Một lịch sử tương đồng, hai con đường phát triển
Việt Nam và Triều Tiên có nhiều điểm tương đồng về hoàn cảnh lịch sử, đặc biệt là trong giai đoạn giữa thế kỷ XX. Cả hai dân tộc đều từng chịu cảnh bị chia cắt sau Chiến tranh Thế giới II, trở thành nạn nhân của cục diện Chiến tranh Lạnh do sự sắp đặt của các cường quốc. Trên bán đảo Triều Tiên, vĩ tuyến 38 trở thành ranh giới tạm thời chia đôi đất nước thành hai miền Nam – Bắc từ năm 1945, dẫn đến sự hình thành hai chính quyền riêng biệt và sau đó là cuộc Chiến tranh Triều Tiên khốc liệt (1950-1953). Tại Việt Nam, Hiệp định Geneva 1954 cũng phân chia đất nước thành hai miền Nam – Bắc tại vĩ tuyến 17, mở màn cho hai thập niên chiến tranh đầy gian khổ. Cả hai dân tộc Việt – Triều khi ấy đều mang chung khát vọng độc lập, thống nhất đất nước, và đều phải trải qua những cuộc chiến tranh chống xâm lược dai dẳng, khốc liệt, có sự can dự của các nước lớn.
Tuy nhiên, số phận lịch sử của hai nước có bước ngoặt khác nhau. Cuối cùng, Việt Nam đã giành được thắng lợi trọn vẹn: miền Bắc và miền Nam sum họp một nhà sau ngày 30/4/1975, hoàn thành sự nghiệp thống nhất đất nước. Trong khi đó, bán đảo Triều Tiên cho đến nay vẫn trong tình trạng ngừng bắn chia cắt hai miền. Hơn 70 năm sau hiệp định đình chiến 1953, Triều Tiên vẫn là trường hợp duy nhất còn bị chia cắt trên thế giới. Viễn cảnh hòa bình thống nhất trên bán đảo Triều Tiên vẫn còn là khát vọng chưa thành hiện thực, phản ánh những hệ lụy kéo dài của cục diện Chiến tranh Lạnh tại khu vực này.

Bước ra khỏi các cuộc chiến tranh và những biến động toàn cầu cuối thế kỷ XX, Việt Nam và Triều Tiên đã lựa chọn những con đường phát triển khác nhau phù hợp với điều kiện riêng của mình. Triều Tiên duy trì mô hình quản lý tập trung và chính sách ưu tiên sức mạnh quân sự để bảo vệ chủ quyền. Ngay từ sau chiến tranh trên bán đảo Triều Tiên, Triều Tiên đã nỗ lực xây dựng nền kinh tế kế hoạch tập trung kiểu xã hội chủ nghĩa với sự giúp đỡ của Liên Xô và Trung Quốc, đạt một số thành tựu về công nghiệp nặng, hạ tầng trong các thập niên 1960-1970. Về sau, đặc biệt sau khi hệ thống Xô viết tan rã (1991), Triều Tiên gặp muôn vàn khó khăn, nhất là về năng lượng và lương thực, nhưng vẫn chọn con đường tự lực tự cường, khép kín với thế giới bên ngoài. Trong thập niên 2010, nhà nước Triều Tiên đề ra chiến lược “Byungjin” (song tiến), vừa phát triển kinh tế vừa tăng cường tiềm lực hạt nhân để răn đe, bảo vệ đất nước. Đến năm 2018, Triều Tiên tuyên bố đã hoàn thành mục tiêu tăng cường sức mạnh quân sự và sẽ tập trung hơn cho phát triển kinh tế trong giai đoạn mới. Dù con đường phát triển mang màu sắc quân sự hóa, tập trung vào quốc phòng và vũ khí hạt nhân, đó là sự lựa chọn phù hợp với hoàn cảnh Triều Tiên, nhằm đảm bảo độc lập, chủ quyền của mình – và Việt Nam luôn tôn trọng con đường mà Triều Tiên đã chọn.
