Phù Nam từ một góc nhìn mới (kỳ 2)

Phù Nam là một thực thể lịch sử tồn tại trong khoảng 7 thế kỷ đầu Công nguyên nhưng để lại một di sản văn hóa rất đồ sộ. Vì nhiều lý do mà lịch sử của vương quốc này cho đến nay vẫn còn nhiều điều bí ẩn. Từ một cách nhìn mới, có thể thế thấy trên nhiều mặt, Phù Nam không hoàn toàn giống với những gì được các nhà nghiên cứu trước đây mô tả.

Nhà nước Phù Nam thời đế chế

Nằm ở vị trí quan trọng đặc biệt trên tuyến đường hàng hải quốc tế thời cổ, thuận tiện cho cảng thị, lại là nơi có nguồn lương thực dồi dào nên sau một thời gian vài thế kỷ, Phù Nam trở nên giàu có. Thông qua sức mạnh kinh tế, Phù Nam từng bước chi phối các nguồn hàng đi và đến từ các tiểu quốc xung quanh. Sự phát triển về mọi mặt của chính quyền trung tâm diễn ra như một quá trình tự nhiên.

Từ thời Hỗn Bàn Bàn trong triều đình Phù Nam, xuất hiện một nhân vật được mô tả như một vị tướng chỉ huy quân đội nhưng lại được giao đảm đương công việc điều hành đất nước. Đó là Phạm Sư Mạn, người khác họ với đương kim quân vương. Sự kiện này là dấu mốc cho sự hình thành một thể chế mới trong bộ máy cai trị của vương quốc Phù Nam. Từ đây bắt đầu diễn ra sự thay đổi dòng họ trị vì từ Hỗn (混) sang Phạm (范), và cũng từ đây cũng bắt đầu quá trình Phù Nam đi chinh phục các vùng láng giềng. Sau khi lên ngôi, Phạm Sư Mạn đã cho “đóng thuyền lớn áp phục hơn mười nước trên biển, mở rộng đất đai rộng tới năm sáu ngàn dặm, tự xưng là “Phù Nam đại vương[1].

Trong khoảng thời gian từ thế kỷ III đến năm 627, thời điểm mà các nhà nghiên cứu cho rằng Phù Nam sụp đổ, chính quyền của đế chế này chắc chắn có nhiều biến đổi, nhưng do thiếu hụt thông tin nên chưa thể phục dựng lại một cách đầy đủ thế thứ những người đứng đầu. Dựa vào nhiều nguồn tư liệu, có thể đưa ra một biểu thế thứ dưới đây:

Những người đứng đầu đế chế Phù Nam[2]

Thế thứ Phiên âm Gốc chữ Hán Thời gian trị vì (SCN)  

Ghi chú

04 Phạm Sư Mạn 范師蔓 Thế kỷ III
05 Phạm Kim Sinh 范金生 Thế kỷ III Con Phạm Sư Mạn
06 Phạm Chiên 范旃 230 – 243
07 Phạm Trường 范長 243 – 250 Con Phạm Sư Mạn
08 Phạm Tầm 范尋 250 – 287
09 Trúc Chiên Đàn 竺旃檀 357 Candana
10 Kiều Trần Như 僑陳如 420 – 434 Kaundinya
11 Trì Lê Đà Bạt Ma 持梨陀跋摩 434 – 440 Śrī Indravarman
12 Kiều Trần Như Xà Gia Bạt Ma 僑陳如闍耶跋摩 484 – 514 Kaundinya Jayavarman
13 Lưu Đà Bạt Ma 留陁跋摩 514 – 550 Rudravarman

Trong bảng trên đây có hai khoảng thời gian trước và sau năm trị vì của vị quốc vương có tên Trúc Chiên Đàn (khoảng 135 năm) có thể còn có các vị vua khác, nhưng chưa tìm được thông tin. Tương tự như vậy, ai là người đứng đầu nhà nước Phù Nam sau Lưu Đà Bạt Ma (Rudravarman) cho đến trước khi đế chế này sụp đổ hoàn toàn (sớm nhất là năm 627) cũng chưa rõ.

Sự kiện Phạm Sư Mạn lên ngôi quốc vương có thể coi là sự khởi đầu cho thời kỳ đế chế của Phù Nam. Cùng với sự gia tăng quyền lực của chính quyền trung tâm, cuộc chiến tranh giành quyền lực cũng dần trở nên khốc liệt. Theo sách Phù Nam truyện của Khang Thái thì vào thời kỳ đó đã từng diễn ra cuộc chiến giữa các con của Phạm Sư Mạn (范師蔓) là Phạm Kim Sinh (范金生) và Phạm Trường (范長) với thế lực các con của người chị Phạm Sư Mạn là Phạm Chiên (范旃), Phạm Tầm (范尋)[3]. Kết cục là các vị quốc vương mang họ Phạm từ hai phía đối lập đã thay nhau cai trị Phù Nam cho đến giữa thế kỷ III.

Trong thời kỳ đế chế, sức mạnh và quy mô của chính quyền trung tâm tăng lên đáng kể nhưng tính chất của nhà nước Phù Nam về cơ bản vẫn theo mô hình Mandala, theo đó phương thức cai quản đất nước chủ yếu vẫn dựa vào năng lực chi phối các tiểu quốc (các Mandala nhỏ) hơn là cai trị bằng sức mạnh quân sự trong một quốc gia có biên giới cứng[4]. Điều này hoàn toàn không có nghĩa nhà nước trung tâm tổ chức lỏng lẻo. Cùng với sức mạnh kinh tế, nhà nước này còn được hậu thuẫn bởi giới tăng lữ. Ngay từ thời Phạm Sư Mạn, người đứng đầu đế chế Phù Nam đã bắt đầu được thần thánh hóa theo mô thức Deva-Raja (Thần – Vua đồng nhất) của Ấn giáo[5].

Để đáp ứng công việc điều hành một đế chế rộng lớn, thủ đô của Phù Nam được chuyển về phía Tây. Thủ đô thời kỳ này ở vào vị trí Ankor Borei (nay thuộc tỉnh Takeo, Campuchia)[6], cách thủ đô cũ (vùng Óc Eo) khoảng gần 100 km. Tại đây các nhà khảo cổ đã phát hiện được nhiều dấu vết kiến trúc thành quách. Giữa hai kinh đô có một con kênh dài trên 80 km được xác định đào vào khoảng cuối thế kỷ thứ III[7]. Tuy không gian phân bố di tích không rộng (chỉ khoảng 300 ha), nhưng mật độ kiến trúc dày đặc và với sự hiện diện của thành lũy kiên cố, hào nước và cả những hồ chứa nước ngọt dự trữ (Baray) chứng tỏ tính chất trấn trị của Ankor Borei đã rõ nét hơn Óc Eo.

