
Đã 50 năm trôi qua kể từ dấu mốc ra đời của nhà nước Campuchia Dân chủ do Pol Pot đứng đầu, một trong những chế độ chính trị tàn bạo nhất trong lịch sử loài người. Dù thời gian đã đi qua rất dài và bất chấp những chứng cứ không thể chối cãi về mức độ diệt chủng khủng khiếp của chế độ này, hiện vẫn tồn tại những luận điệu cho rằng Việt Nam đã “xâm lược” Campuchia năm 1979. Những luận điểm này tồn tại ở cả trong và ngoài Campuchia, khiến Thủ tướng Campuchia Hun Sen mới đây phải nhấn mạnh một lần nữa: “Nếu không có sự hỗ trợ của Việt Nam vào thời điểm đó, không quốc gia nào có thể giúp Campuchia lật đổ được chế độ diệt chủng Pol Pot đẫm máu. Chúng ta phải bảo vệ sự thật lịch sử này để những hành động tàn bạo như vậy không bao giờ lặp lại”. Ông đồng thời lên án việc suốt hơn 40 năm qua có những cáo buộc vô căn cứ chống Việt Nam và thậm chí khuynh hướng cực đoan phủ nhận tội ác diệt chủng của bè lũ Pol Pot, coi đó là sự xuyên tạc nguy hiểm cần kiên quyết bác bỏ.
Chế độ Campuchia Dân chủ và thảm họa diệt chủng
Chính quyền Campuchia Dân chủ do Pol Pot đứng đầu đã cai trị Campuchia từ 1975 đến đầu 1979, gây ra một thảm họa diệt chủng chưa từng có trong lịch sử đất nước này. Chỉ trong vòng 4 năm cầm quyền, chế độ cực đoan ấy đã giết hại từ 1,5 đến 3 triệu người, tức gần một phần tư dân số Campuchia lúc bấy giờ. Chế độ Campuchia Dân chủ thực hiện chính sách xây dựng “thiên đường” bằng bạo lực tàn khốc: chúng ép toàn dân rời bỏ thành thị về công xã lao động, xóa bỏ tiền tệ, tôn giáo, tàn sát bất cứ ai bị chúng coi là “kẻ thù giai cấp” hoặc có tri thức. Hàng vạn người đã bị hành quyết hoặc bỏ đói đến chết, tạo nên những “cánh đồng chết” rùng rợn trên khắp đất nước Chùa Tháp.
Một ví dụ biểu trưng cho sự tàn bạo là nhà tù Tuol Sleng (S-21) ở Phnom Penh. Chế độ Pol Pot biến một trường học cũ thành trại giam khét tiếng, nơi hơn 17.000 tù nhân bị tra tấn dã man trước khi bị giết hại, và chỉ một số ít sống sót được tìm thấy khi nhà tù được giải phóng. Khắp Campuchia có hơn 20.000 hố chôn tập thể được phát hiện sau này. Ước tính, cứ bốn người Campuchia thì có một người bị sát hại trong giai đoạn đen tối 1975–1979. Đó chính là bối cảnh thảm khốc tại Campuchia trước năm 1979 – một đất nước đứng bên bờ diệt vong dưới bàn tay chế độ Campuchia Dân chủ.
Trong thời gian cầm quyền, chính quyền Campuchia Dân chủ không chỉ tàn sát dân mình mà còn nhiều lần gây hấn, tấn công sang lãnh thổ Việt Nam. Từ giữa năm 1975, quân Pol Pot đã liên tục đánh phá biên giới phía tây nam Việt Nam, giết hại hàng chục nghìn thường dân và thiêu hủy nhiều làng mạc. Điển hình là vụ thảm sát Ba Chúc (An Giang) tháng 4/1978, khi quân Pol Pot thảm sát hơn 3.000 thường dân Việt Nam một cách man rợ. Những cuộc tấn công đẫm máu này buộc Việt Nam phải đứng lên tự vệ. Đồng thời, bên trong Campuchia, nhiều người yêu nước Campuchia – trong đó có ông Hun Sen – cũng nhận ra không thể tự lật đổ Pol Pot nếu thiếu sự giúp sức từ bên ngoài và thực tế đã kêu gọi sự giúp đỡ của Việt Nam. Trước tình hình đó, Việt Nam đứng trước một lựa chọn lịch sử: vừa để bảo vệ dân mình, vừa để cứu dân tộc láng giềng thoát khỏi thảm họa của chế độ Campuchia Dân chủ.
