhỏ nhất và chính thức của người Kinh còn thuật ngữ “xã” có nguồn gốc từ chữ Hán, được dùng để chỉ đơn vị hành chính cơ sở của xã hội nông thôn Việt Nam. Như vậy, làng xã không chỉ là đơn vị hành chính, mà còn là địa bàn cư trú lâu đời của người Kinh, nơi kiến tạo nên không gian sinh tồn, không gian sống đậm chất văn hóa, thấm đẫm ký ức lịch sử, phản ánh rõ nét những biến thiên của xã hội và chiều sâu bản sắc Việt. Nhà nghiên cứu Jonathan Rigg (1994)[3] từng nhận định rằng, làng không chỉ là một đơn vị phân tích quan trọng theo nghĩa đen – như một thực thể địa lý và xã hội – mà còn mang sức nặng biểu tượng trong việc hiểu về cội nguồn và đời sống dân cư. Từ góc nhìn khác, Lương Văn Hy (2010)[4] khẳng định rằng làng Việt chính là tấm gương phản chiếu rõ nét tiến trình biến đổi và những tầng sâu liên tục trong đời sống xã hội Việt Nam. Đỗ Thái Đồng (1995)[5] lại gợi nhắc ta rằng, dẫu trải qua bao đổi thay, làng vẫn lưu giữ được những mạch ngầm bền bỉ của quan hệ họ hàng, tình cảm cộng đồng và phong tục tập quán. Trải qua những chặng đường dài của lịch sử, làng xã Việt Nam không ngừng biến đổi – từ cấu trúc không gian, tổ chức cộng đồng, đến thiết chế quản lý, bản sắc văn hoá và đời sống cư dân – phản ánh sinh động sự vận động của xã hội Việt Nam theo thời gian.

Làng xã truyền thống: tự trị, bền vững và gắn bó với nông nghiệp

Trước thế kỷ XX, xuyên suốt lịch sử lâu dài của dân tộc, làng xã truyền thống đã là hạt nhân của xã hội nông thôn Việt Nam. Từ đồng bằng Bắc Bộ mô hình làng xã theo bước chân khai phá của người Việt lan rộng khắp Trung Bộ và Nam Bộ. Với tính tự trị vững chắc, sự ổn định lâu dài và mối liên hệ chặt chẽ với sản xuất nông nghiệp, làng xã là chiếc nôi nuôi dưỡng nền văn minh nông nghiệp Việt Nam. Bàn về hình ảnh làng Việt cổ truyền, nhà nghiên cứu John Kleinen (1999)[6] miêu tả “đó là nơi mà người ta ẩn mình sau những rặng tre và là nơi mà truyền thống được lưu giử từ ngàn xưa”. Làng truyền thống có ranh giới rõ ràng, được xác định bằng lũy tre, dòng sông, con đê, bến nước, cây đa. Cấu trúc không gian điển hình với trung tâm là đình làng, chùa làng, giếng nước – nơi hội tụ sinh hoạt tín ngưỡng, văn hóa cộng đồng, xung quanh là nhà ở dân cư, ruộng đồng và hệ thống đường làng, ngõ xóm. Cách tổ chức này tạo ra sự bền chặt về quan hệ xã hội và tính cộng đồng cao trong đời sống cư dân. Làng xã cũng là đơn vị hành chính – tự quản đặc biệt, “phép vua thua lệ làng”, với bộ máy tự quản hoạt động theo hương ước – một dạng luật tục được cộng đồng tôn trọng. Thiết chế xã hội này vừa duy trì trật tự xã hội, vừa gìn giữ đạo lý, phong tục và bản sắc văn hóa làng. Thế nên Trần Đình Hượu (1996)[7] nhận định làng là “một thế giới riêng, mọi người dân làng tự thấy đủ, có thể dựa vào thiết chế của làng, tinh thần cộng đồng làng, tình nghĩa bà con xóm làng mà sống”, “sự ổn định của làng dựa vào tính cộng đồng, tính đóng kín đó”.

