Hà Nội – mảnh đất nghìn năm văn hiến – từ lâu đã khẳng định vai trò là trung tâm chính trị và văn hóa của dân tộc Việt Nam. Trong suốt chiều dài lịch sử hơn một thiên niên kỷ, Thăng Long – Hà Nội luôn giữ vị thế “trái tim” của cả nước, là đầu não của bộ máy quốc gia cũng như cái nôi hội tụ tinh hoa văn hóa đất Việt. Ngay từ năm 1010, khi Vua Lý Thái Tổ (Lý Công Uẩn) ban “Chiếu dời đô” dời kinh đô từ Hoa Lư ra thành Đại La (tức Thăng Long – Hà Nội ngày nay), ông đã nhấn mạnh đây là vùng đất “ở vào nơi trung tâm trời đất, đúng ngôi Nam Bắc Đông Tây, tiện hướng nhìn sông dựa núi”, xứng đáng là kinh đô muôn đời. Kể từ đó, Hà Nội được trao sứ mệnh lịch sử làm trung tâm chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa của quốc gia – một vinh dự lớn lao đồng thời là trách nhiệm nặng nề mà mảnh đất và con người Thủ đô đã gánh vác suốt hàng thế kỷ.

Thủ đô lịch sử linh thiêng

Trải qua biết bao thăng trầm, Thăng Long – Hà Nội luôn giữ vững vai trò đầu tàu của đất nước. Dưới các triều đại phong kiến, nơi đây là kinh đô quần tụ nhân tài, nơi “địa linh nhân kiệt” sản sinh và thu hút nhiều bậc thánh hiền, anh hùng hào kiệt, danh nhân văn hóa của dân tộc. Nguyễn Trãi tuyên cáo Bình Ngô, bản tuyên ngôn độc lập lần thứ hai của quốc gia Đại Việt tại điện Kính Thiên. Hoàng thành Thăng Long là trung tâm quyền lực qua nhiều triều đại. Thăng Long xưa – Hà Nội nay không chỉ là trung tâm quyền lực chính trị, mà còn là cái nôi văn hóa Kẻ Chợ sầm uất, nơi hun đúc nên nền văn hiến Thăng Long rực rỡ góp phần định hình bản sắc văn hóa Việt. Sự phát triển của Thăng Long – Hà Nội luôn gắn liền, thậm chí song hành làm biểu trưng cho sự phát triển của đất nước. Qua mỗi thời kỳ, Hà Nội đều tỏa sáng với vai trò dẫn dắt: từ một kinh thành Thăng Long thịnh trị dưới thời Lý – Trần – Lê, đến Hà Nội thời nhà Nguyễn và Thủ đô Hà Nội thời hiện đại, mảnh đất này luôn là trung tâm tụ hội nhân tài vật lực, là nơi đưa ra những quyết sách ảnh hưởng đến vận mệnh dân tộc.

Thăng Long – Kẻ Chợ, kinh đô xứ Đàng Ngoài khoảng năm 1685. Hình minh họa trong sách “A description of the kingdom of Tonqueen” (London, 1732) của Samuel Baron.

Hà Nội còn là cái nôi của nhiều sự kiện lịch sử trọng đại ngay cả trước thời hiện đại. Trong thời kỳ vận động cách mạng đầu thế kỷ XX, Hà Nội đã chứng kiến những bước đi quan trọng trong công cuộc đấu tranh giành độc lập. Chẳng hạn, vào năm 1930, căn nhà số 90 phố Thợ Nhuộm (Hoàn Kiếm) chính là nơi Tổng Bí thư Trần Phú chấp bút soạn thảo bản Luận cương chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam. Tại căn phòng nhỏ bí mật dưới tầng hầm ngôi nhà này, đồng chí Trần Phú đã miệt mài viết bản Cương lĩnh cách mạng, xác định rõ kẻ thù và nhiệm vụ giải phóng dân tộc, đặt nền móng tư tưởng cho Đảng ta trong buổi đầu lãnh đạo cách mạng. Sự kiện âm thầm ấy diễn ra ngay giữa lòng Hà Nội phồn hoa khi xưa, đã lặng lẽ ghi tên Hà Nội vào trang đầu lịch sử Đảng với tư cách nơi khởi thảo cương lĩnh cứu nước. Đây là một minh chứng sớm cho thấy Hà Nội luôn ở vị trí trung tâm của phong trào đấu tranh dân tộc, là nơi ươm mầm cho những tư tưởng và quyết sách lớn lao của cách mạng Việt Nam.

