Cương vực nhà nước Văn Lang - Âu Lạc

Lãnh thổ Việt Nam ngày nay là một khối thống nhất từ Bắc chí Nam, từ Đông sang Tây bao gồm vùng đất, vùng biển, vùng trời (gồm cả quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa) có tổng diện tích hơn 331.000 km2[1].

Lãnh thổ thống nhất đó được hình thành dần dần qua hàng ngàn năm giữ nước của dân tộc Việt Nam. Ở vào thời kỳ cổ đại, vùng lãnh thổ sớm nhất của Việt Nam được hình thành trên cơ sở ra đời của hai nhà nước đầu tiên: nhà nước Văn Lang của các Vua Hùng (thế kỷ VII TCN – 208 TCN); nhà nước Âu Lạc của An Dương Vương (208 TCN – 179 TCN). Thành tựu nghiên cứu hàng trăm năm qua của sử học Việt Nam đã xác định rõ cơ sở khoa học cương vực của nước Văn Lang và nước Âu Lạc. Đó cũng là cơ sở đầu tiên cho quá trình hình thành lãnh thổ Việt Nam thống nhất trong các thời kỳ tiếp theo.

Trước hết, huyền thoại, truyền thuyết và tư liệu dã sử đã được sử dụng trong Đại Việt sử ký toàn thư đều ghi chép về cương vực nước Văn Lang thời Hùng Vương.

Lĩnh Nam chích quái viết: “Lấy tên nước là Văn Lang, Đông đến giáp Nam Hải, Tây tới Ba Thục, Bắc tới Động Đình Hồ, Nam tới nước Hồ Tôn”.

Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Nước này [nước Văn Lang] Đông giáp biển Nam Hải, Tây đến Ba Thục, Bắc đến hồ Động Đình, Nam giáp nước Hồ Tôn”.

Trống đồng Ngọc Lũ, Bảo vật Quốc gia thời Văn hóa Đông Sơn lưu giữ tại Bảo tàng Lịch sử Quốc gia. Ảnh: BTLSGQ

Các ghi chép này cho thấy cương vực của Văn Lang rất rộng, phía đông tiếp giáp với Biển Đông, phía tây đến Ba Thục (Tứ Xuyên, Trung Quốc), phía bắc đến hồ Động Đình (Hồ Nam, Trung Quốc), phía nam giáp với Hồ Tôn (Champa). Do vậy, các sử gia cuối thời Lê Trung hưng và thời Nguyễn như Ngô Thì Sĩ trong Việt sử tiêu án, Đại Việt sử ký tiền biên, Phan Huy Chú trong Lịch triều hiến chương loại chí, Quốc sử quán triều Nguyễn trong Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Nguyễn Siêu trong Đại Việt sử ký toàn biên, đều tỏ ý nghi ngờ. Khâm định Việt sử thông giám cương mục cho rằng đây là việc “sử cũ chép quá khoa trương”. Đặng Xuân Bảng cũng đoán đó là việc “nói khoa trương” của người làm sử cũ[2]. Toàn bộ khu vực này thời sơ sử vốn là khu vực của các tộc người phi Hán thường được thư tịch cổ Việt Nam và Trung Quốc gọi là Việt tộc hay Bách Việt (trăm tộc Việt)[3].