Trái ngược với Triều Tiên, Việt Nam sau chiến tranh đã quyết định mở cửa hội nhập mạnh mẽ. Từ năm 1986, công cuộc Đổi mới được khởi xướng, đưa Việt Nam chuyển mình sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập sâu rộng với thế giới. Việt Nam lần lượt bình thường hóa quan hệ với nhiều nước, trong đó có Trung Quốc (1991), Hàn Quốc (1992) và Hoa Kỳ (1995). Nhờ mở cửa và cải cách, kinh tế Việt Nam tăng trưởng vượt bậc, đưa Việt Nam trở thành một trong những nền kinh tế phát triển năng động nhất Đông Nam Á. Về đối ngoại, Việt Nam theo đuổi chính sách độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa, là bạn và là đối tác tin cậy của tất cả các nước. Việt Nam thiết lập quan hệ rộng mở với hầu hết các cường quốc và các quốc gia ở phương Tây cũng như Nam Bán cầu, tích cực tham gia các tổ chức quốc tế và đảm nhiệm nhiều trọng trách toàn cầu. Có thể nói, trong khi Triều Tiên chọn cách củng cố nội lực và khả năng phòng thủ, thì Việt Nam chọn cách hòa mình vào dòng chảy toàn cầu để phát triển đất nước.
Dẫu hai con đường phát triển khác nhau, nhưng Việt Nam không vì thế mà xa rời hay xem nhẹ người bạn truyền thống của mình. Trái lại, Việt Nam luôn tôn trọng chủ quyền, độc lập của Triều Tiên và luôn giữ gìn, củng cố tình hữu nghị gắn bó suốt nhiều thập kỷ qua.
Tình hữu nghị thủy chung và sự hỗ trợ lẫn nhau
Quan hệ Việt Nam – Triều Tiên được xây dựng trên nền tảng hữu nghị truyền thống do Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chủ tịch Kim Nhật Thành đặt nền móng từ những năm 1950. Trong giai đoạn chiến tranh, tình đoàn kết giữa hai dân tộc càng được thử thách và bền chặt. Triều Tiên từng hỗ trợ Việt Nam vô tư, chí tình trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ. Ngay từ giữa thập niên 1960, Bình Nhưỡng đã cử hàng trăm phi công và sĩ quan sang Việt Nam huấn luyện, chiến đấu cùng Quân đội Nhân dân Việt Nam. Theo Thiếu tướng Phan Khắc Hy (nguyên Chính ủy Bộ Tư lệnh Không quân), giai đoạn 1966-1969, phi công Triều Tiên đã sát cánh cùng bộ đội Việt Nam trên bầu trời Hà Nội, Vĩnh Phúc, Hải Dương… bắn hạ 26 máy bay Mỹ; 14 phi công Triều Tiên đã hy sinh tại Việt Nam. Ngoài ra, Triều Tiên còn giúp Việt Nam đào tạo nhiều sinh viên, cung cấp vật tư như xi măng, thép, vải, thuốc men, phân bón trong những năm tháng chiến tranh ác liệt. Những sự giúp đỡ chí nghĩa chí tình đó xuất phát từ quan điểm của Bình Nhưỡng coi cuộc kháng chiến giành độc lập, thống nhất của Việt Nam cũng chính là cuộc đấu tranh của chính mình.
Đáp lại, Việt Nam cũng luôn coi trọng tình cảm bạn bè truyền thống và sẵn lòng hỗ trợ Triều Tiên trong khả năng của mình, đặc biệt trong những lúc nước bạn gặp khó khăn. Sau chiến tranh, nhất là thập niên 1990, Triều Tiên trải qua nhiều năm mất mùa, thiếu lương thực trầm trọng. Trước tình hình đó, Việt Nam đã nhiều lần viện trợ lương thực cho bạn. Tiêu biểu, vào những năm 1994-1998, Việt Nam đã viện trợ khẩn cấp 100 tấn gạo năm 1995 và tiếp tục gửi tặng 13.000 tấn gạo năm 1997. Trong giai đoạn 2000-2012, Việt Nam đã hỗ trợ tổng cộng 22.700 tấn gạo, cùng 5 tấn cao su thô và 50.000 USD cho Triều Tiên; đến năm 2016, Việt Nam tiếp tục viện trợ 70.000 USD giúp nhân dân Triều Tiên khắc phục hậu quả lũ lụt. Những hạt gạo nghĩa tình của nhân dân Việt Nam đã giúp đỡ nước bạn vượt qua giai đoạn gian khó.