Hơn bất cứ thành phố nào, Hà Nội đã trở thành chứng nhân cho những bước ngoặt lịch sử của Việt Nam trong thế kỷ XX đầy biến động. Mùa thu năm 1945, Hà Nội là nơi ngọn lửa Cách mạng Tháng Tám bùng cháy mạnh mẽ, mở đầu cho công cuộc giành chính quyền trên cả nước. Ngày 19/8/1945, nhân dân Hà Nội vùng lên khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi, tạo hiệu ứng dây chuyền lan tỏa khắp các địa phương. Thắng lợi ở Hà Nội có ý nghĩa quyết định, cổ vũ đồng bào cả nước nhất tề đứng lên dành độc lập. Chỉ ít ngày sau, vào trưa ngày 2/9/1945, hàng chục vạn người dân từ khắp mọi miền đã tập trung tại Quảng trường Ba Đình (Hà Nội) để lắng nghe Chủ tịch Hồ Chí Minh trịnh trọng đọc Bản Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Giây phút Bác Hồ cất giọng nói: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng…” vang lên dưới bầu trời thu Hà Nội đã trở thành khoảnh khắc thiêng liêng bậc nhất trong lịch sử dân tộc. Ngay tại căn nhà số 48 phố Hàng Ngang giữa lòng Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh trước đó đã viết bản Tuyên ngôn bất hủ này, chuẩn bị cho ngày độc lập của nước nhà. Có thể nói, Hà Nội vinh dự là nơi khai sinh ra nước Việt Nam mới, nơi ghi dấu thời khắc dân tộc ta bước sang kỷ nguyên độc lập, tự do sau gần một thế kỷ mất nước.

Khung cảnh quảng trường Ba Đình, Hà Nội, trước giờ khai lễ, ngày Độc lập 2/9/1945. Ảnh tư liệu do GS. Philippe Devillers tặng cho Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam.

Sau ngày độc lập chưa lâu, Hà Nội lại tiếp tục chứng kiến những thử thách khốc liệt của dân tộc. Thực dân Pháp nuôi dã tâm tái chiếm Việt Nam, và Hà Nội trở thành chiến trường quyết tử mở đầu Toàn quốc kháng chiến. Đêm 19/12/1946, hưởng ứng “Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến” của Chủ tịch Hồ Chí Minh, quân dân Hà Nội với tinh thần “Quyết tử để Tổ quốc quyết sinh” đã nổ súng mở màn cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp. Hồi 20 giờ ngày 19/12, đèn điện toàn thành phố vụt tắt làm tín hiệu, các ổ đề kháng đồng loạt nổ súng tiến công địch. Suốt 60 ngày đêm khói lửa đầu năm 1947, Hà Nội đã anh dũng cầm chân quân Pháp, đánh gần 200 trận quyết liệt ở mỗi góc phố, bảo vệ an toàn cơ quan đầu não rút về căn cứ. Những phố phường rực lửa bom đạn năm ấy đã đi vào lịch sử như một bản hùng ca oanh liệt mở đầu cho cuộc kháng chiến toàn quốc. Hà Nội đã chứng minh khí phách kiên cường, xứng đáng với niềm tin mà Trung ương Đảng và Bác Hồ gửi gắm khi giao trọng trách mở màn kháng chiến. Thủ đô tuy thất thủ tạm thời nhưng chưa bao giờ khuất phục – hình ảnh người chiến sĩ ôm bom ba càng cảm tử giữa lòng Hà Nội năm 1946 đã trở thành biểu tượng cho quyết tâm sắt đá của dân tộc Việt Nam.