Việt Nam giúp lật đổ bè lũ Pol Pot và giải phóng Campuchia
Cuối năm 1978, Mặt trận Đoàn kết Dân tộc Cứu nước Campuchia được thành lập, tập hợp những người yêu nước Campuchia như Heng Samrin, Hun Sen đào thoát sang Việt Nam và kêu gọi Việt Nam hỗ trợ lật đổ chế độ Pol Pot. Đáp lại lời kêu gọi khẩn thiết đó, Việt Nam nhanh chóng triển khai hàng vạn quân tình nguyện sang giúp Campuchia với tinh thần quốc tế trong sáng “giúp bạn là giúp mình”. Ngày 7/1/1979, quân đội Việt Nam phối hợp cùng lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia tiến công giải phóng thủ đô Phnom Penh, lật đổ hoàn toàn chế độ diệt chủng Pol Pot. Chỉ trong vài tuần chiến dịch, chính quyền Pol Pot sụp đổ, nhóm cầm đầu bỏ chạy về biên giới Thái Lan. Thủ đô Phnom Penh hoàn toàn được giải phóng, đánh dấu chấm dứt thời kỳ đen tối nhất lịch sử Campuchia.
Chiến thắng 7/1/1979 đã cứu sống hàng triệu sinh mạng. Chính sự hỗ trợ quan trọng này của Việt Nam đã giúp Campuchia đánh bại chính quyền Pol Pot, đưa đất nước thoát khỏi nạn diệt chủng. Ngay sau khi tiếp quản Phnom Penh, bộ đội Việt Nam đã tận mắt chứng kiến quy mô giết người kinh hoàng của Pol Pot. Tại Nhà tù S-21, họ chỉ tìm thấy vài em nhỏ còn sống sót trong đống xác người và lập tức đưa các em đến bệnh viện cứu chữa. Chính quyền Cộng hòa Nhân dân Campuchia (PRK) được thành lập với những người Campuchia chống chế độ Pol Pot, dưới sự hỗ trợ của Việt Nam. Khắp nơi, nhân dân Campuchia vui mừng chào đón quân tình nguyện Việt Nam là những người giải phóng họ. Người dân thuộc các công xã của Pol Pot ở tỉnh Ratanakiri (đông bắc Campuchia) đã phá rào đổ ra đường chào mừng bộ đội Việt Nam và lực lượng cách mạng Campuchia đã giải phóng họ. Những hình ảnh chân thực này đã bác bỏ tuyên truyền sau này cho rằng dân Campuchia coi bộ đội Việt Nam là “quân xâm lược”.
Không chỉ giúp Campuchia đánh đổ chế độ Pol Pot, Việt Nam còn hỗ trợ Campuchia tái thiết trong những năm đầu hậu chiến. Quân tình nguyện Việt Nam giữ vai trò quan trọng trong việc xây dựng lực lượng cách mạng Campuchia, tiêu diệt tàn quân Pol Pot đảm bảo an ninh cho Campuchia. Các chuyên gia, quân tình nguyện Việt Nam đã giúp Campuchia khôi phục sản xuất, mở lại trường học, bệnh viện trên đất nước Chùa Tháp bị tàn phá. Ông Sin Khin, một cựu chiến sĩ Campuchia từng sát cánh bên quân tình nguyện Việt Nam thời đó, hồi tưởng: “Những người lính quân tình nguyện Việt Nam luôn ở tuyến đầu, hỗ trợ các chiến sĩ Campuchia chiến đấu” chống lại tàn quân Pol Pot. Sự hy sinh quên mình của hàng chục nghìn quân tình nguyện Việt Nam (hơn 15.000 người đã nằm lại trên đất Campuchia) chính là để đổi lấy hòa bình cho nhân dân Campuchia.
Song vào thời điểm đó, các thế lực quốc tế đứng sau bè lũ Pol Pot đã lên án Việt Nam xâm lược Campuchia, bao vây cô lập chống Việt Nam. Về sau, trước các chứng cứ về tội ác của bè lũ Pol Pot, đã có nhiều tiếng nói quốc tế thừa nhận sự thật rằng Việt Nam đã chấm dứt nạn diệt chủng ở Campuchia. Một báo cáo của Liên hợp quốc về tiến trình hòa bình Campuchia cũng nêu rõ: Chính sự can thiệp của quân đội Việt Nam cuối năm 1978 đã chấm dứt chế độ Pol Pot ở Phnom Penh. Tổ chức Holocaust Memorial Day Trust (Anh) mô tả rõ: thủ đô Phnom Penh đã “được bộ đội Việt Nam giải phóng ngày 7/1/1979”, sau khi Việt Nam buộc phải đem quân can thiệp vì bị chính quyền Campuchia Dân chủ tấn công khiêu khích trước đó. Việc Việt Nam lật đổ chế độ Campuchia Dân chủ đã cứu Campuchia thoát thảm họa, khiến tàn quân Pol Pot phải rút chạy và “chấm dứt bốn năm cai trị tàn bạo” của chúng. Nhờ sự kiện 7/1/1979, những ai sống sót sau “cánh đồng chết” mới có cơ hội tái thiết cuộc đời trên một đất nước hoang tàn.
