Mỹ và các cường quốc châu Âu gần đây đồng loạt thúc ép Moskva chấp nhận một lệnh ngừng bắn toàn diện kéo dài 30 ngày tại Ukraine. Tổng thống Mỹ Donald Trump thậm chí cảnh báo nếu Nga không đồng ý ngừng bắn vô điều kiện, Washington và đồng minh sẽ áp đặt thêm các biện pháp trừng phạt chung nhằm gia tăng sức ép. Dưới góc nhìn Nga, tối hậu thư ngừng bắn 30 ngày do phương Tây áp đặt chẳng khác nào “mưu đồ trì hoãn” có lợi cho Ukraine. Tuy vậy, Nga vẫn chấp nhận tới vòng đàm phán hòa bình đầu tiên giữa Nga và Ukraine tại Istanbul, ngày 16/5/2025.

Những cuộc hoà đàm thất bại

Dù ngồi cùng bàn, hai phái đoàn nhanh chóng rời khỏi cuộc họp mà không đạt được bất cứ thỏa thuận chính trị nào. Hai bên đưa ra các yêu sách được coi là “không thể chấp nhận lẫn nhau”. Phía Ukraine yêu cầu Nga lập tức ngừng bắn hoàn toàn và rút quân khỏi các vùng lãnh thổ chiếm đóng, coi đây là điều kiện tiên quyết để tiếp tục thương lượng. Ngược lại, phía Nga đòi Kiev trước hết phải rút lực lượng khỏi “các phần lãnh thổ của chính Ukraine” hiện do Moskva tuyên bố sáp nhập, thì mới xem xét ngừng bắn. Nói cách khác, Moskva yêu cầu Kiev chấp nhận mất thêm đất – một đòi hỏi mà phía Ukraine gọi thẳng là “tối hậu thư phi thực tế” và tương đương với đầu hàng. Điểm sáng hiếm hoi của vòng đàm phán này là thỏa thuận trao đổi tù binh với quy mô lớn chưa từng có. Cả Moskva và Kiev đều xác nhận đã đồng ý trao đổi 1.000 tù binh mỗi bên trong thời gian sớm nhất. Đây sẽ là đợt trao trả tù binh quy mô lớn nhất kể từ khi xung đột nổ ra. Ngay khi rời bàn đàm phán, các lãnh đạo Ukraine lập tức kêu gọi phương Tây tăng cường sức ép lên Nga sau khi thỏa thuận ngừng bắn không đạt được. Tổng thống Zelensky thông báo ông đã điện đàm với Tổng thống Mỹ D. Trump cùng Thủ tướng Anh, Tổng thống Pháp, Thủ tướng Đức… để hối thúc áp đặt gói trừng phạt mới nếu Nga tiếp tục từ chối ngừng bắn vô điều kiện. Kiev cũng đề nghị phương Tây đẩy mạnh viện trợ vũ khí để “bù đắp thời gian” khi lệnh ngừng bắn chưa thành hiện thực. Phản ứng này của Ukraine càng củng cố niềm tin từ phía Nga rằng đàm phán chỉ là đòn nghi binh: Kiev vẫn trông chờ dùng sức ép kinh tế và quân sự của Mỹ–EU hơn là thực sự muốn thỏa hiệp trên bàn đàm phán.

Hai tuần sau vòng một, phái đoàn hai nước gặp lại nhau tại Istanbul vào ngày 2/6/2025 dưới sự chủ trì của Ngoại trưởng Thổ Nhĩ Kỳ Hakan Fidan. Ở vòng đàm phán thứ hai này, lập trường đôi bên thậm chí còn tỏ rõ mâu thuẫn sâu sắc hơn. Ukraine đến bàn đàm phán với đề xuất ngừng bắn toàn bộ, đi kèm yêu cầu Nga phải trao trả mọi tù binh còn lại và “trả những đứa trẻ Ukraine đã bị đưa sang Nga”, ám chỉ hàng trăm trẻ em tại vùng chiến sự mà Kiev cáo buộc Moskva “cưỡng ép di dời”. Tổng thống Zelensky cũng thúc đẩy kế hoạch tổ chức hội nghị thượng đỉnh trực tiếp với Tổng thống Putin, tin rằng chỉ đối thoại cấp nguyên thủ mới có thể giải quyết những điểm nghẽn chính trị. Tuy nhiên, về các vấn đề cốt lõi, lập trường Kiev hầu như không thay đổi: kiên quyết không chấp nhận trung lập, tiếp tục bác bỏ yêu sách giải giáp hoặc giới hạn quân đội, không nhượng bộ bất kỳ phần lãnh thổ nào hiện do Nga kiểm soát và yêu cầu Moskva bồi thường thiệt hại chiến tranh. Phía Ukraine nhấn mạnh họ đã có “lộ trình hòa bình” của riêng mình, trong đó không có chỗ cho việc từ bỏ chủ quyền hay năng lực phòng thủ.