Làng xã dưới thời thuộc địa: tan rã dần mô hình truyền thống

Từ nửa sau thế kỷ XIX, với sự xâm lược và thiết lập chế độ thuộc địa của thực dân Pháp, làng xã Việt Nam bước vào một khúc quanh lịch sử đầy biến động và khó khăn. Nhà nghiên cứu Nguyễn Thế Anh (2003)[8] chỉ ra rằng sự thay đổi trong đời sống làng xã rõ rệt trong giai đoạn thuộc địa, khi những người cầm quyền can thiệp vào làng xã với những chính sách và cải cách mới. Chính quyền thuộc địa thay đổi cấu trúc hành chính, áp đặt hệ thống cai trị và từng bước làm xói mòn tính tự trị của làng xã. Dưới tác động của chế độ sưu thuế nặng nề, cưỡng bức lao dịch, cộng thêm sự xâm nhập của hàng hóa công nghiệp và quan hệ sản xuất tư bản thuộc địa, mô hình làng truyền thống phần nào bị phá vỡ. Nhiều nông dân mất đất, trở thành bần nông, đi phu đồn điền, tham gia buôn bán nhỏ hoặc di cư lên thành thị. Sự phân hóa giai cấp trong nội bộ làng gia tăng, làm rạn vỡ cấu kết cộng đồng. Về văn hóa, Trần Đình Hượu (1996)[9] nhận định rằng lối sống, giáo dục và cả nền quản trị thực dân đã góp phần làm chuyển đổi làng Việt. Minh chứng cụ thể là một số người có học vấn cao hoặc giàu có lúc đó đã dùng xà phòng Tây, đọc tiểu thuyết, bắt chước lối sống mới, một số khác thì đến thành phố để học hay làm việc. Tuy nhiên, văn hóa làng xã vẫn tiếp tục duy trì vai trò quan trọng trong đời sống xã hội – đặc biệt ở nông thôn Bắc Bộ. Trong bối cảnh đất nước rơi vào ách đô hộ, nhiều làng xã đã trở thành căn cứ địa của phong trào cách mạng, vận dụng mạng lưới họ tộc, phường hội và hệ thống hương ước như những nền tảng xã hội truyền thống để củng cố tinh thần đoàn kết và đấu tranh chống áp bức.

Bắc Ninh, khoảng thập niên 1930. Nguồn: Flickr manhhai

Làng xã sau Cách mạng tháng Tám đến trước đổi mới: tập thể hóa và quản lý tập trung

Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, làng xã Việt Nam không còn là một không gian tĩnh lặng mang dáng dấp truyền thống, mà bước vào một hành trình lịch sử đầy biến động, kéo dài suốt bốn thập kỷ với những bước ngoặt lớn lao. Ba mươi năm đầu (1945 – 1975) là quãng thời gian ngập tràn khói lửa chiến tranh, khi hàng triệu cư dân nông thôn rời xa quê nhà để tham gia kháng chiến. Nhà nhân học Oscar Salemink (2023)[10] gọi sự dịch chuyển nhân lực và nguồn lực với hàng triệu cư dân làng Việt từ miền Bắc đã rời khỏi lũy tre quê hương để vào miền Nam tham gia giải phóng dân tộc là một hình thức “Nam Tiến” trong thời hiện đại. Tiếp đó là mười năm (1976 – 1985) của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội với cường độ cao, khi những chính sách hợp tác hóa nông nghiệp, cải tạo quan hệ sản xuất và tổ chức lại đời sống cộng đồng đã làm thay đổi sâu sắc diện mạo làng quê. Sau ngày thống nhất đất nước (1975), làn sóng di cư tiếp tục lan rộng, khi nhiều nông dân miền Bắc rời làng quê của mình tiến về phương Nam để sinh sống và lập nghiệp, học giả Oscar Salemink (2023) coi đó một chương mới của Nam Tiến trong bình yên và kiến tạo. Trước dòng xoáy lịch sử ấy, làng xã – vốn được xem như một thiết chế truyền thống ổn định, gắn bó chặt chẽ với không gian cư trú và các mối quan hệ cộng đồng – đã chuyển mình mạnh mẽ. Những biến đổi sâu sắc không chỉ diễn ra ở cấu trúc xã hội, mà còn lan tới tổ chức nội bộ, không gian sinh hoạt, tập quán canh tác và cả cách con người gắn bó với quê hương của mình.