Vào khoảng cuối thế kỷ V, trong bộ Lương thư, Diêu Tư Liêm có những đoạn mô tả khá cụ thể liên quan đến triều đình Phù Nam. Theo đó, cung điện của nhà vua có các tầng lầu xây bằng đá. Triều đình họp ngay trên lầu. Khi thiết triều nhà vua mặc áo dài có thắt lưng vàng, cổ đeo chuỗi ngọc, đội mũ cao, lưng đeo kiếm vàng. Vua ngồi trên ngai vàng có chạm rồng kê trên cao, phía trước là một tấm thảm đặt các bình bằng vàng. Mỗi khi du hành hoặc hồi cung vua cưỡi voi có lính cầm lọng che. Đoàn xa giá của vua luôn có rất đông người hộ tống, các thị vệ và cung phi cũng cưỡi voi. Đoàn đi có lính đánh trống, thổi tù và. Mỗi ngày vua thiết triều ba lần, có khi đến bốn lần.

Tượng thần Brahma bằng sa thạch, thế kỷ VI – VII, trưng bày tại Bảo tàng tỉnh An Giang, được phát hiện tại khu vực Giồng Xoài (khu di tích Óc Eo – Ba Thê) vào năm 1983. Ảnh: danviet.vn

Có một điều lạ là mặc dù Phù Nam đã phát triển đến trình độ một đế chế, triều đình đã được tổ chức khá quy củ và có điều kiện vật chất dồi dào, nhưng hầu như không thấy có dấu hiệu về sự hiện diện của luật pháp, một công cụ cực kỳ quan trọng cho hoạt động nhà nước. Theo sách Nam Tề thư thì cho đến thời Kiều Trần Như Xà Gia Bạt Ma (Kaundinya Jayavarman, 484 – 514) ở Phù Nam vẫn không có nhà tù. Khi xảy ra việc khiếu kiện thì cộng đồng xử bằng cách nhờ tới sự phán xử của thần linh. Họ bỏ chiếc nhẫn hoặc quả trứng vào nồi nước sôi rồi bắt người bị tố cáo thò tay vào lấy. Hoặc nghi phạm phải dùng tay trần cầm một sợi dây kim loại đã nung đỏ đi bảy bước. Nghi can cũng có thể bị quăng xuống nước… Nếu sau những phép thử này mà người bị tình nghi không hề hấn gì thì họ được tuyên bố là vô tội. Nhược bằng bị bỏng hoặc không nổi lên sau khi bị dìm xuống nước thì ắt là kẻ có tội và bị xử rất nặng. Theo tục lệ người phạm tội có thể bị chặt chân tay, bị bán làm nô lệ hoặc thậm chí bị chặt đầu. Hình thức xử như thế này chủ yếu dựa vào niềm tin tôn giáo. Thời cổ đại ở các nơi tôn giáo ngự trị họ cũng xử tội như vậy. Người phương Tây gọi đó là hình thức Thử tội (Ordeal). Điều này càng khẳng định tôn giáo có vai trò cực kỳ to lớn ở Phù Nam ngay cả khi quốc gia này đã bước vào thời kỳ đế chế. Cũng theo mô tả của Lương thư thì người Phù Nam thờ “các vị thần trên trời”. Họ đúc tượng thần bằng đồng, có vị hai mặt thì có bốn tay, bốn mặt thì tám tay, mỗi tay cầm một đồ vật như một đứa trẻ. Qua mô tả này có thể hiểu ngay tôn giáo mà Diêu Tư Liêm mô tả ở đây chính là đạo Hindu. Các vị thần được đúc tượng có nhiều tay chính là các biến thể của Trimurti (Tam thần Ấn giáo) gồm Brahma, Vishnu và Shiva. Tượng thần có nhiều mặt chính là Đấng tạo hóa Brahma[8].

Đế chế Phù Nam mở rộng thế lực

Dưới tác động mạnh mẽ của mạng lưới thương mại quốc tế, cùng với Phù Nam còn xuất hiện một số trung tâm khác với tổ chức quyền lực kiểu Mandala. Khi Phù Nam lớn mạnh, nhiều tiểu quốc đã lần lượt bị thôn tính. Vào khoảng thế kỷ thứ III, Phạm Sư Mạn đã thu phục được hơn mười tiểu quốc, trong đó có Đô Côn (都昆), Cửu Trĩ (九稚), Điển Tôn (典 孙)… mở rộng lãnh thổ đến 5, 6 nghìn dặm[9]. Ngoài ra sử liệu còn nhắc đến các tiểu quốc như Đốn Tốn, Xích Thổ, Bàn Bàn, Đan Đan, Cát Miệt[10]… cũng là thuộc quốc của Phù Nam. Trong số các tiểu quốc trên đây, ngoài Cát Miệt là vương quốc cổ của người Khmer có địa bàn trung tâm được xác định là vùng đất phía nam hồ Tonle Sap (Campuchia) và Đốn Tốn ở khu vực eo Kra (bắc bản đảo Mã Lai), vị trí các tiểu quốc còn lại đều chỉ là phỏng đoán. Dựa vào thông tin trong thư tịch cổ Trung Hoa nói về việc Phạm Sư Mạn đã mở rộng lãnh thổ tới 5, 6 nghìn dặm, có thể hình dung phạm vi mà đế chế Phù Nam có thể chi phối có chu vi khoảng 2.500 – 3.000 km (1 dặm ≈ 500 m). Vùng đất đó bao gồm toàn bộ vùng đất Nam Bộ, Nam Trung Bộ, nam Thái Lan, Campuchia và một phần phía bắc bán đảo Mã Lai, gần khu vực eo Kra.