Chín năm trường kỳ kháng chiến chống Pháp kết thúc bằng chiến thắng Điện Biên Phủ vang dội năm 1954. Sau Hiệp định Genève, Hà Nội hân hoan chào đón đoàn quân chiến thắng trở về tiếp quản Thủ đô. Sáng ngày 10/10/1954, hàng đoàn quân Giải phóng tiến qua các cửa ô, hơn 40 vạn người dân Hà Nội tưng bừng cờ hoa đứng chật các tuyến phố chào mừng bộ đội về giải phóng Thủ đô. Thời khắc lá cờ đỏ sao vàng tung bay trên kỳ đài Hà Nội ngày 10/10/1954 đã đi vào lịch sử như một mốc son chói lọi, đánh dấu sự sụp đổ hoàn toàn của chế độ thực dân kiểu cũ trên đất nước ta. Sự kiện Giải phóng Thủ đô không chỉ khẳng định thắng lợi hoàn toàn của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chống Pháp, mà còn mở ra một giai đoạn mới trong lịch sử nghìn năm văn hiến của Thăng Long – Hà Nội. Từ đây, miền Bắc bước vào thời kỳ xây dựng xã hội mới, Hà Nội trở thành Thủ đô của vùng giải phóng, tiếp tục sứ mệnh làm hậu phương vững chắc cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng miền Nam.

Hai thập niên sau, Hà Nội lại đứng trước thử thách sống còn khi đế quốc Mỹ leo thang bắn phá miền Bắc. Với vị thế là Thủ đô, Hà Nội là mục tiêu không kích trọng điểm trong chiến tranh phá hoại của Mỹ. Song người Hà Nội đã kiên cường trụ vững “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”. Đặc biệt, vào năm 1966, giữa lúc cuộc chiến chống Mỹ ác liệt, từ Hà Nội Bác Hồ đã ra lời hiệu triệu nổi tiếng kêu gọi đồng bào cả nước quyết tâm đánh Mỹ cứu nước. Ngày 17/7/1966, Lời kêu gọi “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” của Chủ tịch Hồ Chí Minh được đăng trên báo Nhân Dân và phát trên Đài Tiếng nói Việt Nam từ Hà Nội, thể hiện ý chí sắt đá quyết chiến quyết thắng giặc Mỹ xâm lược. Lời hiệu triệu vang lên giữa mùa hè đỏ lửa ấy đã thổi bùng lên khí thế “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước” của toàn dân tộc.

Những năm tháng chiến tranh phá hoại, Hà Nội vừa là trung tâm lãnh đạo kháng chiến vừa trở thành biểu tượng của ý chí quật cường trước mưa bom bão đạn. Cao trào là cuối năm 1972, khi Mỹ mở chiến dịch tập kích đường không chiến lược bằng pháo đài bay B-52 hòng “đưa Hà Nội về thời kỳ đồ đá”. Trong suốt 12 ngày đêm khốc liệt cuối tháng 12/1972, quân và dân Thủ đô đã anh dũng bắn rơi hàng chục máy bay hiện đại của Mỹ (trong đó có 34 chiếc B-52). Lần đầu tiên trong lịch sử, “siêu pháo đài bay B-52” của không lực Hoa Kỳ bị thất bại nặng nề đến vậy trên bầu trời Hà Nội. Chiến thắng vang dội mà báo chí gọi là “Hà Nội – Điện Biên Phủ trên không” không chỉ đập tan ý chí xâm lược của địch, buộc Mỹ phải ký Hiệp định Paris (1973) chấm dứt chiến tranh và rút quân, mà còn tạo ra bước ngoặt quyết định dẫn đến đại thắng mùa Xuân 1975, thống nhất hoàn toàn đất nước.

Sau năm 1975, Hà Nội trở thành Thủ đô của nước Việt Nam thống nhất, tiếp tục sứ mệnh lịch sử trong thời bình. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Hà Nội cũng là nơi Đảng khởi phát đường lối đổi mới và Hà Nội đi tiên phong trong công cuộc tái thiết và đổi mới đất nước. Từ Đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986 khởi xướng Đổi Mới, Hà Nội đã năng động vận dụng đường lối đổi mới, trở thành đầu tàu kinh tế – xã hội ở miền Bắc. Bước sang kỷ nguyên hội nhập, Thủ đô ngày càng khẳng định vị thế trung tâm lớn về mọi mặt: chính trị, kinh tế, khoa học, giáo dục và giao dịch quốc tế. Hà Nội là nơi đặt trụ sở các cơ quan đầu não, đồng thời là địa điểm diễn ra nhiều sự kiện đối ngoại trọng đại, hội nghị quốc tế tầm cỡ. Được UNESCO vinh danh là “Thành phố vì hòa bình” năm 1999, Hà Nội không chỉ là niềm tự hào của người Việt mà còn gây ấn tượng tốt đẹp trong mắt bạn bè quốc tế.