Trong giai đoạn này chính sách hợp tác hóa nông nghiệp đánh dấu một bước ngoặt lớn trong cấu trúc tổ chức làng xã. Những làng quê vốn mang tính cộng đồng tự quản, gắn bó với dòng họ, đình làng và hương ước, nay được tổ chức lại theo mô hình hợp tác xã -nơi đất đai, tư liệu sản xuất được tập trung hoá, lao động được tổ chức theo đội, và quyền lực cộng đồng được thay thế bằng hệ thống quản lý hành chính – tập trung.[11] Những thiết chế truyền thống dần bị lu mờ: đình làng không còn là trung tâm sinh hoạt tâm linh – xã hội; họ tộc mất dần vai trò điều tiết đời sống; hương ước mất đi vai trò trong đời sống làng xã[12]. Không gian vật chất của làng quê cũng chịu tác động rõ nét. Những nếp nhà truyền thống bị thay thế hoặc quy hoạch lại trong các khu dân cư mới. Tập thể hóa không chỉ làm thay đổi cơ cấu sản xuất mà còn dẫn đến sự biến dạng trong lối sống cộng đồng – khi tinh thần cố kết truyền thống dần bị thay thế bởi các chuẩn mực tập thể.

Chiếc máy cày Chủ tịch Hồ Chí Minh tặng Hợp tác xã Đại Phong (Quảng Bình), lá cờ đầu của ngành nông nghiệp, thực hiện luống cày đầu trước sự vui mừng của bà con xã viên (tháng 6/1961). Ảnh: TTXVN

Làng xã thời kỳ đổi mới: biến đổi mạnh mẽ và đa chiều

Bước vào thời kỳ Đổi mới sau năm 1986, khi Việt Nam chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, làng xã truyền thống bắt đầu trải qua một quá trình biến đổi sâu rộng chưa từng có trong lịch sử hiện đại. Những thay đổi này không chỉ giới hạn ở một vài lĩnh vực đơn lẻ, mà lan tỏa trên mọi phương diện của đời sống làng xã: từ không gian cư trú ngày càng bị đô thị hóa và phi nông nghiệp hóa, đến tổ chức sản xuất nông nghiệp chuyển dịch theo hướng hàng hóa và thị trường; từ cơ cấu dân cư biến động mạnh mẽ với sự dịch chuyển của lao động trẻ, đến các quan hệ xã hội truyền thống bị thách thức bởi lối sống cá nhân và hiện đại; từ hệ giá trị văn hóa cốt lõi được tái định hình, cho đến những biểu tượng và nghi lễ cộng đồng dần thích ứng với điều kiện mới. Trong bối cảnh ấy, làng xã Việt Nam trở thành một thực thể năng động, đan xen giữa truyền thống và hiện đại, giữa bản sắc địa phương và các luồng ảnh hưởng toàn cầu.

Trước hết, không gian làng xã Việt Nam kể từ thời kỳ Đổi mới đã trải qua những biến chuyển sâu sắc, không chỉ về cấu trúc vật chất mà còn về ý nghĩa biểu tượng gắn liền với ký ức cộng đồng. Quá trình đô thị hóa, công nghiệp hóa và mở rộng mạng lưới hạ tầng giao thông đã làm lung lay nền tảng khép kín vốn đặc trưng của không gian làng truyền thống, mở rộng các làng xã ra khỏi giới hạn địa phương và tích hợp chúng vào các vùng liên kết kinh tế – xã hội lớn hơn.[13] Những hình ảnh quen thuộc như lũy tre làng, cổng làng rêu phong hay con đường đất đỏ quanh co từng là biểu tượng của sự gắn bó và trầm lặng, dần nhường chỗ cho đường bê tông, nhà tầng kiên cố và các khu dân cư kiểu mới. Sự thay đổi ấy không chỉ làm thay đổi cảnh quan mà còn tái định nghĩa cách cư dân nông thôn cảm nhận và tương tác với không gian sống của chính mình. Đặc biệt, ranh giới giữa nông thôn và đô thị ngày càng mờ dần, tạo nên những “vùng chuyển tiếp” hay “không gian bán đô thị”, nơi các yếu tố truyền thống và hiện đại cùng tồn tại, đan xen, thậm chí xung đột. Chính trong những không gian này, ta có thể quan sát rõ nét quá trình chuyển hóa của làng xã Việt Nam trong thời kỳ hậu Đổi mới – một quá trình không chỉ mang tính vật chất mà còn chất chứa nhiều lớp chiều sâu xã hội và văn hóa.