Khái niệm “đế chế” Phù Nam được các nhà khoa học đưa ra trong thời gian gần đây chủ yếu để phân chia các giai đoạn phát triển nhằm mô tả phạm vi ảnh hưởng, chi phối rộng lớn của nhà nước hay ảnh hưởng của văn hóa Phù Nam hơn là nói về tính chất của một “đế quốc”. Mặc dù sử sách có nói tới sự kiện Phạm Sư Mạn “đóng thuyền chiến lớn chạy buồm có thể chở được một vài trăm lính, vượt biển đến Đốn Tốn” và việc Đại tướng Chiên Đàn dưới quyền Phạm Kim Sinh có tới 2.000 quân dưới trướng, nhưng trong toàn bộ các di tích đã được phát hiện và khai quật, có rất ít bằng chứng vật chất phản ánh về một “đế quốc” có lực lượng quân sự hùng mạnh. Cho đến nay trong toàn bộ di vật liên quan đến Óc Eo – Phù Nam dường như thiếu vắng những hiện vật có thể vật xếp vào loại hình vũ khí. Điều này rất khác với Angkor, ở đó hình ảnh những đoàn quân nai nịt chỉnh tề cùng voi ngựa và các tướng lĩnh vũ khí tuốt trần có thể dễ dàng tìm thấy trên khắp các bức tường Angkor Thom, Angkor Vat cũng như sân diễu binh trước điện hoàng gia xưa. Đó là những minh chứng rất thuyết phục về một đế quốc quân sự hùng mạnh. Khi khai quật địa điểm Phum Snay (tỉnh Banteay Meanchey) ở phía Tây – Bắc Campuchia có niên đại trong khoảng thế kỷ I – IV, tương ứng với thời kỳ vương quốc Phù Nam, nghĩa là trước thời kỳ Angkor, các nhà khảo cổ học đã phát hiện nhiều mộ táng, trong đó người chết, kể cả phụ nữ, đều được chôn theo kiếm, giáo và rìu, những thứ vũ khí được rèn bằng sắt. Thậm chí cả những phụ nữ cũng thường mang theo kiếm khi chết[11]. Đây là một trong những di tích điển hình của cư dân được cho là tổ tiên trực tiếp của người Chân Lạp sau này.

Không có nhiều cơ sở để lý giải sức mạnh của đế chế Phù Nam là do có một quân đội hùng cường, nhưng lại rất dễ thấy uy thế của nhà nước Phù Nam nhờ quyền năng của các thần thánh siêu nhiên. Không phải ngẫu nhiên mà trên địa bàn đã từng là lãnh thổ của Phù Nam qua các thời kỳ, trong số các di tích còn lại, các kiến trúc tôn giáo như đền, miếu chiếm tỉ lệ rất cao. Số tượng thần Vishnu, linga, tượng phật bằng gỗ, bằng đá cùng với hệ thống đền tháp hay mộ tháp tạo nên một môi trường tâm linh vô cùng huyền bí trong xã hội Phù Nam. Cùng với đội ngũ tăng lữ hùng hậu, thiết chế Deva-Raja, đồng nhất vương quyền với thần quyền đã tạo nên sức mạnh tâm linh trong một khu vực cư dân chịu ảnh hưởng rất mạnh của Hindu và Phật Giáo. Đó là bệ đỡ tư tưởng quan trọng cho đế chế Phù Nam.

Linga – Yoni bằng sa thạch, thế kỷ VII, trưng bày tại Bảo tàng tỉnh An Giang, được phát hiện tại ấp Trung Sơn, huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang năm 1985. Ảnh: danviet.vn

Cùng với mãnh lực của thần quyền và niềm tin tôn giáo, thực lực vật chất của Phù Nam nằm ở sự giàu sang do thương mại quốc tế mang lại. Từ sau khi trở thành trung tâm giao lưu thương mại của các thương thuyền quốc tế, Óc Eo nhanh chóng trở thành một cảng thị sầm uất và giàu có. Vị thế của cảng thị trung tâm và sức mạnh kinh tế của nó đã tác động đến các vùng khác ở miền Đông Nam Bộ và quanh vịnh Xiêm. Dưới tác động của hoạt động thương mại quốc tế, nhiều vùng vốn sinh sống bằng nghề trồng lúa hay khai thác thủy hải sản, lâm sản và khoáng sản đã vươn lên tổ chức thành các đơn vị hành chính dưới dạng các tiểu quốc (kiểu Mandala) hòa vào mạng lưới hoạt động ngoại thương. Nhờ trực tiếp nắm giữ cảng thị lại được giúp sức của thương nhân, tăng lữ bên ngoài (Ấn Độ và phần nào cả Trung Quốc), quý tộc Óc Eo đã trở thành thế lực chỉ huy, sau đó phát triển thành những kẻ chinh phục, thành lập đế chế thống trị. Tuy nhiên, để tạo nên hạt nhân sức mạnh của Phù Nam không chỉ riêng nhóm cư dân Óc Eo mà còn có sự tham góp của nhiều nhóm tiểu quốc khu vực sông Tiền, sông Hậu đến tận Long An, Cần Giờ. Dưới thời Phạm Sư Mạn, Phù Nam đã đủ mạnh vươn tới khống chế những tiểu quốc xa hơn xung quanh vịnh Xiêm, bao gồm cảng thị nhỏ ở ven bờ vịnh Thái Lan, Malaysia và một phần ở Java, Sumatra (Indonesia). Phù Nam trở thành thế lực kiểm soát con đường thương mại Đông – Tây và điều phối hàng hóa xuất nhập của đồng bằng Nam Bộ cũng như các hải cảng ven bờ vịnh Xiêm La.

Quan hệ đối ngoại của đế chế Phù Nam

Cư dân Óc Eo đã có tiếp xúc với các thương nhân và giới tu hành Ấn Độ từ rất sớm và từ khi nhà nước Phù Nam hình thành, nhưng quan hệ đối ngoại của vương quốc này khi ấy chủ yếu là với thương nhân và tăng lữ. Theo những tài liệu hiện có thì đến thời Tam Quốc (220 – 280) Phù Nam mới thiết lập quan hệ bang giao với nước Ngô. Đây có thể là quan hệ ngoại giao chính thức đầu tiên được ghi chép trong sử liệu. Cũng từ đây Phù Nam bắt đầu việc trao đổi sứ giả với nước ngoài, nhất là với các quốc gia ngoài thế giới Ấn Độ. Theo Lương thư thì Chu Ứng (朱應) và Khang Thái (康泰), tác giả sách Phù Nam thổ tục hay còn gọi là Phù Nam truyện, chính là sứ giả của Đông Ngô do Tôn Quyền (229 – 252) sai tới các nước phía Nam, trong đó có Phù Nam. Không rõ chính xác đoàn sứ giả Đông Ngô đến Phù Nam năm nào, nhưng sách Ngô thư cho biết vào tháng chạp năm Xích Ô thứ sáu (243), năm trị vì cuối cùng của Phạm Chiên, Phù Nam cũng đã cử sứ sang Đông Ngô dâng nhạc công và cống nạp nhiều sản vật địa phương. Đây là những lần được ghi chép khá đầy đủ do tính chất chính thức trong quan hệ bang giao giữa hai nhà nước. Trước đó khá lâu, từ sau khi Tôn Quyền giành được quyền kiểm soát Giao Châu (sau năm 229), Phù Nam đã có quan hệ giao lưu khá thường xuyên và chặt chẽ với Đông Ngô thông qua vùng đất của người Việt. Trong thời kỳ này, cùng với các thương nhân, nhiều tăng lữ Ấn Độ đã đến Luy Lâu và Hợp Phố. Đổi lại, trong văn hóa Óc Eo lại thấy dấu ấn của văn hóa Hán ở Giao Châu như các loại ngói có mặt hề ở đầu ống, bát kim loại có hàm lượng thiếc cao, trong lòng có núm đồng nổi và vòng quanh có nhiều đường chỉ chìm. Những di vật loại này gắn với con đường truyền bá đạo Phật tới vùng Đông Nam Á lục địa. Một sản phẩm rất đặc trưng cho văn hóa Hán và rất được ưa thích ở các nước là gương đồng, đã được tìm thấy khá nhiều ở ngay Óc Eo, Khao Sam Keo, Phu Khao Thong thuộc khu vực gần eo đất Kra, nơi mà nhiều nhà nghiên cứu cho rằng thuộc về phạm vi nước Đốn Tốn, một thuộc quốc của đế chế Phù Nam. Giao Châu đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong mối bang giao của các triều đại phong kiến Trung Quốc với Phù Nam. Từ thế kỷ III trở đi, các quan hệ ngoại giao chính thức hầu như đều bắt đầu từ vùng đất này.