Vòng đàm phán hòa bình thứ 2 giữa Nga và Ukraine tại Istanbul, Thổ Nhĩ Kỳ, ngày 2/6/2025. Ảnh: TASS

Trái với bộ mặt “mềm mỏng” mà Ukraine thể hiện, đoàn đàm phán Nga đến Istanbul lần này mang theo một “Bản ghi nhớ” dài, liệt kê chi tiết các điều khoản mà Moskva đòi hỏi để chấm dứt xung đột. Văn kiện này nêu rõ một thỏa thuận hòa bình chỉ đạt được nếu Ukraine công nhận chủ quyền Nga ở bán đảo Crimea và 4 vùng lãnh thổ khác (Donetsk, Lugansk, Zaporozhye, Kherson) mà Moskva tuyên bố sáp nhập từ 2022. Kiev phải rút toàn bộ quân khỏi các vùng đất đó. Ngoài ra, văn bản lặp lại các yêu sách lâu nay: Ukraine phải trở thành một quốc gia trung lập, vĩnh viễn từ bỏ mục tiêu gia nhập NATO; phải bảo vệ quyền lợi của cộng đồng nói tiếng Nga và đưa tiếng Nga thành ngôn ngữ chính thức bên cạnh tiếng Ukraine. Kiev cũng phải ban hành đạo luật cấm tư tưởng tân phát xít – điều mà Moskva luôn cáo buộc chính quyền Ukraine cổ súy. Về điều kiện ngừng bắn cụ thể, Nga đưa ra hai lựa chọn “nhượng bộ một phần”: (1) Ukraine rút quân từng bước khỏi bốn vùng nêu trên; hoặc (2) Ukraine đình chỉ mọi hoạt động tái triển khai quân và dừng tiếp nhận viện trợ quân sự, tình báo từ nước ngoài. Cả hai phương án này, theo phương Tây, đều “không khác gì đòi hỏi Ukraine tự trói tay chịu trận”, do đó chắc chắn bị Kiev bác bỏ thẳng thừng.

Giống vòng trước, kết quả đáng kể duy nhất của vòng đàm phán thứ hai vẫn nằm ở khía cạnh nhân đạo. Hai bên đã nhất trí sẽ trao trả thêm tù binh – ưu tiên những người trẻ và bị thương nặng, đồng thời hoàn trả thi thể khoảng 12.000 binh sĩ tử trận của mỗi bên về quê nhà. Đây là thỏa thuận trao trả thi hài lớn nhất từ đầu chiến tranh, góp phần xoa dịu phần nào nỗi đau cho hàng ngàn gia đình liệt sĩ ở cả Nga và Ukraine.

Tuy nhiên, về mục tiêu chính là ngừng bắn, vòng đàm phán thứ hai vẫn thất bại. Phía Ukraine – được Mỹ và châu Âu hậu thuẫn – tiếp tục kêu gọi một lệnh ngừng bắn toàn diện, vô điều kiện ngay lập tức, nhưng Nga cương quyết bác bỏ điều mà họ coi là một cái bẫy tạm ngừng chiến. Trưởng đoàn Nga Vladimir Medinsky cho biết họ chỉ đề xuất tạm ngừng bắn cục bộ vài ngày thu gom tử sĩ, còn một lệnh ngừng bắn dài ngày phải gắn liền với các điều kiện chính trị cụ thể. Thực tế, các điều khoản khắc nghiệt trong bản ghi nhớ Nga đưa ra như “đòi Ukraine đầu hàng”, nên không có đột phá nào về lệnh ngừng bắn sau cuộc họp. Ukraine đề nghị tiếp tục thương lượng vòng kế tiếp vào cuối tháng 6, song ám chỉ rằng chỉ có cuộc gặp thượng đỉnh Putin–Zelensky mới có thể giải quyết những bất đồng chồng chất. Về phía mình, Tổng thống Putin đã từ chối lời mời gặp trực tiếp của ông Zelensky tại Istanbul. Kỳ vọng vào đột phá hòa bình vì thế ngày càng trở nên mong manh.