Trong lĩnh vực kinh tế, công cuộc Đổi mới năm 1986 đã tạo ra bước ngoặt quan trọng đối với tổ chức sản xuất ở làng xã Việt Nam. Việc giải thể hợp tác xã nông nghiệp kiểu cũ và thực hiện chính sách khoán sản phẩm đã mang lại quyền chủ động sản xuất cho hộ gia đình – đơn vị kinh tế cơ bản của nông thôn[14]. Từ đó, mô hình tổ chức sản xuất chuyển từ tập thể hóa sang kinh tế hộ gia đình, với tính đa dạng cao về cây trồng, vật nuôi và phương thức canh tác. Cùng với sự phát triển của thị trường, nhiều hộ gia đình đã mở rộng quy mô sản xuất, liên kết theo hình thức tổ hợp tác, hợp tác xã kiểu mới hoặc doanh nghiệp nông thôn[15]. Trên thực tế, sự phát triển của kinh tế hộ gia đình không chỉ đơn thuần mang lại những thay đổi về thu nhập và sản xuất, mà còn tạo ra những chuyển biến sâu sắc trong cấu trúc xã hội làng quê Việt Nam. Nguyễn Đức Truyến (2003)[16] đã nhấn mạnh rằng sự phát triển của kinh tế hộ gắn liền với quá trình tái cấu trúc các mối quan hệ xã hội truyền thống – từ gia đình hạt nhân, quan hệ họ hàng cho đến quan hệ cộng đồng làng xã. Từ những lát cắt thực địa, Fleur Thomése và Nguyễn Tuấn Anh (2007)[17] chỉ ra rằng trong bối cảnh kinh tế hộ phát triển, các mối quan hệ họ hàng không những không suy giảm mà còn được củng cố, trở thành mạng lưới hỗ trợ kinh tế – xã hội hiệu quả ở nông thôn. Ở một góc độ khác, Mai Văn Hai và Nguyễn Tuấn Anh (2013)[18] cho rằng chính sự trỗi dậy của kinh tế hộ gia đình là biểu hiện sinh động cho quá trình hội nhập của làng xã với nền kinh tế thị trường – nơi mà mỗi gia đình vừa là đơn vị sản xuất, vừa là điểm tựa trong mạng lưới liên kết cộng đồng. Ngoài nông nghiệp, tổ chức sản xuất ở các làng xã cũng ghi nhận sự phát triển mạnh của các ngành phi nông như tiểu thủ công nghiệp, làng nghề, dịch vụ và lao động di cư[19]. Đô thị hóa và công nghiệp hóa nông thôn diễn ra mạnh mẽ: nhiều làng ven đô trở thành phường, khu đô thị, cụm công nghiệp; nhà cao tầng mọc lên giữa ruộng đồng; lớp trẻ rời quê đi làm ăn xa. Cơ cấu dân cư thay đổi, sự phân hóa giàu nghèo gia tăng, mối quan hệ cộng đồng lỏng lẻo hơn trước.[20] Quá trình này không chỉ làm thay đổi cơ cấu kinh tế nông thôn mà còn làm xuất hiện các mô hình tổ chức sản xuất linh hoạt hơn, vượt khỏi ranh giới làng truyền thống. Tuy nhiên, quá trình chuyển đổi kinh tế này cũng đặt ra nhiều vấn đề, như phân hóa giàu nghèo, thiếu liên kết chuỗi giá trị, và những thách thức trong tiếp cận thị trường, đất đai, và công nghệ. Nhìn chung, tổ chức sản xuất ở làng xã thời kỳ Đổi mới phản ánh xu hướng cá nhân hóa, thị trường hóa, đồng thời mở ra những cơ hội mới, đa dạng cho phát triển nông thôn[21].

Trên phương diện chính trị và quản lý ở làng xã, nhà nghiên cứu Nguyễn Tuấn Anh (2024) nhấn mạnh sự trở lại của tự quản cấp thôn và vai trò của hương ước trong giai đoạn Đổi mới. Vai trò của cấp thôn và trưởng thôn được khẳng định trở lại như một thiết chế tự quản cộng đồng, kế thừa phần nào cơ chế quản lý làng xã truyền thống trước năm 1945[22]. Các văn bản quan trọng đã chính thức xác lập thôn là tổ chức tự quản của dân cư, với trưởng thôn do người dân trực tiếp bầu. Bên cạnh đó, hương ước – từng bị mất vai trò sau Cách mạng Tháng Tám – cũng dần được khôi phục và thể chế hóa từ đầu thập niên 1990, trở thành công cụ điều chỉnh nhiều mặt đời sống làng xã như sản xuất, môi trường, an ninh, văn hóa và tín ngưỡng[23]. Sự phục hồi của cấp thôn và hương ước cho thấy xu hướng tái thừa nhận vai trò của tự quản cộng đồng và dân chủ cơ sở truyền thống trong quản trị nông thôn thời kỳ Đổi mới.