Chính vì lẽ đó, những câu chuyện xúc động về tình hữu nghị Việt – Triều luôn được nhắc nhớ. Gần đây, trong một sự kiện tại Bình Nhưỡng, Chủ tịch Kim Jong Un đã bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc, ca ngợi Việt Nam không chỉ chia sẻ lương thực mà còn cử chuyên gia, chuyển giao kỹ thuật trồng lúa nước giúp Triều Tiên tự cải thiện sản xuất. Nhà lãnh đạo Triều Tiên khẳng định nhân dân Triều Tiên sẽ mãi khắc ghi “món nợ ân tình” này. Những lời nói chân thành của Chủ tịch Kim Jong Un chính là minh chứng xúc động cho tình cảm hiếm có trong quan hệ quốc tế, cho thấy sự gắn bó thủy chung giữa hai dân tộc anh em. Người Việt Nam có câu “một miếng khi đói bằng một gói khi no” – nghĩa cử nhường cơm sẻ áo lúc hoạn nạn bao giờ cũng đáng quý. Việt Nam giúp bạn khi khó khăn không toan tính, và sự tri ân sâu sắc từ phía Triều Tiên đối với “hạt gạo nghĩa tình” đó thể hiện rõ đạo lý thủy chung trong quan hệ hai nước suốt nhiều thập kỷ.
Tình hữu nghị Việt – Triều không chỉ thể hiện trong khuôn khổ song phương, mà còn tạo nên những đóng góp ý nghĩa cho hòa bình khu vực. Việt Nam, với chính sách đối ngoại rộng mở và uy tín quốc tế ngày càng cao, đã từng đóng vai trò cầu nối trung gian được cả thế giới đánh giá cao. Sự kiện tiêu biểu nhất là vào tháng 2/2019, Hà Nội đã được lựa chọn làm nơi tổ chức Hội nghị Thượng đỉnh Mỹ – Triều Tiên lần thứ hai giữa Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump và Chủ tịch Triều Tiên Kim Jong Un. Việc Việt Nam được cả Washington lẫn Bình Nhưỡng tin tưởng chọn làm địa điểm gặp gỡ cho thấy vị thế và độ tín nhiệm rất cao của Việt Nam trong quan hệ quốc tế. Việt Nam hoàn toàn xứng đáng với vai trò chủ nhà sự kiện lịch sử này không chỉ nhờ khả năng hậu cần, an ninh, tổ chức, mà quan trọng hơn, Việt Nam có thể chia sẻ những kinh nghiệm quý báu về hòa giải và xây dựng lòng tin sau xung đột. Thời gian qua, Việt Nam duy trì quan hệ hữu hảo với tất cả các bên liên quan, đặc biệt là Hoa Kỳ và Triều Tiên, do đó được cả hai phía tin cậy lựa chọn.
Hội nghị thượng đỉnh Mỹ – Triều tại Hà Nội đã diễn ra an toàn, chu đáo, tuy kết quả đàm phán còn hạn chế nhưng riêng việc gặp gỡ đối thoại cũng là bước tiến quan trọng. Hình ảnh Việt Nam – một quốc gia nhỏ từng trải qua chiến tranh – nay trở thành điểm đến cho những cuộc gặp thượng đỉnh quốc tế trọng đại đã gửi đi thông điệp mạnh mẽ về hòa bình và hợp tác. Đó là minh chứng cho thấy Việt Nam sẵn sàng và có đủ uy tín để đóng góp vào các vấn đề quốc tế hệ trọng, thúc đẩy đối thoại vì mục tiêu hòa bình bền vững. Đồng thời, việc Việt Nam đóng vai trò cầu nối giữa Triều Tiên và Hoa Kỳ cũng phù hợp với truyền thống ngoại giao “thêm bạn bớt thù”, sẵn sàng làm bạn với mọi quốc gia và làm trung gian hòa giải khi được tin tưởng. Điều này không chỉ nâng tầm vị thế Việt Nam, mà còn gián tiếp hỗ trợ Triều Tiên hội nhập hơn với thế giới thông qua kênh đối thoại hòa bình.