Gương đồng thời Đông Hán phát hiện tại Giồng Cát – cánh đồng Óc Eo năm 2019. Ảnh: Tư liệu Viện Khảo cổ học

Vào khoảng giữa thập niên 30 của thế kỷ thứ III, cuộc tranh giành quyền bính trong vương triều Phù Nam kết thúc với việc Phạm Chiên lên ngôi vua. Ngay sau đó vị quốc vương này đã cử hai sứ đoàn đi Ấn Độ và Trung Hoa trong khoảng những năm 240 và 243. Vua Phù Nam được nhà Ngô phong làm “An Nam Phù Nam Vương”. Trong các giai đoạn tiếp theo từ thế kỷ III đến thế kỷ VII, quan hệ bang giao của Phù Nam còn được phản ánh trong nhiều bộ sách chính thức trong nhị thập tứ sử của các triều đại Trung Hoa. Quan hệ giữa Phù Nam với Trung Hoa diễn ra trong bối cảnh lịch sử ở Trung Hoa không hình thành một đế chế thống nhất mà thường xuyên bị phân chia thành các nước nhỏ của cục diện mà sử sách Trung Hoa gọi là Lục Triều (220 – 589). Trong khi đó Phù Nam ở tương đối xa lại có vị thế của một đế chế giàu mạnh nên trong quan hệ đối ngoại các triều Đông Ngô, Lưỡng Tấn, Lương, Trần, Tống… thường có cách ứng xử tương đối mềm dẻo. Dưới thời trị vì của Kiều Trần Như Xà Gia Bạt Ma, đế chế Phù Nam phát triển đến độ cực thịnh. Vị quốc vương này đặc biệt quan tâm đến quan hệ bang giao với Trung Hoa. Ngay sau khi nhà Lương thành lập, vào năm Thiên Giám thứ 2 (503) Kiều Trần Như đã cử một phái bộ sang kinh đô Kiến Khang để thiết lập quan hệ ngoại giao với triều đại mới. Đoàn đã được Lương Võ Đế tiếp đón nồng hậu, tặng nhiều vật phẩm làm quà và phong cho vua Phù Nam danh hiệu An Nam tướng quân Phù Nam vương. Hoàng đế nhà Lương cũng ghi nhận Phù Nam tuy là quốc gia xa xôi nhưng liên tục cử sứ giả tới, luôn giữ quan hệ hòa hiếu với Bắc triều[12].

Trong giai đoạn từ thế kỷ III đến thế kỷ VII Phù Nam vẫn tiếp tục duy trì và mở rộng bang giao với Ấn Độ, nước có quan hệ truyền thống, và luôn nhận được sự trọng thị của quốc gia Nam Á này. Xa hơn về phía Tây, Phù Nam còn giao lưu tiếp xúc với các quốc gia vùng Địa Trung Hải. Trong các di chỉ Óc Eo giai đoạn từ thế kỷ IV – VII các nhà khảo cổ phát hiện được không ít những hiện vật có nguồn gốc Tây Á và Nam Âu.

Nhóm hiện vật có nguồn gốc từ Tây Á phát hiện tại Óc Eo, trưng bày tại Bảo tàng Lịch sử TP. HCM. Ảnh: Lương Chánh Tòng / thanhnien.vn

Đời sống cư dân thời đế chế

Theo mô tả của Chu Ứng và Khang Thái thì thời hai ông tới đây (thế kỷ thứ III) “Vương Quốc Phù Nam bề ngang rộng 399 dặm, có nhiều đô thị, có tường cao bao quanh và bên trong có nhà ở. [Người Phù Nam] nước da người dân màu đen, tóc quăn… Đàn bà mặc cái chăn trùm từ cổ tới chân, xỏ lỗ để đeo hoa tai… Nếp sống [của họ] rất đơn giản nhưng không trộm cắp. Họ làm nghề nông theo lối cổ, gieo trồng một lần gặt hái luôn trong ba năm. Cùng với lúa, nông dân còn trồng rau, đậu, mía, bông và trồng dâu nuôi tằm. Họ giỏi điêu khắc và dùng đục chạm trổ rất khéo. Nhiều đồ dùng để ăn cơm như chén đĩa đều làm bằng bạc. Dân chúng đóng thuế bằng vàng bạc, trân châu và dầu thơm. Họ biết đọc sách và có văn khố. Văn tự của họ giống như nét chữ của dân Hồ[13]…  Cảnh vật trong xứ rất đẹp”. Ở các làng quê, ngoài nghề nông, dân còn có nghề đánh bắt cá và chăn nuôi súc vật. Vật nuôi thường là lợn, gà, bò, cừu và voi[14].

Sau khi Phù Nam đã mở rộng lãnh thổ và trở thành đế chế rộng lớn, cái nhìn của các tác gia Trung Hoa cũng đã khác đi. Theo tác giả Lương thư, bên cạnh phẩm chất thật thà và tốt bụng thì dân Phù Nam quỷ quyệt và mưu lược. Họ giỏi buôn bán nhưng cũng thường đi đánh cướp các thị trấn láng giềng nếu không chịu thuần phục họ. Ở thành thị, nhiều ngành thủ công như đúc đồng, làm gốm, kim hoàn, làm đường và dệt vải… đã phát triển tới trình độ khá cao. Dân chúng ở nhà sàn làm bằng gỗ, mái lợp bằng lá giữa một hệ thống kênh rạch như bàn cờ. Họ không đào giếng mà làm hồ chứa nước ngọt dùng chung. Phương tiện vận chuyển chủ yếu là ghe thuyền.