Những giá trị cốt lõi của làng xã cần được bảo tồn và dung hòa với nhịp phát triển mới. Hình ảnh tại làng gốm cổ Chu Đậu. Ảnh: Hồng Kỳ/TTXVN

Về đời sống văn hóa làng xã, trong giai đoạn Đổi mới, sự phục hồi lễ hội cộng đồng ở làng và gia tăng lễ nghi trong các sự kiện của chu trình đời người là những chuyển biến đáng lưu ý. Nhà nghiên cứu Trần Từ (1984) nhấn mạnh rằng trong xã hội truyền thống, không gian văn hóa tín ngưỡng của làng Việt xưa gắn bó mật thiết với các thiết chế quan trọng như đình, đền, miếu[24]. Đó không chỉ là những thiết chế quan trọng của đời sống làng xã mà còn là những những biểu tượng thiêng liêng của cư dân làng Việt: mái đình rêu phong, ngôi chùa cổ kính, đền thờ thành hoàng hay văn miếu uy nghiêm. Thế nhưng, bước sang thời kỳ sau Cách mạng Tháng Tám, những không gian ấy đã trầm lắng trong nhịp sống mới, khi làng xã nỗ lực xây dựng một nền văn hóa xã hội chủ nghĩa, hướng đến sự giản lược và hiện đại. Từ cuối những năm 1980, khi bước vào thời kỳ đổi mới, văn hoá làng xã đã có những chuyển biến biến lớn. Trong giai đoạn Đổi mới, đời sống văn hóa – tín ngưỡng ở làng xã chứng kiến hai chuyển biến đáng chú ý: sự phục hồi các hoạt động liên quan đến đình, đền, chùa và sự gia tăng các lễ nghi thờ cúng tổ tiên, tang ma, cưới hỏi. Nhiều nghiên cứu thực địa tại các làng miền Bắc và Bắc Trung Bộ đều chỉ ra sự khôi phục lễ hội truyền thống và nghi thức tín ngưỡng gắn với di sản văn hóa. Các lễ cưới, tang được tổ chức với quy mô lớn hơn, mang dấu ấn rõ nét của nghi lễ cổ truyền, phản ánh sự hồi sinh mạnh mẽ của văn hóa dân gian trong bối cảnh đổi mới. John Kleinen (1999)[25] kể lại việc một ngôi làng ở miền Bắc bắt đầu tổ chức lại hội làng từ năm 1990; Truong Huyen Chi (2004)[26] cho thấy sự hồi sinh các nghi thức truyền thống bắt đầu từ khi ngôi chùa của làng được công nhận là di tích văn hóa. Gia Hung Nguyen (2015)[27] nhấn mạnh sự trở lại mạnh mẽ của hội làng – nơi cộng đồng gặp gỡ, sum vầy và cùng khẳng định bản sắc. Không chỉ vậy, trong từng nếp nhà, hương khói thờ cúng tổ tiên cũng trở nên đượm đà hơn như Nguyễn Tuấn Anh (2010)[28] nhận thấy tại một làng Bắc Trung Bộ, nơi các nghi lễ thờ cúng tổ tiên được tổ chức đầy đủ và trang trọng hơn trước. Những đám cưới làng quê cũng gia tăng các lễ nghi và mở rộng quy mô, với cả trăm mâm cỗ như Malarney (2002)[29] và Lương Văn Hy (1993)[30] từng ghi lại. Tang lễ – một sự kiện quan trọng trong chu trình đời người – cũng có sự trở lại của nhiều nghi thức cổ truyền mà Malarney (2002) mô tả như một minh chứng cho sự hồi sinh bền bỉ của văn hóa làng quê Việt Nam.