Nga cáo buộc Ukraine câu giờ, phá hoại trước đàm phán

Phía Nga không tin tưởng động cơ thực sự của Ukraine khi chịu ngồi vào bàn đàm phán. Giới chức Moskva nhiều lần cảnh báo Kiev “muốn lợi dụng các cuộc hòa đàm để tranh thủ thời gian củng cố quân lực”, chứ không thực tâm tìm kiếm hòa bình. Quả thực, ngay trong thời gian chuẩn bị thương lượng, Ukraine đã mở hàng loạt cuộc tập kích táo bạo vào sâu trong lãnh thổ Nga, khiến dư luận Nga thêm hoài nghi thiện chí của Kiev. Ngày 1/6, chỉ một ngày trước vòng đàm phán 2/6, quân đội Ukraine tiến hành chiến dịch “Mạng Nhện” sử dụng tới 117 UAV tấn công đồng loạt 4 căn cứ không quân chiến lược của Nga ở Siberia và vùng Viễn Bắc, nơi đặt các máy bay ném bom tầm xa mang vũ khí hạt nhân của Moskva. Ukraine tuyên bố chiến dịch này đã phá hủy hoặc làm hư hại 41 máy bay Nga – một tổn thất nặng nề cho lực lượng không quân tầm xa của Nga. Mặc dù Moskva chưa xác nhận con số này và cho rằng Kiev phóng đại, các ảnh vệ tinh độc lập cho thấy cơ sở hạ tầng ở ít nhất hai sân bay Nga đã bị hư hại nghiêm trọng. Phương Tây nhận định đây là một trong những đòn tập kích táo bạo nhất của Ukraine kể từ đầu chiến tranh, khi lần đầu tiên máy bay Nga ở cách tiền tuyến hàng ngàn km bị tấn công. Điều đáng nói là Kiev triển khai chiến dịch đúng vào thời điểm nhạy cảm: ngay trước cuộc gặp hòa đàm, khiến Nga càng có lý do để tin rằng Ukraine “nói hòa bình nhưng làm ngược lại”.

Cùng thời gian này, cầu Crimea nối bán đảo Crimea với lục địa Nga cũng bị tấn công. Ngày 3/6, Cơ quan An ninh Ukraine (SBU) đã tổ chức đánh bom vào trụ đỡ cầu Crimea bằng thiết bị nổ đặt dưới nước, gây rung chuyển cây cầu huyết mạch mà Nga sử dụng để tiếp vận cho chiến trường. Phía Moskva cho biết vụ nổ không gây hư hại nghiêm trọng kết cấu cầu, nhưng sự kiện cho thấy Kiev không ngại mở rộng hoạt động quân sự ra ngoài lãnh thổ mình. Trước đó ít ngày, hai cây cầu đường sắt lần lượt bị đánh sập tại hai tỉnh Bryansk và Kursk của Nga, khiến các đoàn tàu chở khách trật bánh thảm khốc. Ít nhất 7 người thiệt mạng và hàng chục người bị thương trong các sự cố mà chính quyền Nga cáo buộc là do “sự can thiệp phi pháp” – cách nói ám chỉ hành vi phá hoại có chủ đích. Thống đốc vùng Bryansk khẳng định “cây cầu đã bị đánh bom khi tàu chở 388 hành khách đi qua”, cho thấy đây là một hành động khủng bố liều lĩnh. Nga tin rằng lực lượng biệt kích hoặc gián điệp Ukraine đứng sau những vụ việc này. Một nghị sĩ Nga phẫn nộ tuyên bố Ukraine “đã từ lâu đánh mất mọi tư cách của một quốc gia, biến thành ổ khủng bố” khi tiến hành các vụ phá hoại trên lãnh thổ Nga.

Máy bay không người lái được giấu trong những chiếc thùng gỗ thiết kế đặc biệt, bí mật “tuồn” vào Nga, rồi được chở tới gần mục tiêu và được điều khiển từ xa để bay ra tấn công mục tiêu. Ảnh: SBU, Telegram

Từ góc nhìn Moskva, chuỗi sự kiện quân sự–khủng bố ngay trước thềm hòa đàm chứng minh rằng Ukraine chỉ là “đội quân ủy nhiệm” của phương Tây, còn các chiến dịch khiêu khích thực chất do tình báo Anh–Mỹ đạo diễn. Bộ Ngoại giao Nga ngày 4/6 tuyên bố “các lựa chọn quân sự luôn nằm trên bàn” để đáp trả việc Ukraine tập kích sâu trong lãnh thổ Nga, đồng thời tố cáo phương Tây có dính líu đến những cuộc tấn công này. Moskva kêu gọi Mỹ và Anh “kiềm chế Kiev” sau khi các căn cứ không quân chiến lược Nga bị đánh trúng, ngầm cảnh báo Nga sẵn sàng leo thang nếu các nước NATO tiếp tục “bật đèn xanh” cho Ukraine tấn công vào đất Nga. Thứ trưởng Ngoại giao Nga Sergey Ryabkov nhấn mạnh: “Chúng tôi kêu gọi London và Washington hành động để ngăn chặn leo thang thêm”, ngụ ý rằng chính tình báo Anh–Mỹ đã tiếp tay cho Kiev mở rộng chiến tranh. Đáp lại, cả Mỹ và Anh đều phủ nhận biết trước kế hoạch tập kích của Ukraine và khẳng định không tham gia chỉ đạo các vụ tấn công này. Nhưng với Nga, điều đó không có nhiều ý nghĩa – họ xem chính quyền Kiev hiện nay chỉ là công cụ thí tốt trong chiến lược đối đầu Nga của phương Tây. Bằng chứng là dù cổ vũ hòa đàm, phương Tây vẫn âm thầm hỗ trợ các hoạt động phá hoại bên trong nước Nga nhằm làm Moscow suy yếu cả về quân sự lẫn tâm lý.