Họ rất thạo chiến đấu với vũ khí thường dùng là kiếm, lao, cung, nỏ… Chiến binh mặc áo giáp làm bằng da thú. Những kẻ bại trận bị họ bắt làm nô lệ. Chính vì vậy trong xã hội Phù Nam thời kỳ này, ngoài các tầng lớp quý tộc, thương nhân, bình dân, còn hiện diện một bộ phận không nhỏ những người lao động với thân phận nô lệ. Phần nhiều họ là những nô lệ của nhà nước bị bắt buộc làm các công trình công cộng như xây dựng các công trình kiến trúc tôn giáo, thành quách của triều đình và nhất là tham gia vào việc đào các kênh mương. Hệ thống kênh mương chằng chịt, trong đó có con kênh dài tới gần 100 km chứng tỏ lực lượng tham gia vào công việc này không hề nhỏ.

Ở Phù Nam, khi nhà có người chết, người chịu tang là nam phải cạo đầu, cạo râu. Cả nhà mặc đồ tang màu trắng. Họ có những kiểu cách táng khác nhau tùy theo mỗi vùng và gia chủ. Thông thường là hỏa táng. Người chết được đốt bằng củi, sau đó cốt tro bỏ vào bình đem chôn. Những cư dân làm nghề chài lưới thì dùng phương thức thủy táng. Sau khi làm lễ nghi xong, họ thả thi hài xuống sông cho cá ăn. Có những vùng chôn theo phương thức thổ táng. Thi hài được cho vào hòm, sau khi làm lễ đem chôn sâu vĩnh viễn dưới đất. Hình thức này khá giống với hình thức mai táng của người Việt và người Hoa. Tuy nhiên người Phù Nam hoàn toàn không biết hình thức cải táng. Táng thức đặc biệt nhất là điểu táng. Người chết được làm các nghi lễ, được đưa vào rừng hoặc những nơi hoang vắng để muông thú ăn hoặc chim rỉa thịt. Cả bốn táng thức này đều rất phổ biến ở Ấn Độ thời cổ đại[15]. Riêng hình thức điểu táng hiện nay vẫn còn được duy trì ở Tây Tạng.

Thời kỳ suy vong

Tác nhân khiến Phù Nam phát triển mạnh và trở thành một đế chế là thương nghiệp, nhất là ngoại thương, nhưng nền tảng cho sự phát triển ấy lại là nông nghiệp. Từ thời tiền Óc Eo, Nam Bộ đã là một vùng có nền nông nghiệp năng suất cao. Đây chính là điều kiện hấp dẫn các thương nhân nước ngoài chọn làm nơi xây dựng cứ điểm phục vụ cho hoạt động giao thương. Vốn là một châu thổ tương đối trẻ, mới thành tạo cách đây khoảng hơn 8.000 năm, còn nhiều vùng trũng thấp. Cùng với 9 cửa sông lớn, hệ thống kênh rạch dày đặc do con người tạo ra khiến cho vùng đất này rất dễ bị tổn thương khi nước mặn dâng cao. Vào khoảng thế kỷ thứ IV, một sự kiện địa chất diễn ra đã có tác động bất lợi cho nông nghiệp vùng Nam Bộ. Đó là biển tiến cục bộ. Theo kết quả nghiên cứu gần đây thì vào khoảng giữa thế kỷ IV, nước biển đã dâng cao tới 0,5 m và đạt đỉnh cao nhất là 1 m vào thập niên 30 của thế kỷ VII. Mức nước biển như vậy dừng lại trong vòng nửa thế kỷ, sau đó hạ dần cho đến giữa thế kỷ XII mới trở về mức cũ[16]. Hậu quả của nó là hầu hết các diện tích đất có thể trồng lúa vùng ven biển Phù Nam bị ngập và nhiễm mặn khiến cho nông nghiệp trồng lúa bị tàn phá không chỉ ở cuối thời đế chế Phù Nam mà còn là nguyên nhân gây ra tình trạng hoang phế của Nam Bộ trong nhiều thế kỷ tiếp sau. Lúa gạo là loại hàng hóa quan trọng thời cổ, nhưng quan trọng hơn là nguồn lương thực đảm bảo một lực lượng lao động đông đảo hoạt động trong các lĩnh vực phi nông nghiệp như thương nghiệp, thủ công nghiệp, xây dựng, dịch vụ ở đô thị và quân đội. Biển tiến cục bộ là hiện tượng tự nhiên nhưng đã có tác động rất lớn đến xã hội và chính trị. Việc đất canh tác lúa vùng đồng bằng thấp bị nhiễm mặn làm cho năng suất lúa trong vùng suy giảm tạo nên sự mất cân bằng giữa hai thế lực của Phù Nam. Thế lực cảng thị ven biển vốn có vị trí thống trị bị giảm dần ưu thế, trong khi thế lực vùng cao, trong đó có Chân Lạp, từng ở địa vị phụ thuộc lại có vị thế ngày càng tăng lên. Có thể đây cũng là một trong những lý do Phù Nam ngày càng dồn sức phát triển kinh đô ở vùng đất cao, tại vị trí Ankor Borei hiện nay.

Trong khi các thuộc quốc của Phù Nam không ngừng lớn mạnh, quyền lực của nhà nước trung tâm thể hiện trước hết ở chỗ vua Phù Nam không cho phép các thuộc quốc được tự ý giao dịch với bên ngoài, nhưng không hạn chế tính năng động của các hoạt động kinh tế, giống như hệ thống nhà nước đa cảng thị (Multipolity) của Ấn Độ. Những tiểu quốc bị Phù Nam chinh phục từ cuối thế kỷ III là những cảng thị nhỏ chủ yếu hình thành dưới tác động của hoạt động thương mại quốc tế gắn với trung tâm trung chuyển lớn thời bấy giờ là eo Kra. Trong số này, Chân Lạp là tiểu quốc rất khác với truyền thống văn hóa Óc Eo, nền tảng của quốc gia Phù Nam, người Cát Miệt là cư dân vùng cao sống dựa vào nông nghiệp và săn bắn. Nếu như trong các mộ táng thuộc văn hóa Óc Eo rất hiếm gặp các đồ tùy táng là vũ khí thì trong các di chỉ ở Phum Snay (Prey Veng, Campuchia) các nhà khảo cổ đã phát hiện những khu mộ táng chôn nguyên xác cùng với nhiều vũ khí làm bằng sắt như kiếm, dao, rìu. Kiểu chôn cất người chết và bộ đồ tùy táng cho thấy nhóm cư dân Phum Snay không cùng nguồn gốc với chủ nhân Óc Eo và Phù Nam gốc, trái lại họ gần gũi với nhóm cư dân cùng thời ở lưu vực sông Mun (Thái Lan) như Noen U-Lok, Non Muang Kao… những người thuộc văn hóa Môn-Khmer, những cư dân được coi là rất thiện chiến[17]. Ở giai đoạn hưng thịnh, đế chế Phù Nam đã thần phục được Chân Lạp như một thuộc quốc phía bắc. Để xây dựng quan hệ tin cậy, giữa Phù Nam và Chân Lạp thường diễn ra các cuộc hôn nhân của hoàng thân và công chúa.