Làng xã đương đại: Thích ứng và phát triển trong giai đoạn mới

Hiện nay, trong bối cảnh chuyển đổi số được tăng cường, chương trình nông thôn mới được đẩy mạnh và hệ thống các đơn vị hành chính cấp xã được sắp xếp lại, làng xã Việt Nam đang đứng trước “bài toán kép” về thích ứng và phát triển. Chủ trương xây dựng nông thôn mới, khởi nguồn từ Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 (Khóa X) và được cụ thể hóa qua Bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới (2009), đã trở thành nền tảng quan trọng trong quá trình chuyển đổi toàn diện làng xã Việt Nam[31]. Bộ tiêu chí gồm 19 tiêu chí thuộc 5 lĩnh vực: quy hoạch, hạ tầng kinh tế – xã hội, kinh tế và tổ chức sản xuất, văn hoá – xã hội – môi trường, và hệ thống chính trị. Việc triển khai chương trình xây dựng nông thôn mới trên thực tế đã tạo nên những thay đổi sâu sắc và toàn diện ở các vùng nông thôn trên cả nước[32]. Trước hết là biến đổi không gian làng xã, thể hiện qua quy hoạch sử dụng đất, xây dựng hạ tầng và chỉnh trang khu dân cư, làm thay đổi diện mạo của làng xã. Nhiều nơi xuất hiện khu dân cư mới, các công trình công cộng hiện đại. Thứ hai là biến đổi kinh tế và tổ chức sản xuất, với những cải thiện rõ rệt về thu nhập, giảm tỷ lệ hộ nghèo, và chuyển dịch cơ cấu lao động, hình thức sản xuất. Thứ ba là biến đổi trong lĩnh vực văn hoá – xã hội – môi trường, thông qua việc nâng cao chất lượng giáo dục, y tế, bảo hiểm y tế, và cải thiện môi trường sống. Thứ tư là biến đổi về quản lý và an ninh trật tự ở cơ sở, khi nhiều xã đạt chuẩn hệ thống tổ chức chính trị vững mạnh, giữ vững ổn định an ninh nông thôn. Nhìn tổng thể, chính sách xây dựng nông thôn mới đã và đang trở thành động lực then chốt cho sự chuyển mình toàn diện của làng xã Việt Nam. Những biến đổi này trải rộng trên nhiều phương diện – từ không gian vật chất đến kinh tế, xã hội, văn hóa và thể chế quản lý – phản ánh bước tiến mạnh mẽ của nông thôn trong quá trình hiện đại hóa và hội nhập.

Việc sáp nhập các đơn vị hành chính cấp xã và dừng hoạt động chính quyền cấp huyện mới đây không đơn thuần là sự thay đổi địa giới hành chính, mà còn là một quá trình tái cấu trúc sâu rộng không gian tổ chức và cơ chế vận hành của đời sống làng xã Việt Nam. Những “xã mới” hiện nay có quy mô lớn hơn, dân số đông hơn và tiềm lực phát triển mạnh hơn. Không gian kinh tế làng xã được mở rộng khi hạ tầng, đất đai và nguồn lực sản xuất được điều phối hợp lý hơn giữa các thôn xã từng riêng rẽ. Không gian văn hóa cũng trở nên phong phú hơn khi các cộng đồng làng xã mang theo những giá trị riêng biệt cùng gặp gỡ, giao lưu, bổ sung và làm giàu thêm cho nhau. Trên bình diện quản lý, mô hình “chính quyền hai cấp” – tỉnh và xã – giúp bộ máy hành chính trở nên tinh gọn, minh bạch và gần dân hơn. Những tầng nấc trung gian vốn làm chậm quá trình xử lý công việc được cắt giảm, thay vào đó là hệ thống hành chính hiện đại vận hành trên nền tảng công nghệ số, trực tiếp phục vụ người dân từ cấp xã mở rộng. Quyền lực chính trị ở cơ sở không bị phân tán mà được củng cố theo hướng tập trung hiệu quả, tạo điều kiện cho việc hoạch định chính sách, điều hành và giám sát tốt hơn trong từng khu vực. Tất nhiên, sự mở rộng không gian làng xã là một hành trình đòi hỏi thời gian và sự thích ứng. Những giá trị cốt lõi của làng xã – từ bản sắc văn hóa, tên gọi thân thương đến các thiết chế cộng đồng lâu đời – cần được bảo tồn và dung hòa với nhịp phát triển mới. Về tổng thể, đây là thời cơ để làng xã Việt Nam chuyển mình trong không gian phát triển liên vùng và toàn quốc.

Cần có một chiến lược phát triển bền vững để làng xã vừa phát triển kinh tế, vừa ổn định xã hội, đồng thời bảo tồn được văn hóa và bản sắc. Hình minh họa: báo Hà Tĩnh