Bài học hoà đàm từ quá khứ

Lập trường cứng rắn của Nga trước các đề xuất hòa bình hiện nay bắt nguồn từ những bài học lịch sử cay đắng trong quan hệ với phương Tây và Ukraine suốt 3 thập niên qua. Sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, Moskva từng tin tưởng vào những cam kết an ninh của Mỹ–NATO, nhưng kết cục lại chứng kiến NATO mở rộng liên tục về phía đông – điều mà Nga coi là sự phản bội lời hứa không mở rộng khối về sát biên giới Nga. Các học giả Nga thường nhắc lại việc Tây Đức hứa với Liên Xô năm 1990 rằng NATO sẽ “không tiến thêm một inch về hướng đông”, nhưng rốt cuộc liên minh này đã kết nạp hầu hết các nước Đông Âu và tiến tới cửa ngõ Ukraine. Theo quan điểm Nga, phương Tây đã “lật lọng”ngay từ những thỏa thuận đầu tiên thời hậu Xô Viết, khiến niềm tin của Moskva nhanh chóng hao mòn.

Với Ukraine, Nga cũng trải qua nhiều lần “mất mặt” vì tin vào đàm phán. Năm 2014, khi khủng hoảng Maidan bùng nổ tại Kiev, chính Nga và Liên minh châu Âu đã cùng nhau làm trung gian cho Thỏa thuận ngày 21/2/2014 giữa Tổng thống Ukraine Viktor Yanukovych và phe đối lập. Văn kiện do Ngoại trưởng Pháp, Đức, Ba Lan bảo trợ này dự kiến lập chính phủ liên minh và tổ chức bầu cử sớm để chấm dứt bạo loạn. Thế nhưng ngay ngày hôm sau, các nhóm cực đoan Maidan xé bỏ thỏa thuận và cướp chính quyền, buộc ông Yanukovych phải lưu vong. Moskva tố cáo phương Tây “nuốt lời trắng trợn”, khi không bảo đảm thực thi thỏa thuận mà chính họ làm trung gian. Hệ quả là nội chiến bùng nổ ở miền đông Ukraine giữa chính quyền mới ở Kiev và lực lượng ly khai thân Nga tại Donbass.

Để dập tắt cuộc chiến Donbass 2014–2015, Nga và phương Tây sau đó tiếp tục chung tay thúc đẩy hai thỏa thuận hòa bình tại Minsk (Belarus). Thỏa thuận Minsk I (9/2014) và Minsk II (2/2015) – do Pháp, Đức làm trung gian – từng được kỳ vọng sẽ mang lại hòa bình lâu dài cho miền đông Ukraine. Khi ký kết, Moskva đã gây áp lực để phe ly khai chấp thuận ngừng bắn, còn Kiev cam kết trao quy chế đặc biệt cho vùng Donetsk–Lugansk và tổng tuyển cử địa phương. Tuy nhiên, theo Tổng thống Putin, “hóa ra chẳng ai có ý định thực hiện các Thỏa thuận Minsk cả”, phương Tây chỉ lợi dụng chúng để câu giờ tăng cường vũ trang cho Ukraine. Ông Putin nhiều lần bày tỏ cảm giác “bị lừa dối và phản bội”: “Chúng tôi cứ nghĩ có thể đạt được đồng thuận trong khuôn khổ Minsk. Nhưng giờ niềm tin ấy gần như bằng không”. Sự hoài nghi của Putin được củng cố khi chính cựu Thủ tướng Đức Angela Merkel – người tham gia bảo trợ Minsk – thừa nhận trên báo Die Zeit (12/2022) rằng thỏa thuận này thực chất “chỉ nhằm giúp Ukraine có thêm thời gian” xây dựng sức mạnh quân sự. Tuyên bố của bà Merkel, theo lời Tổng thống Putin, đồng nghĩa với việc phương Tây “chỉ muốn bơm vũ khí, chuẩn bị cho Ukraine gây chiến, rồi lừa Nga vào bẫy”. Điều đó khiến Putin đặt câu hỏi: “Sau những phát biểu như vậy, làm sao có thể đàm phán, đàm phán với ai và đảm bảo gì đây?”. Quả thật, sau Minsk II, giao tranh ở Donbass chưa bao giờ chấm dứt hẳn và Kiev cũng không trao quyền tự trị nào cho Donetsk–Lugansk. Phía Nga cho rằng phương Tây chưa từng nghiêm túc trong nỗ lực hòa bình, mà chỉ dùng đàm phán như vỏ bọc để đạt mục đích chiến lược.