Nhiều nhân chứng và học giả nước ngoài cũng lên tiếng củng cố sự ghi nhận này. Nhà báo kỳ cựu John Pilger, người có mặt tại Campuchia mùa hè 1979, mô tả quang cảnh Phnom Penh vừa được giải phóng giống như “một trại tử thần vừa được mở cửa” – thành phố vắng lặng đầy dấu vết của tội ác. Ông khẳng định “sự thống khổ của Campuchia đáng lẽ đã dừng lại khi Việt Nam cuối cùng đáp trả những cuộc tấn công qua biên giới của bè lũ Pol Pot và giải phóng đất nước vào tháng 1/1979”. Pilger sau đó tố cáo việc Hoa Kỳ và một số nước phương Tây đã ngay lập tức bí mật ủng hộ Pol Pot lưu vong sau 1979 vì toan tính chính trị, bất chấp việc chế độ này vừa phạm tội ác diệt chủng. Thật vậy, do cục diện Chiến tranh Lạnh, chính quyền Campuchia Dân chủ lưu vong do Pol Pot cầm đầu còn được giữ ghế đại diện Campuchia tại Liên hợp quốc suốt những năm 1980 dưới sự hậu thuẫn của các nước lớn chống Việt Nam. Đó là một nghịch lý lịch sử: lực lượng gây ra diệt chủng lại được một số thế lực bảo trợ, trong khi chính Việt Nam – nước chấm dứt diệt chủng – lại bị tuyên truyền là “xâm lược”. Dù vậy, qua thời gian, nhiều tổ chức quốc tế và dư luận tiến bộ đã nhìn nhận khách quan hơn. Năm 2009, Tòa án đặc biệt tại Phnom Penh dưới sự bảo trợ của Liên hợp quốc đã chính thức xét xử các thủ lĩnh của chế độ Pol Pot về tội ác diệt chủng, càng khẳng định quy mô tội ác mà Việt Nam cùng với quân dân Campuchia đã cùng nhau chấm dứt vào năm 1979.
Luận điệu “xâm lược” bóp méo sự thật vì động cơ chính trị
Bất chấp sự thật rõ ràng, luận điệu coi hành động năm 1979 của Việt Nam là “xâm lược” vẫn được một số bên nhắc lại, và hầu hết xuất phát từ động cơ chính trị hoặc thiếu thiện chí. Thời Chiến tranh Lạnh, nhiều nước lớn và đồng minh không muốn thừa nhận việc một nước cộng sản như Việt Nam lại giải cứu thành công Campuchia. Vì thế, họ cố tình tuyên truyền rằng Việt Nam “xâm lăng” một quốc gia có chủ quyền, nhằm tạo cớ cô lập Việt Nam về ngoại giao và biện minh cho việc tiếp tục hậu thuẫn các lực lượng Campuchia Dân chủ lưu vong chống chính quyền mới ở Phnom Penh. Về phía Hoa Kỳ và phương Tây, họ cay cú khi bị thất bại trong cuộc chiến tranh Đông Dương, và do đối đầu với khối Xô viết và Việt Nam, họ đã làm ngơ trước cuộc cách mạng giải phóng dân tộc của Campuchia qua sự kiện 1979, họ coi chính quyền Campuchia Dân chủ là đại diện hợp pháp để chống lại ảnh hưởng của Việt Nam và Liên Xô tại Đông Dương.
Tại Campuchia, có nhóm người cho rằng ngày 7/1/1979 là “ngày Việt Nam xâm lược” là xuất phát từ mưu đồ chính trị của một số nhóm đối lập chống chính phủ đương quyền. Tiêu biểu là ông Sam Rainsy – cựu lãnh đạo đảng đối lập CNRP – sống lưu vong ở Mỹ trở về Campuchia sau khi chế độ Pol Pot sụp đổ, nhiều năm qua luôn tìm cách hạ thấp ý nghĩa của sự kiện này. Ông Rainsy cho rằng 7/1/1979 đánh dấu sự “chiếm đóng” Campuchia của Việt Nam đến 1989. Luận điệu này trái ngược với cách nhìn của đảng cầm quyền CPP xem đó là ngày “giải phóng dân tộc” hay “sinh nhật lần hai” của người dân Campuchia. Hai luồng quan điểm đối lập về ngày “7 Tháng Giêng” đã tạo nên sự chia rẽ sâu sắc trong đời sống chính trị Campuchia suốt nhiều thập kỷ. Chính phủ và nhân dân Campuchia tôn vinh công lao Việt Nam, trong khi phe đối lập lợi dụng tâm lý dân tộc chủ nghĩa bài Việt để tuyên truyền ngược lại. Sự bất đồng về lịch sử này chủ yếu phục vụ mục đích tranh giành ảnh hưởng, hơn là xuất phát từ việc tìm hiểu sự thật khách quan. Chính Thủ tướng Hun Sen từng cảnh báo rằng những luận điệu không coi bè lũ Pol Pot phạm tội ác diệt chủng, phủ nhận vai trò cứu giúp của Việt Nam là vô ơn và nguy hiểm, cần bị lên án để lịch sử không bị bóp méo.