Chuyến thăm minh chứng cho quan hệ gắn bó
Tháng 10/2025, mối quan hệ Việt – Triều một lần nữa được tô đậm bằng sự kiện lịch sử: Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Tô Lâm thăm cấp Nhà nước tới CHDCND Triều Tiên theo lời mời của Tổng Bí thư Đảng Lao động Triều Tiên Kim Jong Un, và dự lễ kỷ niệm 80 năm Ngày thành lập Đảng Lao động Triều Tiên (10/10/1945 – 10/10/2025). Đây là chuyến thăm Triều Tiên đầu tiên của người đứng đầu Đảng Cộng sản Việt Nam sau 18 năm (kể từ chuyến thăm của Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh năm 2007), và diễn ra đúng vào dịp hai nước kỷ niệm 75 năm thiết lập quan hệ ngoại giao (1950-2025). Năm 2025 còn được hai bên chọn là “Năm Hữu nghị Việt Nam – Triều Tiên” nhằm kỷ niệm mốc quan trọng bảy thập kỷ rưỡi gắn bó. Những ý nghĩa đặc biệt về mặt thời gian và lịch sử đó khiến chuyến thăm của Tổng Bí thư Tô Lâm càng thêm trọng đại.
Phía Triều Tiên đã dành cho đoàn Việt Nam sự đón tiếp trọng thị và nồng ấm ở mức cao nhất. Sáng 9/10/2025, lễ đón chính thức được tổ chức tại Cung Thể thao Bình Nhưỡng với nghi thức danh dự, bao gồm 21 loạt đại bác chào mừng vang rền khắp quảng trường. Nhà lãnh đạo Kim Jong Un đích thân chủ trì lễ đón trang trọng này, cùng duyệt Đội danh dự Quân đội Nhân dân Triều Tiên với Tổng Bí thư Tô Lâm trong tiếng quốc thiều hai nước vang lên hào hùng. Trên lễ đài, hàng ngàn người dân Triều Tiên vẫy cờ hai nước, giương cao những băng rôn bằng cả tiếng Triều Tiên và tiếng Việt: “Nhiệt liệt hoan nghênh đồng chí Tô Lâm, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam” và “Tình đoàn kết hữu nghị giữa nhân dân hai nước Triều Tiên và Việt Nam muôn năm”. Khung cảnh xúc động đó cho thấy tình cảm nồng hậu mà nhân dân Triều Tiên dành cho vị khách quý từ Việt Nam, đồng thời khẳng định tình đoàn kết keo sơn giữa hai dân tộc.

Trong khuôn khổ chuyến thăm, Tổng Bí thư Tô Lâm đã có nhiều hoạt động ý nghĩa: hội đàm cấp cao với Tổng Bí thư, Chủ tịch Quốc vụ Kim Jong Un; dự lễ duyệt binh kỷ niệm 80 năm thành lập Đảng Lao động Triều Tiên; đặt hoa tưởng niệm các nhà lãnh đạo Triều Tiên; thăm Đại sứ quán Việt Nam và một số cơ sở văn hóa, lịch sử tại Bình Nhưỡng. Đặc biệt, Tổng Bí thư Tô Lâm và đoàn đại biểu Việt Nam đã dự lễ khánh thành Tượng đài Chủ tịch Hồ Chí Minh trong khuôn viên Đại sứ quán Việt Nam tại thủ đô Bình Nhưỡng – một biểu tượng mới cho tình hữu nghị gắn kết giữa hai nước. Tại cuộc hội đàm, lãnh đạo hai Đảng cùng ôn lại lịch sử quan hệ hữu nghị truyền thống do Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chủ tịch Kim Nhật Thành dày công vun đắp, nhắc nhớ những năm tháng hai nước kề vai sát cánh giúp đỡ lẫn nhau trong kháng chiến cũng như xây dựng đất nước. Hai bên khẳng định tiếp tục kế thừa và phát huy di sản quý báu đó, coi đó là tài sản chung vô giá của hai Đảng, hai dân tộc.
Chuyến thăm của Tổng Bí thư Tô Lâm diễn ra trong bối cảnh mỗi nước đều đang trong giai đoạn quan trọng: Việt Nam vừa kỷ niệm 50 năm thống nhất đất nước (1975-2025) và 80 năm Quốc khánh (1945-2025), đang tích cực chuẩn bị Đại hội Đảng XIV và tổng kết 40 năm Đổi Mới; trong khi Triều Tiên cũng đang tập trung hoàn thành các mục tiêu kinh tế – xã hội của kế hoạch 5 năm và chuẩn bị cho Đại hội Đảng Lao động Triều Tiên lần thứ IX. Do vậy, cả Hà Nội và Bình Nhưỡng đều coi chuyến thăm này là dấu mốc lịch sử mới trong quan hệ song phương, góp phần tạo xung lực mới cho sự phát triển của mỗi nước. Lãnh đạo hai bên đã thống nhất nhiều định hướng chiến lược nhằm đưa quan hệ Việt – Triều bước sang giai đoạn phát triển thực chất, hiệu quả hơn, đáp ứng nguyện vọng của nhân dân hai nước và đóng góp cho hòa bình, ổn định khu vực.