Kinh nghiệm “bị phương Tây lừa dối” một lần nữa lặp lại vào năm 2022, ngay sau khi Nga mở chiến dịch quân sự ở Ukraine. Tháng 3/2022, phái đoàn Nga–Ukraine từng gặp nhau tại Istanbul (Thổ Nhĩ Kỳ) và đạt tiến triển đáng kể. Theo Phó Chủ tịch Thượng viện Nga Konstantin Kosachev, vòng đàm phán Istanbul năm 2022 đã “đạt đồng thuận trên hầu hết các điểm, bản dự thảo hòa ước thậm chí đã được trưởng đoàn Ukraine khi đó ký tắt. Thế nhưng, giữa lúc triển vọng hòa bình lóe lên, phái đoàn Kiev bất ngờ rút lui. Giới lãnh đạo Nga tin rằng chính áp lực hậu trường từ Mỹ–Anh (mà cụ thể là chuyến thăm Kiev đột xuất của Thủ tướng Anh khi đó) đã khiến ông Zelensky “đột ngột trở mặt”, rút lại những nhượng bộ đã thống nhất sơ bộ ở Istanbul. Sau này, cựu Thủ tướng Israel Naftali Bennett – một trung gian của cuộc đàm phán – cũng tiết lộ rằng phương Tây “muốn gây chiến với Putin hơn là giúp ông ấy ký thỏa thuận”. Chính vì vậy, phía Nga luôn nhìn nhận các đề xuất hòa đàm về sau qua lăng kính hoài nghi. Họ cho rằng mỗi khi Kiev gặp khó trên chiến trường, phương Tây lại xúi giục Ukraine tung ra “mồi nhử đàm phán” để câu giờ, và khi cục diện có lợi trở lại thì những cam kết hòa bình sẽ bị vứt bỏ.

Những trải nghiệm dối trá tích tụ suốt nhiều năm khiến giới lãnh đạo Nga công khai bày tỏ sự mất lòng tin trầm trọng vào bất kỳ thỏa hiệp ngoại giao nào với Ukraine và phương Tây. Ông Putin gần như không còn tin tưởng vào thiện chí của phương Tây trong bất kỳ cuộc hòa đàm nào. Ông cho biết cuối cùng rồi các bên cũng phải đạt được một thỏa thuận, “Nga luôn sẵn sàng cho điều đó”, nhưng phương Tây đã tự làm mất uy tín, khiến Moskva “phải cân nhắc rất kỹ chúng ta đang đàm phán với ai”.

Những bài học từ các cuộc đàm phán trong quá khứ với phương Tây đã khiến giới lãnh đạo Nga mất niềm tin vào bất kỳ thỏa hiệp ngoại giao nào với Ukraine và phương Tây. Hình ảnh lãnh đạo các nước Ukraine, Pháp, Nga, Đức tại một cuộc gặp thượng đỉnh về Ukraine ở Paris, tháng 9/2019. Ảnh: Pool/Getty Images

Không chỉ Tổng thống Putin, Bộ Ngoại giao Nga và các quan chức cấp cao khác cũng liên tục bày tỏ lập trường cứng rắn: Nga “không thể tin những gì phương Tây hứa hẹn” nữa. Cựu Tổng thống Dmitry Medvedev – Phó Chủ tịch Hội đồng An ninh Nga – nhận định phương Tây “đã nói dối Nga trắng trợn về việc thực hiện thỏa thuận Minsk”, nên thật vô lý khi đòi Moscow tin vào bất cứ lời đảm bảo nào từ họ lúc này. “Phương Tây toàn những kẻ nói dối, bóp méo sự thật – họ đã luôn dựng lên hình ảnh quỷ dữ về người Nga,” một chuyên gia thân cận Điện Kremlin phát biểu tại hội thảo ở New York, được TASS trích dẫn. Tâm lý chung trong giới tinh hoa Nga là một sự hoài nghi tột độ đối với bất kỳ sáng kiến ngoại giao nào do phương Tây hậu thuẫn.

Trong các phát ngôn gần đây, giới ngoại giao Nga cũng liên tục bác bỏ đề xuất hòa bình theo “công thức Zelensky” của Ukraine. Họ coi kế hoạch 10 điểm của ông Zelensky – đòi Nga rút hết quân, trả lại toàn bộ lãnh thổ (kể cả Crimea) và bồi thường chiến tranh – là “lố bịch” và “không có cơ sở thực tế”. Ngoại trưởng Sergey Lavrov thẳng thừng nói trên báo Izvestia rằng kế hoạch hòa bình của Kiev là vô nghĩa, bởi nó dựa trên “những điều viển vông không thể chấp nhận, như chuyện Nga phải rút khỏi các vùng đã kiểm soát”. Ông Lavrov tuyên bố Moskva sẵn sàng thảo luận giải pháp xung đột, nhưng “không đời nào trên cơ sở “công thức Zelensky”. Thay vào đó, phía Nga yêu cầu mọi sáng kiến hòa bình phải “thực tế” và tôn trọng các lợi ích an ninh cốt lõi của Nga, cũng như có sự tham gia của Nga trong mọi cơ chế dàn xếp. Bộ Ngoại giao Nga nhiều lần nhắc lại rằng chính Tổng thống Zelensky đã ký sắc lệnh cấm đàm phán với Putin vào cuối năm 2022, nên việc Kiev kêu gọi đối thoại chỉ là “đạo đức giả” nếu không hủy bỏ đạo luật cấm đó. Lập trường chính thức của Moskva hiện nay, được phát ngôn viên Maria Zakharova phát biểu, là:“Một lệnh ngừng bắn đơn thuần không thể tự chấm dứt chiến tranh”. Theo bà, “hòa bình chỉ đạt được khi giải quyết được nguyên nhân gốc rễ của xung đột” – ý nói Ukraine phải thay đổi triệt để lập trường và cấu trúc chính trị theo hướng mà Nga yêu cầu.