Lễ kỷ niệm 20 năm thành phố Hà Nội được UNESCO trao tặng danh hiệu “Thành phố vì hòa bình”, tháng 7/2019. Ảnh: HanoiCreativeCity

Trong giai đoạn hiện nay, Hà Nội tiếp tục vững vàng với vai trò Thủ đô – trái tim của cả nước – và là đầu tàu trong sự nghiệp hội nhập, phát triển. Không chỉ dẫn đầu về tăng trưởng kinh tế và phát triển đô thị, Hà Nội còn là trung tâm văn hóa – giáo dục hàng đầu và là nơi diễn ra nhiều sự kiện chính trị quan trọng của quốc gia. Những năm qua, Hà Nội đã được lựa chọn đăng cai tổ chức thành công nhiều hội nghị quốc tế, sự kiện thể thao khu vực (như SEA Games 22 năm 2003, SEA Games 31 năm 2022), các hội nghị thượng đỉnh và diễn đàn hợp tác đa phương, qua đó nâng cao uy tín Việt Nam trên trường quốc tế. Việc Hà Nội được các nguyên thủ, lãnh đạo nhiều cường quốc chọn làm điểm đến trong những chuyến thăm chính thức hay hội nghị thượng đỉnh đã khẳng định Hà Nội thực sự là một Thủ đô ngoại giao, nơi hội tụ bang giao quốc tế. Có thể nói, hầu hết các nguyên thủ quốc gia khi đến Việt Nam đều dừng chân tại Hà Nội – điều này minh chứng cho vị thế đặc biệt của Hà Nội trong mắt bạn bè năm châu. Thủ đô Hà Nội đã và đang trở thành cầu nối Việt Nam với thế giới, góp phần quảng bá hình ảnh một Việt Nam hòa bình, hữu nghị, đổi mới và năng động. Hà Nội thực tế là nơi hội tụ thần khí của Việt Nam.

Đại lễ trong trái tim Hà Nội

Hà Nội luôn là điểm tụ về tinh thần, là niềm cảm hứng, niềm tự hào của người dân cả nước. Mỗi khi nghĩ về Hà Nội – trái tim Tổ quốc – trong lòng mỗi người Việt đều dâng trào tình yêu và niềm tin. Tháng 9 năm 2025 vừa qua, Hà Nội một lần nữa cho thấy sức hút và vai trò đặc biệt của mình khi đăng cai thành công Đại lễ kỷ niệm 80 năm Quốc khánh 2/9. Sáng ngày 2/9/2025, tại quảng trường Ba Đình lịch sử, lễ mít-tinh, diễu binh, diễu hành trọng thể kỷ niệm 80 năm Cách mạng Tháng Tám thành công và Quốc khánh đã diễn ra vô cùng hoành tráng, xúc động. Trong không khí mùa thu lịch sử, tình cảm của nhân dân cả nước đều hướng về Thủ đô Hà Nội, dõi theo từng hình ảnh của buổi lễ qua truyền hình trực tiếp. Hàng triệu trái tim Việt Nam từ mọi miền chung một niềm tự hào khi chứng kiến đoàn quân diễu binh hùng dũng tiến qua Lăng Bác, gợi nhớ hình ảnh đoàn quân giải phóng năm xưa trở về tiếp quản Hà Nội.

Đông đảo người dân đổ về Thủ đô Hà Nội trong dịp kỉ niệm 80 năm Quốc khánh 2/9. Ảnh: báo Dân Trí

Để chào đón đồng bào cả nước đổ về Thủ đô dự lễ, chính quyền và người dân Hà Nội đã có sự chuẩn bị hết sức chu đáo, thể hiện tinh thần hiếu khách, tương thân tương ái đáng trân trọng. Nhiều tháng trước sự kiện, thành phố đã huy động mọi nguồn lực để chỉnh trang đô thị, bảo đảm an ninh, giao thông, vệ sinh và hậu cần phục vụ đại lễ. Hơn 25.000 chỗ ngồi được lắp thêm tại khu vực quảng trường, 270 màn hình LED cỡ lớn bố trí khắp các khu vực công cộng để người dân tiện theo dõi. Hà Nội đã chuẩn bị sẵn 60.000 vật phẩm (mũ, cờ, quạt…), cung cấp 1 triệu chai nước, 800.000 chiếc bánh ngọt miễn phí, huy động 8.800 tình nguyện viên hỗ trợ du khách trên khắp các tuyến phố. Trong những ngày diễn ra đại lễ, người dân Thủ đô sẵn sàng mở rộng vòng tay chào đón hàng vạn lượt đồng bào từ khắp nơi đổ về. Thành phố cũng miễn phí toàn bộ vé giao thông công cộng, bố trí hàng trăm chuyến xe buýt và hàng trăm điểm trông giữ xe miễn phí để hỗ trợ tối đa cho người dân và du khách tham dự sự kiện. Nhờ sự chuẩn bị tận tâm đó, mỗi người dân về dự lễ đều cảm nhận được sự ấm áp, nghĩa tình mà Hà Nội dành cho đồng bào cả nước, đúng như truyền thống “lá rách ít đùm lá rách nhiều” của dân tộc.