Cần một chiến lược phát triển làng xã bền vững

Quá trình hiện đại hóa và phát triển kinh tế – xã hội tất yếu kéo theo sự biến đổi của làng xã, từ cấu trúc không gian, thiết chế cộng đồng đến lối sống và sinh kế của cư dân, mở ra cả những cơ hội mới lẫn thách thức không nhỏ cho sự phát triển của làng xã. Để làng xã vừa phát triển kinh tế, vừa ổn định xã hội, đồng thời bảo tồn được văn hóa và bản sắc, chúng ta cần một cách tiếp cận toàn diện, dung hòa giữa truyền thống và hiện đại, giữa vai trò quản lý của Nhà nước và tự quản của cộng đồng, giữa phát triển hạ tầng và gìn giữ giá trị văn hóa địa phương. Chúng ta cần nhấn mạnh làng xã không chỉ là “nơi sản xuất” mà còn là “không gian sống” và “không gian văn hóa”. Chính sách phát triển nông thôn nên chú trọng đến các giá trị xã hội – văn hóa đặc thù của làng Việt, không để mất đi hồn cốt làng trong guồng quay của phát triển. Bởi, nếu mất đi bản sắc làng, chúng ta cũng sẽ mất một phần căn cước văn hóa dân tộc.■

GS.TS. Nguyễn Tuấn Anh[1]

Chú thích:

[1] Tổng Biên tập Tạp chí Khoa học Xã hội và Nhân văn, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.

[2] Trần Từ. 1984. Cơ cấu tổ chức của làng Việt cổ truyền ở Bắc Bộ. Hà Nội: Nhà Xuất bản Khoa học Xã hội.; trang 135.

[3] Rigg, Jonathan. 1994. “Redefining the Village and Rural Life: Lessons from Southeast Asia.” Geographical Journal 160:123-135.

[4] Luong, Hy V 2010. Tradition, Revolution, and Market Economy in a North Vietnamese Village, 1925-2006. Honolulu: University of Hawai’i Press.

[5] Đỗ Thái Đồng. 1995. “Làng hiện thực và biểu trưng.” trang. 89-92 trong Làng xã ở châu Á và ở Việt Nam, chủ biên bởi Mạc Đường. Thành phố Hồ Chí Minh: Nhà Xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh.

[6] Kleinen, John. 1999. Facing the Future, Reviving the Past: A Study of Social Change in a Northern Vietnamese Village. Singapore: Institute of Southeast Asian Studies; trang 1.

[7] Trần Đình Hượu. 1996. Đến hiện đại từ truyền thống. Hà Nội: Nhà Xuất bản Văn hoá.; trang 297.

[8] Nguyễn Thế Anh. 2003. “Village versus State: The Evolution of State – Local Relations in Vietnam until 1945.” Southeast Asian Studies 41:101-123.

[9] Trần Đình Hượu. 1996. Đến hiện đại từ truyền thống. Hà Nội: Nhà Xuất bản Văn hoá.

[10] Salemink, Oscar. 2003. “One Country, Many Journeys.” Pp. 21-51 in Vietnam – Journeys of Body, Mind, and Spirit, edited by Nguyen Van Huy and Laurel Kendall. Berkeley etc: University of California Press.

[11] Đặng Phong (Chủ biên). 2005. Lịch sử kinh tế Việt Nam 1945-2000 – Tập II: 1955-1975. Hà Nội: Nhà Xuất bản Khoa học Xã hội.

[12] Nguyễn Tuấn Anh. 2010. “Kinship as Social Capital: Economic, Social and Cultural Dimensions of Changing Kinship Relations in a Northern Vietnamese Village.” Pp. 278: Doctoral dissertation. Vrije Universiteit Amsterdam, The Netherlands. ISBN/EAN: 978-90-5335-271-1. 278 pages.

[13] Ban Chấp hành Đảng bộ xã Dương Liễu. 2010. Lịch sử cách mạng của Đảng bộ và Nhân dân xã Dương Liễu (1930-2010). Hà Nội: In tại Cty cổ phần In HBT Việt Nam. GPXB số: 17-154/LĐ ngày 22/10/2010.

[14] Đặng Phong. 2014. Tư duy kinh tế Việt Nam 1975-1989. Hà Nội: Nhà Xuất bản Tri thức.

[15] Nguyễn Tuấn Anh. 2019. Làng nghề trong bối cảnh xây dựng nông thôn mới ở châu thổ sông Hồng. Hà Nội: Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội.

[16] Nguyễn Đức Truyến. 2003. Kinh tế hộ gia đình và các quan hệ xã hội ở nông thôn đồng bằng sông Hồng trong thời kỳ Đổi mới. Hà Nội: Nhà Xuất bản Khoa học Xã hội

[17] Thomése, Fleur và Nguyễn Tuấn Anh. 2007. “Quan hệ họ hàng với việc dồn điền đổi thửa và sử dụng ruộng đất dưới góc nhìn vốn xã hội ở một làng Bắc Trung Bộ.” Tạp chí nghiên cứu gia đình và giới 4:3-16.