Việc ghi chép lãnh thổ Văn Lang phi thực tế như vậy đã được các sử gia các thời kỳ lịch sử nhận ra nhưng họ cũng đều nghiên cứu, xác định vị trí của nó. Trước hết, Việt sử lược tuy không ghi về địa bàn Văn Lang nhưng đã xác định rõ vị trí: “Xưa, Hoàng đế dựng muôn nước, thấy Giao Chỉ ở xa ngoài cõi Bách Việt không thể thống thuộc được, bèn chia giới hạn ở góc Tây Nam”. Cuối thế kỷ XVIII, Ngô Thì Sĩ sau khi tỏ ý nghi ngờ, đã dẫn sách Trung Quốc Nghiêu Thuấn điển nói: “ở đất Nam Giao”, sử nhà Chu nói “phía Nam đất Giao Chỉ” và khẳng định “từ đời Nghiêu đến đời Chu nước ta đã có giới hạn rõ ràng”[4]. Quốc sử quán triều Nguyễn, Nguyễn Văn Siêu (thế kỷ XIX), Đặng Xuân Bảng (thế kỷ XIX) cũng đều có ý kiến tương tự. Phan Huy Chú (thế kỷ XIX) viết: “Nước Việt ta từ đời Hùng Vương dựng nước, chia địa giới, đặt Kinh đô, núi sông nước Nam đã có giới hạn ở sách Trời”. Sau khi phản bác nước Văn Lang không thể rộng như sử cũ đã ghi, Phan Huy Chú lập luận nếu lấy sách địa lý của Hậu Hán thư gọi quận Giao Chỉ là nước Âu Lạc của An Dương Vương cách Lạc Dương 11.000 dặm thì đủ biết đất nước các đời dựng ra trước đời An Dương Vương tức là cương giới của nước Nam ngày nay. Trên cơ sở đó, căn cứ vào tiến trình chuyển giao lãnh thổ giữa các thời kỳ lịch sử có thể thấy được địa bàn của nước Văn Lang thời Hùng Vương. Theo sử cũ, năm 208 TCN, nước Văn Lang được chuyển thành nước Âu Lạc. Năm 179 TCN, nước Âu Lạc bị nhà Triệu cai trị và chia thành 2 quận Giao Chỉ và Cửu Chân. Năm 111 TCN, nhà Tây Hán diệt nhà Triệu, tiếp tục cai trị hai quận Giao Chỉ, Cửu Chân. Địa giới của hai quận này được xác định tương ứng với khu vực Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ Việt Nam ngày nay và một phần phía Nam Quảng Đông và Quảng Tây (Trung Quốc). Quảng Châu ký (thế kỷ thứ IV) cũng chép việc Triệu Đà sau khi xâm chiếm Âu Lạc, đã chia Âu Lạc thành hai quận Giao Chỉ và Cửu Chân[5]. Các ghi chép này cũng phù hợp với kết quả tìm hiểu thần tích, thần phả, truyền thuyết dân gian về thời Hùng Vương và An Dương Vương chủ yếu tồn tại ở khu vực đất Tổ Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Hà Nội, sau đó mở rộng đến Cao Bằng, Bắc Ninh, Nghệ An. Đặc biệt, các ghi chép đó cũng phù hợp với kết quả nghiên cứu khảo cổ về nền văn hóa Đông Sơn, chứng cứ vật chất của nước Văn Lang và nước Âu Lạc được phân bố trên cùng một khu vực. Cho đến hiện nay, khảo cổ học đã phát hiện và nghiên cứu hàng nghìn di tích khảo cổ học thuộc thời đại kim khí, trong đó đã xác định văn hóa Đông Sơn thuộc thời kỳ đồng thau và sơ kỳ sắt sớm, là cơ sở văn hóa vật chất của thời kỳ Hùng Vương – An Dương Vương được khuôn gọn trong khu vực lãnh thổ Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ Việt Nam và một phần cực Nam Trung Quốc. Văn hóa Đông Sơn được hình thành và phát triển tại chỗ dựa trên hệ thống các văn hóa Tiền Đông Sơn trong cùng khu vực kết hợp với sự giao lưu, trao đổi văn hóa giữa các tộc người sinh sống trong khu vực Nam Trung Quốc và Đông Nam Á thời cổ, bao gồm ba hệ thống ở ba khu vực phát triển liên tục qua ba giai đoạn:

Hệ thống văn hóa Tiền Đông Sơn ở lưu vực sông Hồng và vùng núi phía bắc gồm các văn hóa Phùng Nguyên (sơ kỳ thời đại đồng thau), Đồng Đậu (trung kỳ thời đại đồng thau), Gò Mun (hậu kỳ thời đại đồng thau).

Trong khi hệ thống văn hóa tiền Đông Sơn ở lưu vực sông Hồng triển nở khá đều và tồn tại ở khắp vùng châu thổ Bắc Bộ thì Tiền Đông Sơn kề cận về phía Nam ở lưu vực sông Mã trong địa bàn hẹp hơn nhưng cũng được khảo cổ học phát hiện khá đầy đủ 3 giai đoạn phát triển: Cồn Chân Tiên, Bái Man (có ý kiến gọi là giai đoạn Đông Khối), Quỳ Chử.