Kết quả, lễ kỷ niệm 80 năm Cách mạng Tháng Tám thành công và Quốc khánh 2-9 đã khép lại thành công rực rỡ, để lại ấn tượng sâu sắc và niềm tự hào trong lòng nhân dân cả nước cũng như bạn bè quốc tế. Thành công của sự kiện thêm một lần khẳng định Hà Nội xứng đáng là điểm đến tiêu biểu của cả nước và quốc tế mỗi khi nghĩ về Việt Nam, cho thấy tầm vóc và bản lĩnh của một Thủ đô ngàn năm văn hiến đang vươn mình hội nhập.

Hoàn thiện Hà Nội – thủ đô linh thiêng của đất nước

Hà Nội là thủ đô của đất nước và trong nhiều năm qua đã thay da đổi thịt, phát triển nhanh lên những tầm cao mới. Tuy thế, trong niềm tự hào sâu sắc, chúng ta vẫn phải thừa nhận các vấn đề của Hà Nội còn tồn tại nhiều và dường như chúng ta chưa ý thức hết vị thế địa lý và tâm linh đặc biệt của Hà Nội trong lịch sử Việt Nam. Nếu chỉ dừng lại ở ý tưởng Hà Nội là trung tâm chính trị, văn hoá, kinh tế thì sẽ không thấy hết được và không thực sự phát triển được Hà Nội tương đương với tầm vóc và tiềm năng mà các bậc tiền nhân đã nhìn thấy ở mảnh đất này.

Khi Lý Thái Tổ dời đô từ Hoa Lư ra Thăng Long năm 1010, nhà Vua đã dựa trên thế đất “rồng cuộn, hổ ngồi”, phù hợp với nguyên tắc phong thủy của phương Đông. Vùng đất này được bao bọc bởi sông Hồng, có thế đất cao ráo, linh khí hội tụ, là nơi “thiên thời, địa lợi, nhân hòa” để phát triển vương triều lâu dài. Trong “Chiếu dời đô”, Lý Thái Tổ nhấn mạnh Thăng Long là nơi “trung tâm trời đất”, “chỗ hội tụ quan yếu của bốn phương”, “nơi thượng đô kinh sư mãi muôn đời”. Đó là những xác quyết rất chính xác và đầy linh thiêng về Hà Nội.

Không phải ngẫu nhiên khi Hà Nội là nơi có rất nhiều ngôi chùa, đình, đền linh thiêng, gắn liền với sự hình thành và phát triển của dân tộc: Đền Ngọc Sơn thờ anh hùng dân tộc Trần Hưng Đạo, Chùa Một Cột biểu tượng tâm linh gắn với Phật giáo, đền Quán Thánh thờ Huyền Thiên Trấn Vũ, một trong Tứ Trấn Thăng Long bảo vệ kinh thành, Phủ Tây Hồ – trung tâm tín ngưỡng thờ Mẫu nổi tiếng, chùa Trấn Quốc – ngôi chùa cổ nhất Hà Nội, biểu tượng Phật giáo. Các công trình này phản ánh niềm tin của người dân vào sự bảo hộ của thần linh và sự trường tồn của quốc gia.