[18] Mai Văn Hai and Nguyễn Tuấn Anh. 2013. “Toàn cầu hóa và bản sắc làng Việt trong hoạt động kinh tế.” trong Bản sắc làng Việt trong tiến trình toàn cầu hóa hiện nay, chủ biên bởi Mai Văn Hai, Nguyễn Tuấn Anh, Nguyến Đức Chiện, Ngô Thị Thanh Quý. Hà Nội: Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội.

[19] Nguyễn Tuấn Anh. 2019. Làng nghề trong bối cảnh xây dựng nông thôn mới ở châu thổ sông Hồng. Hà Nội: Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội.

[20] Tuan Anh, Nguyen, and Jonathan Rigg. 2024. “Revitalization with Stagnation: The Mixed Effects of Vietnam’s New Rural Development Program.” Journal of Political Sociology 2(2):138-63.

[21] Nguyễn Tuấn Anh. 2019. Làng nghề trong bối cảnh xây dựng nông thôn mới ở châu thổ sông Hồng. Hà Nội: Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội.

[22] Nguyễn Tuấn Anh. 2024. “Biến đổi làng xã Việt Nam qua các chặng đường lịch sử.” Trang 312-43 trong sách: 30 năm Việt Nam học: Tiếp cận liên ngành, khu vực học, khoa học phát triển. Hà Nội: Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội.

[23] Bùi Xuân Đính. 1998. Hương ước và quản lý làng xã]. Hà Nội: Nhà Xuất bản Khoa học Xã hội; Đặng Thị Mai Hương. 2004. “Hương ước và vai trò của hương ước trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam hiện nay.” Luận văn Thạc sĩ Luật học: Đại học Quốc gia Hà Nội – Khoa Luật

[24] Trần Từ. 1984. Cơ cấu tổ chức của làng Việt cổ truyền ở Bắc Bộ. Hà Nội.

[25] Kleinen, John. 1999. Facing the Future, Reviving the Past: A Study of Social Change in a Northern Vietnamese Village. Singapore: Institute of Southeast Asian Studies.

[26] Truong Huyen Chi. 2004. “Winter Crop and Spring Festival: the Contestations of Local Government in a Red River delta commune.” Pp. 110-136 in Beyond Hanoi: Local Government in Vietnam, edited by B. J. T. Kerkvliet and D. G. Marr: NIAS Press, ISEAS Publications Institute of Southeast Asian Studies Singapore.

[27] Nguyen, Gia Hung 2015. “The Worship of Guardian Deities of Village Quan Nhân: The Reinvention of a Tradition.” International Journal of Social Science and Humanity 5:63-68.

[28] Nguyễn Tuấn Anh. 2010. “Kinship as Social Capital: Economic, Social and Cultural Dimensions of Changing Kinship Relations in a Northern Vietnamese Village.” Pp. 278: Doctoral dissertation. Vrije Universiteit Amsterdam, The Netherlands. ISBN/EAN: 978-90-5335-271-1. 278 pages.

[29] Malarney, Shaun Kingsley. 2002. Culture, Ritual and Revolution in Vietnam. Honolulu, Hawai’i: University of Hawai’i Press.

[30] Luong, Hy V 2010. Tradition, Revolution, and Market Economy in a North Vietnamese Village, 1925-2006. Honolulu: University of Hawai’i Press.

[31] Ban Chấp hành Trung ương. 2008. “Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành Trung ương khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn.” Cơ sở dữ liệu quốc gia về văn bản pháp luật – Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn   (http://vbpl.vn/bonongnghiep/Pages/vbpq-toanvan.aspx?ItemID=24544&Keyword=). Truy cập ngày 10 tháng 5 năm 2025.

[32] Nguyễn Tuấn Anh, Phạm Quang Minh, and Lê Thị Mai Trang. 2016. “Phong trào Làng mới ở Hàn Quốc và chương trình xây dựng Nông thôn mới ở Việt Nam.” Tạp chí Khoa học Xã hội và Nhân văn 2(1b):6-15.; Nguyễn Tuấn Anh. 2019. Làng nghề trong bối cảnh xây dựng nông thôn mới ở châu thổ sông Hồng. Hà Nội: Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội.; Nguyễn Tuấn Anh. 2024. “Biến đổi làng xã Việt Nam qua các chặng đường lịch sử.” Trang 312-43 trong sách: 30 năm Việt Nam học: Tiếp cận liên ngành, khu vực học, khoa học phát triển. Hà Nội: Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội.

BÌNH LUẬN

BÀI VIẾT LIÊN QUAN