Tóm lại, với những người đứng đầu Điện Kremlin, đàm phán ngoại giao hiện chỉ là một “màn kịch”. Họ công khai bày tỏ thái độ mất niềm tin gần như hoàn toàn vào đối tác Ukraine và các nhà bảo trợ phương Tây. Từ góc nhìn của Moskva, bàn đàm phán chỉ được đối thủ sử dụng như một công cụ chiến thuật nhằm trì hoãn hoặc đánh lạc hướng, còn kết cục chiến tranh sẽ không được định đoạt trên giấy mực, mà tại chiến trường.

Nga quyết tâm giải quyết bằng quân sự

Giới hoạch định chiến lược Nga cho rằng Washington đang sốt sắng thúc đẩy ngừng bắn chỉ vì muốn “cứu vãn” Ukraine sau hàng loạt thất bại chiến trường của Kiev. Từ mùa thu 2024 tới đầu 2025, quân đội Ukraine liên tiếp chịu tổn thất nặng nề mà không đạt được đột phá đáng kể nào trước phòng tuyến Nga. Bất chấp hàng chục tỷ USD viện trợ vũ khí, chiến dịch phản công của Kiev hầu như giậm chân tại chỗ, thậm chí một số mặt trận Ukraine còn bị đẩy lùi. Chính vì vậy, theo lập luận của Nga, Mỹ – với tư cách “ông bầu” của Kiev – đang muốn câu giờ bằng một lệnh ngừng bắn tạm thời để giúp Ukraine có thời gian chấn chỉnh lực lượng, tránh nguy cơ sụp đổ. Việc phương Tây nóng vội đề xuất ngừng bắn 30 ngày vào tháng 5/2025 được truyền thông Nga nhìn nhận là dấu hiệu “phương Tây lo Ukraine thua trận nên cầu hòa để bảo toàn những gì còn lại”. Một chuyên gia Nga bình luận trên Izvestia rằng chuyến đi đàm phán của ông Zelensky tới Istanbul chẳng qua là “màn diễn PR” dàn dựng để xoa dịu ông Trump, và “chiến thắng ngoại giao đó chỉ là ảo, nhằm che đậy việc họ (phương Tây–Ukraine) đang không đạt được thắng lợi nào thực chất”. Nói cách khác, các nỗ lực hòa bình phô trương của Mỹ–EU chỉ là “bình phong” để che giấu tình thế khó khăn trên chiến trường của Ukraine.

Đáng chú ý, mặc dù Nga từng được cho là sẽ hoan nghênh chính quyền Trump hơn chính quyền Biden, nhưng đến nay giới chức Nga tỏ ra cảnh giác cả với vai trò trung gian của ông Trump. Nhiều quan điểm ở Moskva đánh giá Trump đang cố ghi điểm chính trị nội bộ bằng cách giả vờ làm “sứ giả hòa bình”, nhưng thực chất lại ngấm ngầm gây sức ép lên cả Kiev lẫn Moskva để đạt mục tiêu có lợi cho Mỹ. Trong mắt người Nga, động thái ông Trump cử đặc phái viên đến cảnh cáo hai bên phải đàm phán trực tiếp chẳng khác nào “một mũi tên trúng hai đích”: nếu Nga không chịu nhượng bộ sẽ bị đổ lỗi phá hoại hòa bình, còn nếu Ukraine không nghe lời Mỹ đàm phán sẽ bị dọa cắt viện trợ. Tại Moskva, một số nhà bình luận gọi tối hậu thư 30 ngày của Trump là “chiêu bài xảo quyệt”: Mỹ tự khoác áo người hòa giải đạo đức, trong khi vẫn sẵn sàng quay lưng với Ukraine hoặc tiếp tục trừng phạt Nga tùy kết quả. Truyền thông nhà nước Nga cũng không tiếc lời công kích ông Trump. Chương trình talk show trên kênh Rossiya-1 mới đây mỉa mai “kế hoạch hòa bình của Trump rốt cuộc phục vụ lợi ích ai?”, ám chỉ sự mập mờ và thiếu chân thành của cựu tổng thống Mỹ. Có thể nói, “vở diễn hòa bình” của ông Trump không thuyết phục được Nga – họ xem đó chỉ là đòn phép chính trị nhằm câu giờ và đánh bóng tên tuổi, hơn là thực tâm muốn chấm dứt chiến tranh theo cách chấp nhận được với Nga.