Phía nam liền kề với lưu vực sông Mã là lưu vực sông Lam. Các di tích ở đây chưa tìm thấy nhiều nhưng các nhà khảo cổ học cũng đã phân lập được nhóm di tích Đền Đồi – Rú Cật – Rú Trăn.

Điều quan trọng là các nhóm di tích ở ba khu vực trên đây thuộc Bắc Việt Nam, tuy tương đối riêng biệt nhưng đều giao thoa với nhau trong từng khu vực, giữa các khu vực với nhau và giữa khu vực nội địa với khu vực ven biển và cuối cùng vào khoảng thế kỷ 7 TCN, tất cả đều tiến đến văn hóa Đông Sơn.

Như vậy, việc Lĩnh Nam chích quái Đại Việt sử ký toàn thư ghi chép về một lãnh thổ Văn Lang rộng lớn phi thực tế có thể xem đó là không gian truyền thuyết. Không gian đó chính là không gian Bách Việt với rất nhiều tộc Việt khác nhau cư trú nhưng có nhiều nét văn hóa tương đồng, có mối quan hệ giao lưu khá chặt chẽ giữa các nhóm Lạc Việt, Âu Việt của Văn Lang và Âu Lạc với các tộc Việt khác sinh sống từ khu vực Nam sông Trường Giang (Trung Quốc) đến khu vực Đông Nam Á thời cổ đại. Lối nói “khoa trương” về địa bàn rộng lớn của Văn Lang hẳn là dựa trên cơ sở không gian Bách Việt như vậy.

Thành Cổ Loa và mũi tên đồng Cổ Loa của nước Âu Lạc thời An Dương Vương. Ảnh: Tác giả cung cấp

Đại Việt sử ký tiền biên, Khâm định Việt sử thông giám cương mục đều có nghiên cứu, đối chiếu xác định về cơ bản 15 bộ của nước Văn Lang ghi trong thư tịch cổ đều nằm trong vùng Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ Việt Nam. Chính vì vậy, dù nửa tin nửa ngờ, nhưng huyền thoại, truyền thuyết về thời dựng nước Văn Lang và cương vực của nó đều được các thế hệ sử gia Việt Nam chắt lọc, đưa vào trong các bộ sử và chính sử Việt Nam như Việt sử lược (thế kỷ XIV), Đại Việt sử ký toàn thư (thế kỷ XV – XVIII), Đại Việt sử ký tiền biên (cuối thế kỷ XVIII), Khâm định Việt sử thông giám cương mục (thế kỷ XIX) với tinh thần đặc biệt trân trọng. Ngô Thì Sĩ (thế kỷ XVII) đã khẳng định bờ cõi và lịch sử lâu đời của Việt Nam: “Cõi Nam dằng dặc, có núi sông tất có loài người huống hồ sử thời Thần Nông chép rằng: “Phía Nam vỗ về đất Giao Chỉ thì vốn đã tự thành một nước”[6].

Trước đó, Ngô Sĩ Liên (thế kỷ XV) đã viết về truyền thống nước Văn Lang – Đại Việt với thần thái tràn đầy niềm tự hào dân tộc: “Nước Đại Việt ta ở về phía Nam Ngũ Lĩnh, thế là Trời đã chia giới hạn Nam Bắc. Thủy tổ của ta là dòng dõi họ Thần Nông, thế là Trời đã sinh chân chúa, có thể cùng với Bắc triều mỗi bên làm Đế một phương”[7].■

PGS.TS. Tống Trung Tín

Chú thích:

[1] Theo kết quả thống kê diện tích đất đai năm 2023 của Bộ Tài nguyên và Môi trường

[2] Đặng Xuân Bảng: Sử học bị khảo

[3] Nguyễn Văn Siêu: Đại Việt địa dư toàn biên, Nxb Văn hóa, Hà Nội, 1997; Đào Duy Anh: Nguồn gốc Dân tộc Việt Nam, Nxb Thế giới, Hà Nội, 1950

[4] Ngô Thì Sĩ: Đại Việt Sử ký tiền biên

[5] Trần Quốc Vượng, Hà Văn Tấn: Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1963

[6] Ngô Thì Sĩ, Đại Việt Sử ký tiền biên

[7] Đại Việt sử ký toàn thư

BÌNH LUẬN

BÀI VIẾT LIÊN QUAN