Không phải ngẫu nhiên khi Thăng Long – Hà Nội là nơi chứng kiến nhiều sự kiện trọng đại gắn liền với vận mệnh dân tộc. Hà Nội, không còn nghi ngờ gì nữa, chính là  nơi hội tụ hồn thiêng sông núi, là nơi tinh hoa của dân tộc được trao truyền, phát tiết. Như thế, Thăng Long – Hà Nội không chỉ là trung tâm chính trị, văn hóa mà còn có ý nghĩa tâm linh sâu sắc đối với quốc gia Việt Nam. Đây là vùng đất hội đủ long mạch, linh khí, lịch sử, và tín ngưỡng, đóng vai trò như một “trái tim linh thiêng” của dân tộc suốt hàng ngàn năm. Trái tim ấy được bảo vệ bởi dãy núi Tản Viên (hay núi Ba Vì) hùng vĩ nằm ở phía tây Hà Nội. Núi Tản Viên gắn liền với truyền thuyết về Sơn Tinh – Thủy Tinh, trong đó Thánh Tản Viên (Sơn Tinh) được coi là vị thần cai quản núi rừng, bảo vệ đất nước, một trong Tứ Bất Tử trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam. Trong suốt lịch sử, các triều đại đều xem núi Ba Vì là long mạch linh thiêng, đóng vai trò quan trọng trong việc giữ vững vận mệnh quốc gia.

Dòng sông Tô Lịch cũng không chỉ là một dòng sông cổ của Hà Nội mà còn mang ý nghĩa tâm linh sâu sắc, gắn liền với lịch sử, tín ngưỡng, và phong thủy của vùng đất Thăng Long. Theo truyền thuyết, thần Tô Lịch là một vị thần trấn giữ kinh đô, bảo vệ long mạch của Thăng Long. Đền Thờ Thần Tô Lịch (Đền Linh Lang) từng nằm bên bờ sông, được coi là nơi linh thiêng bậc nhất của kinh thành xưa. Theo phong thủy, sông Tô Lịch là một phần của hệ thống long mạch, giúp điều hòa khí huyết của kinh đô Thăng Long. Dòng sông từng có vai trò như một vòng bảo vệ tự nhiên, mang lại vượng khí cho Hoàng thành. Sông chảy theo hướng Bắc – Nam, rồi hợp với sông Hồng, tạo thành thế tụ thủy, được coi là yếu tố phong thủy quan trọng giúp Thăng Long phát triển thịnh vượng. Dưới thời Lý – Trần, sông Tô Lịch là nơi tổ chức các nghi lễ cầu mùa, cầu an, giải hạn của vương triều. Nhiều ngôi đền, chùa nổi tiếng đã được xây dựng dọc hai bên bờ, như đền Bạch Mã – một trong Tứ Trấn Thăng Long, thờ thần Long Đỗ, vị thần bảo hộ kinh thành. Trong dân gian, sông Tô Lịch được xem như dòng sông thiêng, là nơi gắn kết giữa trời – đất, âm – dương. Tuy nhiên, theo thời gian, dòng sông bị ô nhiễm, mất đi vẻ đẹp và giá trị tâm linh vốn có. Nhiều người tin rằng sự suy tàn của sông Tô Lịch cũng ảnh hưởng đến phong thủy và sự phát triển của Hà Nội.

Hà Nội đang nỗ lực “hồi sinh” sông Tô Lịch, một dòng chảy quan trọng đã gắn bó với Thủ đô trong suốt tiến trình lịch sử. Ảnh: báo Sức khỏe & Đời sống

Khôi phục lại sông Tô Lịch và các dòng sông khác của Hà Nội như sông Nhuệ, sông Đáy, sông Hồng là nhiệm vụ rất quan trọng. Cần xây dựng các hệ thống lọc nước tự nhiên dùng công nghệ nano, vi sinh để trả lại sự thuần khiết của dòng sông, song song với nạo vét lòng sông và khôi phục lại dòng chảy tự nhiên của nó. Thiết kế lại cảnh quan ven sông, xây dựng tuyến đi bộ, công viên dọc sông cũng như khôi phục văn hóa tín ngưỡng ven sông, như lễ rước nước, tế thần sông Tô Lịch, sẽ góp phần trả lại dòng sông thiêng của lịch sử. Các dòng sông khác như sông Nhuệ, sông Kim Ngưu, sông Sét cũng cần được nạo vét, xử lý rác thải công nghiệp. Các dòng sông này kết nối với Hồ Tây, sông Hồng để tạo hệ thống thủy sinh cân bằng cho Hà Nội. Hồ Hoàn Kiếm, và Hồ Tây cũng là hai trung tâm linh thiêng cần được kiểm soát chặt chẽ tình trạng xả thải và kết hợp làm sạch nước bằng công nghệ sinh học.