Trong khi tỏ rõ hoài nghi với đối thủ, Nga ngầm xác định giải pháp duy nhất cho cuộc xung đột này là bằng sức mạnh quân sự. Thay vì nhượng bộ ngoại giao, Moskva dường như đã chuẩn bị tâm thế cho một cuộc chiến “trường kỳ kháng chiến”. Tại bàn đàm phán vòng 1, chính Trưởng đoàn Nga Vladimir Medinsky đã viện dẫn lịch sử rằng Nga sẵn sàng chiến đấu “lâu dài như thời Sa hoàng Peter Đại đế” – cuộc chiến khi ấy kéo dài 21 năm. Ông Medinsky quả quyết: “Chúng tôi không muốn chiến tranh, nhưng chúng tôi sẵn sàng chiến đấu 1 năm, 2 năm, 3 năm – bao lâu cũng được”.  Tuyên bố này phản ánh quyết tâm của Nga không chấp nhận ngừng bắn tạm bợ, mà sẵn sàng kéo dài xung đột tới khi đạt được mục tiêu cuối cùng. Đích thân cựu Tổng thống Medvedev ngày 3/6 còn nói thẳng rằng đàm phán hòa bình chỉ là để đảm bảo “chiến thắng nhanh chóng và trọn vẹn” cho Nga, chứ không phải tìm kiếm thỏa hiệp. “Các cuộc đàm phán ở Istanbul không nhằm đạt hòa bình thỏa hiệp trên những điều khoản hoang tưởng của ai đó, mà là để đảm bảo chiến thắng nhanh chóng của chúng ta và phá hủy hoàn toàn chế độ Tân Quốc xã (ở Kiev)”, ông Medvedev viết trên Telegram. Đây là lần đầu một quan chức thân cận ông Putin công khai tuyên bố mục tiêu đàm phán của Nga thực chất là để đối phương đầu hàng vô điều kiện.

Trên thực địa, quân đội Nga đang tăng cường sức ép và không có dấu hiệu ngừng lại. Medvedev – với vai trò Phó chủ tịch Hội đồng An ninh – cảnh báo sau đòn tập kích sân bay của Ukraine rằng “trừng phạt là không thể tránh khỏi”, Nga sẽ sớm “báo thù”. Trước đây, Tổng thống Putin từng nói rằng nếu phương Tây tưởng gây sức ép kinh tế quân sự thì Nga sẽ “gục ngã hay lùi bước, họ đã lầm to”, bởi “lịch sử và nhân dân Nga không cho phép điều đó”. Chính nhà lãnh đạo Nga khẳng định sẽ không cúi đầu trước âm mưu của phương Tây nhằm biến Nga thành “một nước yếu đuối, lệ thuộc, bị xé nhỏ theo ý họ”. Nói cách khác, cuộc chiến này với Nga mang ý nghĩa sống còn, nên họ chấp nhận trả mọi giá để chiến thắng thay vì thỏa hiệp nửa vời.

Đàm phán chỉ là hình thức, xung đột sẽ leo thang hơn nữa

Với tất cả những phân tích trên, có thể dự đoán rằng các cuộc hòa đàm Nga–Ukraine trong thời gian tới khó có kết quả thực chất, mà chủ yếu mang tính hình thức phục vụ mục đích tuyên truyền. Ngay cả khi hai bên tiếp tục gặp nhau (dưới sức ép của Mỹ hoặc Thổ Nhĩ Kỳ), khoảng cách lập trường quá lớn đồng nghĩa với việc đàm phán vẫn chỉ để “biết rõ lập trường nhau” chứ không tìm được tiếng nói chung. Thậm chí, phía Nga còn hoài nghi đối phương dùng bàn đàm phán làm nơi “đánh lạc hướng”, trong khi thực tế vẫn ráo riết chuẩn bị chiến trường. Moskva sẽ không chấp nhận bất cứ thỏa thuận nào trừ phi đảm bảo được các mục tiêu chiến lược mà họ đặt ra. Ukraine phải từ bỏ NATO, phi quân sự hóa và thay đổi chính quyền theo hướng thân Nga. Đây là những điều mà Kiev và phương Tây tất nhiên không thể chấp nhận vào thời điểm hiện tại.