Cùng với sự lớn mạnh của các tiểu quốc, vai trò trung tâm của Phù Nam còn do tầm quan trọng của eo Kra ngày càng bị giảm sút. Các thuyền buôn qua lại giữa Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương ngày càng ít sử dụng phương thức chuyển tải hàng hóa ở trạm trung gian bằng đường bộ. Tại các vùng quanh hai eo biển Malacca và Sunda thuộc bán đảo Malaysia, các đảo Sumatra, Java và phần phía tây nam đảo Borneo (Calimantan) xuất hiện nhiều trung tâm cảng thị hình thành chính quyền dưới dạng các Mandala. Các tiểu quốc này có xu hướng liên kết với nhau thành một hệ thống cảng thị. Một trung tâm lớn được hình thành ở Palembang trên đảo Sumatra. Sức mạnh chi phối của trung tâm này ngày càng tăng lên. Các tiểu quốc cảng thị dưới sự chi phối của trung tâm trên đảo Sumatra được biết đến với cái tên Srivijaya[18], một đế chế hùng mạnh sau này còn thâu tóm cả một phần lãnh thổ của các quốc Đông Nam Á lục địa. Sức mạnh của đế chế Phù Nam được xây dựng chủ yếu trên nền tảng của kinh tế thương nghiệp dưới tác động mạnh mẽ của hoạt động thương mại quốc tế sôi động thông qua cảng trung chuyển nằm ở hai bờ eo đất Kra. Khi vùng đất này mất dần vai trò quan trọng của chiếc cầu nối liên thế giới đã kéo theo sự suy yếu của Phù Nam.

Khác với đất phát tích vương triều Phù Nam là vùng đồng bằng thấp gần biển, kinh đô Vyadhapura thời đế chế ở địa thế tương đối cao, khô. Đây là địa bàn truyền thống của người Kh’mer. Khi nhà nước Chân Lạp ra đời, Mandala của người Khmer, một tộc người thiện chiến, từng là chỗ dựa vững chắc về mặt quân sự cho Phù Nam. Khi hiện tượng biển tiến cục bộ xuất hiện khiến các vùng trồng lúa ở hạ lưu sông Mekong bị nhiễm mặn thì nông nghiệp vùng cao, không chịu tác động của nước biển dâng, dần chiếm ưu thế. Đó là một trong những nguyên nhân làm tăng sức mạnh của Chân Lạp, dẫn tới sự li tâm chính trị của thuộc quốc này đối với Phù Nam.

Vốn đã có manh nha về sự chia rẽ từ trước, mâu thuẫn trong nội bộ triều đình Phù Nam trở nên gay gắt sau khi Kaundinya Jayavarman qua đời vào năm 514. Một cuộc đấu tranh để giành ngôi đoạt vị đã diễn ra làm suy yếu vương triều. Trong bối cảnh ấy, xu hướng ly khai của các thuộc quốc ngày càng gia tăng. Lợi dụng cơ hội Phù Nam suy yếu, Chân Lạp đã liên tục tiến công Vyadhapura. Năm 550 Bhavavarman cùng với người em là Citrasena đã tổ chức một cuộc tấn công quy mô lớn, buộc triều đình Phù Nam phải bỏ kinh đô chạy về Na Phất Na. Ngay sau chiến thắng này, Bhavavarman lên ngôi vua Chân Lạp, cho dời kinh đô đến đến Isanapura (nay thuộc tỉnh Kampong Thom, Campuchia) và trị vì vương quốc này trong vòng 50 năm.

Na Phất Na (Naravaranagara) chính là vùng đất dựng nghiệp của vương quốc Phù Nam, nằm trong khu vực Óc Eo. Tại đây nhà nước Phù Nam tiếp tục tồn tại gần tám thập kỷ nữa. Trong thời gian này, sử Trung Quốc chép các sứ thần Chân Lạp đến triều kiến nhiều hơn Phù Nam. Điều này chứng tỏ từ sau năm 550 Chân Lạp đã thực sự trở thành một vương quốc độc lập, nhưng Phù Nam vẫn chưa bị tiêu diệt hoàn toàn. Đoàn sứ thần Phù Nam cuối cùng đến Trung Quốc được sử chép là vào năm Trinh Quán thứ hai triều Đường (627)[19].

Mặc dù đến nay chưa có tư liệu nào cho biết thật chính xác thời gian Phù Nam bị diệt vong hoàn toàn, nhưng dựa vào tư liệu trên đây, hầu hết giới khoa học đều thống nhất cho rằng sự kiện này không xảy ra sớm hơn năm 627.

Hiện vật vàng phát hiện tại di tích Đá Nổi, huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang. Ảnh: Lương Chánh Tòng / thanhnien.vn

 Vùng đất Nam Bộ thời hậu đế chế Phù Nam

Sự kiện triều đình Vyadhapura phải bỏ kinh thành Đặc Mục[20] chạy về phía nam vào năm 550 là dấu mốc kết thúc thời kỳ đế chế của Phù Nam. Trong khoảng thời gian trước khi chấm dứt hoàn toàn sự tồn tại, vương quốc Phù Nam đã trải qua những năm tháng hết sức khó khăn. Không có nhiều tài liệu thư tịch chép về giai đoạn này, thậm chí ngay đến tên của những người đứng đầu đất nước từ sau khi vua Rudravarman qua đời vào năm 550 cũng chưa tìm được. Sự thiếu vắng thông tin trong các thư tịch cổ Trung Hoa gián tiếp khẳng định trong thời gian này Phù Nam hầu như không có giao tiếp với các chính quyền Trung Quốc trong giai đoạn cuối thời Nam – Bắc triều và hai triều Tùy, Đường sau đó.

Óc Eo là vùng đất bản bộ, từng hội đủ các điều kiện giúp Phù Nam phát triển thành một đế chế, nhưng khi trở lại, con cháu của Rudravarman phải đối mặt với nguy cơ không còn đất dung thân. Các hoạt động thương mại quốc tế đã chuyển sang các vùng lân cận hai eo biển Malacca và Sunda khiến thương cảng Óc Eo lụi tàn. Nước biển dâng cao làm đất trồng lúa nhiễm mặn, nông nghiệp đình đốn. Trong khi đó thế và lực của Chân Lạp ngày càng tăng lên, liên tục đánh phá với ý đồ thôn tính hoàn toàn Phù Nam.