Cần đặc biệt lưu ý chuyến thăm diễn ra trong bối cảnh Triều Tiên vẫn đang bị Mỹ và phương Tây bao vây, cô lập và lên án liên quan trên nhiều lĩnh vực đặc biệt là thể chế chính trị và quyết tâm phát triển vũ khí hạt nhân. Việc Tổng Bí thư Tô Lâm và đoàn đại biểu gồm nhiều uỷ viên Bộ Chính trị Việt Nam tới thăm Triều Tiên lúc này càng gửi đến một thông điệp hoà bình mạnh mẽ. Việt Nam trước sau như một tôn trọng quyền tự quyết của mọi dân tộc và không bao giờ bị áp lực phải thay đổi vì sức ép của bên ngoài. Càng đặc biệt hơn khi không có quốc gia nào hiểu sai về chuyến thăm nhiều ý nghĩa này của người đứng đầu Đảng Cộng sản Việt Nam.
Trên hết, chuyến thăm khẳng định mạnh mẽ rằng Việt Nam và Triều Tiên vẫn luôn coi trọng và vun đắp tình bạn truyền thống. Tổng Bí thư Tô Lâm truyền tải thông điệp Việt Nam trước sau như một coi trọng quan hệ hữu nghị với Triều Tiên, mong muốn tăng cường hợp tác giữa hai Đảng, hai Nhà nước, đồng thời ủng hộ Triều Tiên phát triển, góp phần vào hòa bình, ổn định và công bằng trên thế giới. Về phía mình, Tổng Bí thư, Chủ tịch Quốc vụ Kim Jong Un đã nhiệt liệt chào mừng chuyến thăm và gửi lời chúc mừng về những thành tựu to lớn mà Việt Nam đạt được. Nhà lãnh đạo Triều Tiên bày tỏ tin tưởng dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam do Tổng Bí thư Tô Lâm đứng đầu, nhân dân Việt Nam sẽ tiếp tục gặt hái thành công, đạt được các mục tiêu phát triển đã đề ra. Những phát biểu chân thành đó thể hiện sự tin cậy chính trị cao độ giữa hai nước.

Trải qua 75 năm kể từ khi thiết lập quan hệ ngoại giao (1950-2025), quan hệ Việt Nam – Triều Tiên vẫn bền bỉ phát triển bất chấp bao biến thiên của tình hình thế giới. Những thăng trầm lịch sử – từ khói lửa chiến tranh đến chuyển biến thời hậu Chiến tranh Lạnh – không làm phai nhạt tình hữu nghị thủy chung giữa hai nước. Việt Nam và Triều Tiên tuy khác nhau về con đường đi nhưng đều chung đích đến cuối cùng là xây dựng đất nước XHCN phồn vinh, độc lập và đóng góp cho một trật tự thế giới công bằng hơn, nơi các dân tộc đều được tôn trọng và phát triển thịnh vượng.
Chuyến thăm cấp Nhà nước của Tổng Bí thư Tô Lâm tới Triều Tiên vừa qua chính là minh chứng rõ nét nhất cho mối quan hệ gắn bó keo sơn ấy. Sự kiện này không chỉ làm sâu sắc thêm tình cảm hữu nghị truyền thống giữa hai Đảng, hai Nhà nước và nhân dân hai nước, mà còn mở ra chương mới cho hợp tác song phương trong thời kỳ mới. Với nền tảng hiểu biết và tin cậy lẫn nhau cao độ, Việt Nam và Triều Tiên hoàn toàn có thể tiếp tục đồng hành, chia sẻ kinh nghiệm phát triển, hỗ trợ nhau trên trường quốc tế, cùng hướng tới mục tiêu chung là ấm no, hạnh phúc cho nhân dân và hòa bình, ổn định cho khu vực. Quan hệ Việt – Triều, được hun đúc từ quá khứ đấu tranh gian khổ và được thử thách qua thời gian, sau chuyến thăm của Tổng Bí thư Tô Lâm chắc chắn sẽ tiếp tục phát triển mạnh mẽ hơn nữa, đóng góp vào việc kiến tạo một thế giới hòa bình, công bằng và phát triển bền vững trong tương lai.■
BÌNH NAM