Hoàng Thành Thăng Long cũng vậy. Đây không chỉ là trung tâm quyền lực suốt nhiều triều đại mà còn là biểu tượng văn hóa, tâm linh và chủ quyền quốc gia.  Được xây dựng từ thời Lý Thái Tổ năm 1010, Hoàng Thành Thăng Long trở thành kinh đô của Đại Việt trong gần 800 năm, qua các triều đại Lý, Trần, Lê. Trong suốt thời kỳ phong kiến, Hoàng Thành cũng là trung tâm chỉ huy quân sự, bảo vệ kinh đô và đất nước trước giặc ngoại xâm. Hoàng Thành đã là nơi tổ chức các đại lễ hoàng gia, bao gồm lễ tế trời đất, lễ đăng quang, lễ ban chiếu chỉ. Năm 2010, khu di tích Hoàng Thành Thăng Long được UNESCO công nhận là Di sản Văn hóa Thế giới, khẳng định giá trị trường tồn của công trình này. Mặc dù quan trọng vậy, nhưng Hoàng Thành Thăng Long ngày nay đã bị mai một rất nhiều do chiến tranh và sự biến đổi của lịch sử. Việc khôi phục, tôn tạo lại công trình này là rất cần thiết để đảm bảo giữ gìn tính nguyên bản đồng thời phát huy giá trị di sản. Chúng ta phải nghiên cứu và tái phục dựng các công trình quan trọng như Điện Kính Thiên, nơi thiết triều và tổ chức nghi lễ, phục dựng lại hệ thống tường bảo vệ, cổng thành để tái hiện không gian kinh đô xưa, tái hiện một phần các cung điện quan trọng. Phục dựng các lễ hội Hoàng Thành, như lễ đăng quang, lễ tế trời đất, lễ hội văn hóa cung đình là rất cần để giới trẻ ngày nay thực sự hiểu về Thăng Long. Hiện người Việt Nam vẫn có xu hướng nghĩ chỉ có Huế mới là cố đô với những nghệ thuật như múa rồng, nhã nhạc cung đình, đèn lồng nhưng thực chất Thăng Long Hà Nội chính là cái nôi của văn hoá cung đình lại không được biết đến. Chúng ta phải hoàn thiện lại để Hoàng Thành Thăng Long không chỉ là trái tim của Hà Nội mà còn là linh hồn của dân tộc Việt Nam. Cần vượt qua mọi trở ngại về tầm nhìn và các rào cản bởi các quy định hạn chế sự phục hồi và tôn tạo. Việc khôi phục và tôn tạo di sản này cần được thực hiện một cách bài bản, gắn kết yếu tố tâm linh với hiện đại, giải quyết mối quan hệ âm dương hài hòa, vừa bảo tồn giá trị lịch sử, vừa phát huy tiềm năng du lịch và giáo dục, để nơi đây trở thành một biểu tượng sống động của văn hóa, hồn cách Việt Nam trường tồn.

Hoàn thiện Thủ đô Hà Nội đúng với vị thế vốn có không chỉ là phát triển kinh tế mà còn cần thực hiện đồng bộ hai nhiệm vụ: bảo tồn di sản và khôi phục các dòng sông, giúp Hà Nội trở lại vị thế kinh đô linh thiêng với sự hài hòa giữa lịch sử, văn hóa, tâm linh và môi trường. Hà Nội phải không chỉ là trung tâm chính trị mà còn thực sự là trung tâm tâm linh và văn hóa của Việt Nam trong thời hiện đại.

Hà Nội, với bề dày ngàn năm văn hiến và tầm vóc thời đại mới, vẫn và sẽ mãi mãi là trái tim của nước Việt Nam – nơi lắng hồn núi sông ngàn năm, đồng thời là động lực thúc đẩy đất nước không ngừng tiến lên trên con đường phát triển. Hà Nội ngàn năm vẫn rạng rỡ, xứng đáng với câu thơ tự hào:

“Gió ngàn năm vẫn thổi
Hồn nước Việt trong xanh
Hà Nội – trái tim Tổ quốc
Rạng rỡ mãi sử xanh”.■

BÌNH LUẬN

BÀI BÌNH LUẬN KHÁC