Mặc dù trong một thời gian dài vắng bóng trong các tài liệu thư tịch, nhưng sự kiện vào năm 627 Phù Nam vẫn cử một đoàn sứ thần đến Tràng An triều cống được chép trong Đường thư chứng tỏ trong vòng gần 80 năm chính quyền Phù Nam vẫn tồn tại. Có thể vương triều khi ấy vẫn tiếp tục đóng ở Na Phất Na. Sự kiện này còn có ý nghĩa chính quyền vương quốc Phù Nam đã đặt kỳ vọng lớn vào nhà Đường, một triều đại hùng mạnh mới lên, điều mà giới quý tộc Phù Nam mạt kỳ không trông mong ở các triều đại Trung Hoa cuối thời Nam – Bắc triều.

Không như chính trị, văn hóa luôn có sức sống mãnh liệt và bền lâu. Óc Eo là một nền văn hóa rực rỡ, không chỉ là tảng nền cho văn minh Phù Nam mà còn có sức mạnh tỏa rạng trong một khu vực rộng lớn. Phù Nam biến mất khỏi vũ đài chính trị sau khi thất bại trước Chân Lạp, vốn từng là thuộc quốc của mình vào thế kỷ thử VII, nhưng dấu ấn văn hóa Óc Eo vẫn còn tồn tại trong một thời gian rất dài sau đó.

Trong những năm gần đây, các nhà khảo cổ học trong nước và quốc tế đã tiến hành khai quật di tích Gò Tư Trăm thuộc thị trấn Ba Thê (huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang). Công việc khai quật di tích Gò Tư Trăm được tiến hành khá công phu và bài bản. Viện Khoa học Xã hội vùng Nam Bộ, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh) đã tiến hành khai quật bốn lần vào các năm 2002, 2005, 2008 và 2011. Các cơ quan này đã phối hợp với Trường Viễn Đông Bác Cổ (Pháp), Trường Đại học Sophia Nhật Bản. Một số kết quả đã thông báo tại Đại hội Tiền sử Ấn Độ – Thái Bình Dương (IPPA) lần thứ 19 năm 2009.

Kết luận

Phù Nam là một trong ba nhà nước cổ đại có đóng góp nổi bật trong lịch sử Việt Nam. Trong một thời gian dài, Phù Nam chỉ được biết đến qua những ghi chép tản mạn, sơ sài trong thư tịch cổ Trung Hoa, những thông tin không dễ giải mã trên một số bi ký chữ Phạn và một số di tích trên mặt đất đã bị văn hóa của những lớp người đến sau làm thay đổi, biến dạng. Sau phát hiện khảo cổ học của Louis Malleret vào năm 1944 ở Óc Eo, đã có nhiều công trình nghiên cứu gắn kết các tư liệu văn tự với các di tích vật chất làm cho lịch sử vương quốc Phù Nam trở nên sáng rõ hơn. Tuy nhiên, hơn 30 năm chiến tranh sau đó đã cản trở công cuộc nghiên cứu tiếp theo về Phù Nam, nhất là công việc khai quật khảo cổ và nghiên cứu thực địa.

Những điểm mới quan trọng trong nhận thức khoa học trước hết là về cư dân chủ thể của vương quốc Phù Nam. Trước đây vì nhiều nguyên nhân, nhưng chủ yếu là do còn thiếu thông tin nên việc xác định nguồn gốc cư dân chủ thể của vương quốc Phù Nam còn bị hạn chế. Thực ra trong các thư tịch cổ, Phù Nam đã được phân biệt rõ ràng với Chân Lạp, nhưng sự khác biệt về cư dân thì vẫn còn mơ hồ. Với tiếp cận liên ngành, các học giả Việt Nam và quốc tế trong ba mươi năm qua đã khai thác triệt để mọi nguồn tư liệu và đã có bước tiến dài trong nhận thức vấn đề này. Theo các tư liệu khảo cổ học và thư tịch cổ, Óc Eo là một nền văn hóa có nguồn gốc bản địa với chủ thể là cộng đồng cư dân xếp vào nhóm ngôn ngữ Malayo-Polynesian. Cư dân Phù Nam có nhiều nét tương đồng với các cư dân ven biển Miền Trung Việt Nam. Cùng với những biến thiên lịch sử, người Chân Lạp có nguồn gốc Môn-Khmer là lớp cư dân đến sau, có thể là từ sau khi vương quốc Phù Nam suy tàn vào thế kỷ VII.

Một nhận thức quan trọng khác gắn với quan điểm hai giai đoạn phát triển của Phù Nam. Giai đoạn đầu kéo dài từ khi Phù Nam lập quốc vào đầu Công nguyên đến thế kỷ III. Đây là thời kỳ cư dân nông nghiệp trồng lúa nước vùng đồng bằng Nam Bộ có sự gặp gỡ với các thương nhân đến từ Ấn Độ tạo nên sự phát triển đột biến với sự ra đời nhà nước Phù Nam. Rất khác với loại hình nhà nước thường thấy ở Đông Bắc Á, nhà nước Phù Nam là một trung tâm thu hút các vùng ngoại vi. Do ở vào vị trí đắc địa, Phù Nam nhanh chóng phát triển thành một trung tâm có sức mạnh chi phối ra ngoài không gian Óc Eo, vươn tới các vùng hạ lưu sông Chao Phraya và phần phía bắc bán đảo Malaysia, xung quanh eo đất Kra, nơi giữ vai trò trung chuyển hàng hóa quốc tế quan trọng trong hoạt động thương mại giữa hai thế giới Trung Hoa và Ấn Độ.

Một trong những điểm mới trong nghiên cứu Phù Nam là sự kết hợp phân tích các tư liệu lịch sử với các dữ liệu về cổ địa mạo và cổ khí hậu. Những nhận định về quá trình biển tiến cục bộ khiến cho nước biển dâng cao cùng với những phân tích về địa-chính trị, địa-kinh tế, đã góp phần chỉ ra nguyên nhân lụi tàn của Phù Nam một cách thuyết phục. Đồng thời đây cũng là một lý do giải thích vì sao Nam Bộ cho đến tận thế kỷ XVII vẫn còn là một vùng đất tương đối hoang vu.