Trong khi cơ hội đàm phán thực chất còn xa vời, chiến trường được dự báo sẽ bùng nổ khốc liệt hơn trong những tháng tới. Cả hai phía đều có xu hướng leo thang thay vì nhượng bộ. Phương Tây nhiều khả năng tiếp tục hậu thuẫn Ukraine gia tăng các hoạt động phá hoại trong lòng nước Nga, bởi như Tổng thống Putin cáo buộc, “sau những lời hoa mỹ đạo đức giả của phương Tây luôn ẩn giấu những mục tiêu địa chính trị thù địch”. Mục tiêu đó, theo Putin, là làm Nga suy yếu và chia rẽ – điều mà họ có thể đạt được phần nào thông qua việc kích động bất ổn nội địa ở Nga (như các vụ nổ phá cầu, tập kích cơ sở quân sự) và bào mòn kinh tế Nga bằng cấm vận kéo dài. Do vậy, Moskva tin rằng dù có thỏa thuận ngừng bắn, phương Tây cũng sẽ tìm cách phá hoại. Trên cục diện lớn, Điện Kremlin dự đoán Mỹ và đồng minh sẽ không từ bỏ mục tiêu “hạ bệ Nga”, nên họ sẵn sàng đối phó một cuộc chiến thậm chí rộng lớn hơn, không chỉ ở Ukraine mà còn có thể lan sang không phận, hải phận Biển Đen và các mặt trận an ninh khác giữa Nga với NATO.

Ngược lại, Nga cũng tỏ rõ quyết tâm sử dụng vũ lực đến cùng. Những tuyên bố cứng rắn của ông Medvedev về “phá hủy cần thiết” và “loại bỏ cần thiết” ám chỉ rằng Nga sẵn sàng tấn công trả đũa sâu hơn vào hạ tầng của Ukraine, thậm chí vào cả những ai hỗ trợ Ukraine. Quả thật, ngay sau vụ tập kích căn cứ không quân, Nga đã trút đòn “bão lửa” lớn chưa từng có bằng gần 500 máy bay không người lái và tên lửa vào thủ đô Kiev và các thành phố Ukraine. Cuộc tập kích này – được truyền thông Nga gọi là “cuộc oanh kích đêm lớn nhất từ đầu chiến tranh” – cho thấy Moskva sẵn sàng leo thang mức độ hủy diệt nếu bị thách thức. Tương tự, các quan chức Nga đã công khai các mục tiêu Nga nhắm tới là: 1) Trụ sở các cơ quan đầu não Ukraine; 2) Các nhà máy điện, cơ sở hạ tầng về năng lượng; 3) Trụ sở Bộ Quốc phòng, trụ sở cơ quan tình báo, các căn cứ quân sự, kho vũ khí, sân bay, cơ sở hậu cần, các tuyến đường sắt; 4) Hệ thống thông tin truyền thông, trong đó có lực lượng của NATO trên đất Ukraine. Nga cũng tuyên bố quốc gia châu Âu nào cung cấp tên lửa tầm xa cho Ukraine bắn vào nước Nga cũng sẽ là mục tiêu đáp trả của Nga.

Những gì diễn ra trong lịch sử các cuộc đàm phán giữa phương Tây với Nga và giữa Ukraine với Nga, cùng với những tuyên bố của các nhà lãnh đạo Nga sau cuộc tấn công của Ukraine vào sâu trong nội địa Nga, phá hủy nhiều máy bay ném bom hạt nhân của Nga, cho thấy chiến sự ở Ukraine đã chuyển trạng thái, từ chiến tranh hạn chế sang trạng thái hủy diệt. Cuộc chiến này không còn giới hạn giữa Nga và Ukraine mà là cuộc đối đầu trực tiếp giữa Nga và châu Âu, là cuộc chiến tranh tổng hợp bằng quân sự, kinh tế, tình báo và chiến tranh tâm lý, trong đó quân sự và trừng phạt kinh tế sẽ ở cường độ cao.

Nga không tin vào cuộc hội đàm để có thể kết thúc chiến tranh. Chiến lược của Nga là quyết định ở chiến trường. Nga sẽ sử dụng sức mạnh quân sự làm cho Ukraine kiệt quệ, buộc Zelensky phải đầu hàng, chính quyền Zelensky phải sụp đổ, chính phủ kế tiếp không chống Nga. Tuy nhiên, Nga có thực hiện được hay không còn tùy thuộc tương quan lực lượng. Tuy tiềm lực quân sự của Ukraine không bằng Nga nhưng đứng sau là Mỹ và châu Âu. Họ quyết tâm sử dụng Ukraine để làm suy yếu, làm rối loạn nước Nga, để lật đổ Putin. Tình huống xảy ra với cuộc đối đầu giữa Nga và Ukraine là vừa đánh, vừa đàm; song đàm phán chỉ là để “vờn nhau”, còn thực chất bên nào thắng ở chiến trường sẽ quyết định chấm dứt cuộc chiến, bên thất bại phải chấp nhận các yêu cầu của bên thắng trận.

Vì vậy, sắp tới tình hình cuộc chiến sẽ rất quyết liệt, chiến sự sẽ diễn ra cả trên lãnh thổ Ukraine và lãnh thổ Nga, và rất có thể sẽ leo thang vượt khỏi hai quốc gia này, báo động nguy cơ cuộc Chiến tranh thế giới thứ 3 sẽ không loại trừ.■

BÌNH LUẬN

BÀI BÌNH LUẬN KHÁC