Những kết quả nghiên cứu mới, nhất là về khảo cổ học, đã cho thấy sức sống mạnh mẽ của văn hóa Óc Eo. Mặc dù về mặt nhà nước, Phù Nam đã bị diệt vong từ thế kỷ VII, nhưng dấu tích vật chất trong các di chỉ khảo cổ có niên đại sau đó vẫn tiếp nối truyền thống văn hóa Óc Eo. Từ thế kỷ X về sau, những ảnh hưởng của văn hóa Angkor mới bắt đầu in dấu ấn lên vùng đất dưới cái tên Thủy Chân Lạp trong sử sách Trung Hoa.■

TSKH Vũ Minh Giang

 

Chú thích:

[1] Diêu Tư Liêm: Lương thư, Sđd.

[2]  Tập hợp từ các công trình của Georges Cœdès (1906): La Stele de Ta-Prohm, Bulletin de l’Ecole francaise d’Extreme-Orient (BEFEO), Hanoi, VI; Histoire ancienne des États hindouisés d’Extrême-Orient, Hanoi, 1944; Les états hindouisés d’Indochine et d’Indonésie, Paris, 1948. Lê Hương (1974): Sử liệu Phù Nam, NXB Nguyên Nhiều, Sài Gòn; Lương Ninh (2006): Nước Phù Nam, NXB ĐHQG Thành phố Hồ Chí Minh.

[3] Họ Phạm (范) thường thấy trong danh tính các quốc vương hoặc hoàng thân, quốc thích ở các quốc gia Đông Nam Á chịu ảnh hưởng văn minh Ấn Độ. Thực ra đây không phải là họ theo nghĩa huyết thống mà là phiên âm của từ Varman (वर्मन्) trong tiếng Sancrit với nghĩa gốc là che chắn, bảo hộ. Sau đó được gắn thêm ý nghĩa thiêng liêng là người được thần linh che chở và dùng như một phần cấu tạo nên tên của các bậc quân vương và một số hoàng tử được nhắm làm kế vị. Trong nhiều trường hợp Varman còn được phiên âm bằng hai chữ Hán là Bạt Ma (跋摩).

[4] Lương Ninh trong nhiều bài viết, tập trung nhất là Nước Phù Nam (Sđd) cho rằng nhà nước Phù Nam, nhất là thời kỳ mở rộng thế lực (đế chế) không phải là Mandala. Tuy nhiên, luận điểm phản bác chủ yếu xuất phát từ quan niệm của tác giả cho rằng Mandala là một dạng nhà nước sơ khai, tổ chức lỏng lẻo.

[5] Trong tiếng Sancrit, Deva (देव) có nghĩa là thần thánh và Raja/Rajan (राजन्) có nghĩa là cai trị, thủ lĩnh, vua, hoàng tử. Deva-Raja là hình thức kết hợp chặt chẽ vương quyền với thần quyền vào một người.

[6]  Trước đây, dựa vào phỏng đoán của một số học giả Pháp, có quan điểm cho rằng thủ đô Phù Nam từ sau thế kỷ III nằm đâu đó ở Prei Veng, nhưng với những phát hiện khảo cổ mới thì đa số cho rằng thủ đô Phù Nam sau thời kỳ Óc Eo là Vyadrapura phải nằm ở Ankor Borei, tỉnh Takeo (Campuchia).

[7] Sanderson D. C. W. (2003): Luminescene dating of anthropogenically reset canal sediments from Angco Borei, Mekong delta, Cambodia, trong Quatenary Science Reviews, 22, tr. 1111-1121.

 [8] Diêu Tư Liêm: Lương thư, Sđd.

[9] Lý Diên Thọ: Nam sử, quyển 78, Liệt truyện thứ 68 Phù Nam quốc. Thiên nhai tri thức khố. http://book.sbkk8.com/

[10]  Cát Miệt (吉蔑): phiên âm từ Khmer, chỉ tiểu quốc sau này trở thành vương quốc Tchenla (Chân Lạp), tiền thân của nước Campuchia.

[11] O’Reilly, Dougald J. W. et al (2006): Archaeology and Archaeozoology of Phum Snay: A Late Prehistoric Cemetery in Northwestern Cambodia, trong Asian Perspectives – Volume 45, Number 2, tr. 188-211. Yasuda Yoshinori (2007): The preliminary report for the excavation in Phum Snay. Tư liệu Bộ Mỹ thuật Campuchia.

[12] Diêu Tư Liêm: Lương thư, Sđd.

[13] Người Hồ (胡人, Hồ nhân): Là danh từ người Hán chỉ các tộc người khác ở về phía Tây và phía Bắc. Một số tộc người sử dụng văn tự Nam Phạn (Pali पाळि). Người Phù Nam khi ấy dùng chữ Phạn (Sankrit  संस्कृता वाक्).

[14] Khang Thái, Chu Ứng: Phù Nam truyện, Trung Quốc cổ tịch mạng Bách khoa thư mở Baidu, Sđd.

[15] Diêu Tư Liêm: Lương thư, Sđd.

[16] Liêu Kim Sanh (1983): Hải xâm hải thoái xưa ảnh hưởng đến vùng đồng bằng Nam Bộ, trong Văn hóa Óc Eo và các văn hóa cổ ở Đồng bằng sông cửu Long, Long Xuyên, tr. 74-85.

[17] Higham Ch. (2002): Early Cutures of Mainland Southeast Asia, Riverbooks, Bangkok; Higham Ch., Kijngam A. và Talbot S. (eds.) (2007): The Origins of Civilization of Angco, Vol II: The Excavations of Noen U-Loke and Non Muang Kao, Bangkok.

[18] Srivijaya là một trung tâm thu hút các tiểu quốc quanh vùng và sau đó trở thành một đế chế hùng mạnh ở khu vực Đông Nam Á hải đảo cho đến tận cuối thế kỷ XIII. Trong tiếng Sancrit, sri (श्री) nghĩa là tỏa sáng còn vijaya (विजय) nghĩa là vinh quang. Trong các thư tịch cổ Trung Hoa, danh xưng này được chép là 室利佛逝 (Thất Lợi Phật Thệ) hoặc 三佛齊 (Tam Phật Tề). Srivijaya là một trung tâm thu hút các tiểu quốc quanh vùng và sau đó trở thành một đế chế hùng mạnh ở khu vực Đông Nam Á hải đảo cho đến tận cuối thế kỷ XIII.

[19]  Âu Dương Tu, Tống Kỳ (2017): Tân Đường thư, Sđd.

[20]  Đặc Mục (特牧): Kinh thành của Phù Nam từ thế kỷ thứ III được chép trong các thư tịch cổ Trung Hoa. Giới nghiên cứu đều thống nhất cho rằng đó chính  là tên dịch sang tiếng Hán của tên gọi kinh đô Vyadhapura trên các bi ký Phạn ngữ vì cũng có nghĩa là thành phố Thợ săn. Vyadha (व्याध): Thợ săn, pura (पुर): thành phố.

BÌNH LUẬN

BÀI VIẾT LIÊN QUAN