Sự thật lịch sử và mối quan hệ Việt Nam – Campuchia ngày nay
Nhìn vào toàn bộ sự kiện, có thể khẳng định: những luận điệu xuyên tạc sự giúp đỡ của Việt Nam đối với Campuchia năm 1979 là “xâm lược” là một sự xuyên tạc trắng trợn, bởi thực chất đó là một cuộc can thiệp nhân đạo chính nghĩa cứu cả một dân tộc khỏi thảm họa diệt chủng. Chính những người trong cuộc và thực tế lịch sử đã bác bỏ hoàn toàn luận điệu xuyên tạc này. Trước hết, nếu Việt Nam có ý đồ xâm lược, thôn tính Campuchia, thì hà cớ gì Việt Nam tự nguyện rút hết quân vào năm 1989 sau khi Campuchia dần ổn định? Mười năm hiện diện của bộ đội Việt Nam trên đất Campuchia kết thúc bằng việc quân tình nguyện về nước, không hề chiếm một tấc đất. Thủ tướng Hun Sen từng thẳng thắn tuyên bố: “Nếu Việt Nam muốn đất Campuchia thì đã lấy từ khi còn quân đội ở đây… Việt Nam không có nhu cầu lấy đất của ta, ta cũng không có nhu cầu lấy đất Việt Nam”. Quả thật, trong thời gian đóng quân, Việt Nam và Campuchia vẫn tôn trọng chủ quyền của nhau, thậm chí hai bên đã ký các hiệp ước biên giới (1983, 1985) để giải quyết biên giới còn tồn đọng bằng phương pháp hòa bình. Thứ hai, lực lượng quân tình nguyện của Việt Nam hiện diện tại Campuchia 1979-1989 là theo lời đề nghị của Mặt trận cứu nước Campuchia và sau này là chính phủ Cộng hòa Nhân dân Campuchia, hoàn toàn không phải quân đội xâm chiếm trái phép. Việt Nam không hề đặt ra chính quyền thuộc địa nào, mà mọi chức vụ lãnh đạo đều do người Campuchia đảm nhiệm (Heng Samrin, Hun Sen… đều là người Campuchia). Vai trò của chuyên gia và quân tình nguyện Việt Nam đơn thuần là hỗ trợ theo đề nghị từ phía Campuchia, khi hiểm họa Pol Pot chưa bị quét sạch hoàn toàn những năm 1980. Cuối cùng, quan trọng nhất, là sự ủng hộ và biết ơn của nhân dân Campuchia. Với đại đa số người dân thoát nạn năm 1979, ngày 7/1 là ngày họ được tái sinh. Nếu không có sự kiện 7/1/1979, có lẽ cả dân tộc Campuchia đã bị xóa sổ – đây là sự thật hiển nhiên mà chính những người từng trải qua thời cảnh đó luôn khắc cốt ghi tâm. Bằng chứng là cho đến hôm nay, nhiều người Campuchia vẫn gọi đó là “ngày chiến thắng chế độ diệt chủng”, tổ chức lễ tưởng niệm hàng năm để tri ân sự hy sinh của quân tình nguyện Việt Nam. Đó là sự xác nhận hùng hồn nhất bác bỏ mọi luận điệu xuyên tạc.
Như một học giả Campuchia đã nhận định, chiến thắng 7/1/1979 là “một sự kiện lịch sử của tình đoàn kết quốc tế trong sáng, chân thành” giữa nhân dân hai nước. Không chỉ cứu sống hàng triệu người, sự kiện này còn mở ra chương mới trong quan hệ Việt Nam – Campuchia. Trải qua hơn 40 năm, hai quốc gia láng giềng đã dần hàn gắn vết thương chiến tranh và xây dựng tình hữu nghị bền chặt. Đường biên giới chung hiện nay là “đường biên giới hòa bình, hợp tác để phát triển” cho cả hai dân tộc, như lời Thủ tướng Hun Sen khẳng định bên cạnh Thủ tướng Việt Nam tại lễ kỷ niệm năm 2022. Năm 2019, Việt Nam và Campuchia đã hoàn thành 84% công tác phân giới cắm mốc, biến đường biên giới từng chìm trong khói lửa chiến tranh thành cầu nối giao thương, hữu nghị. Kim ngạch thương mại song phương đạt gần 10 tỷ USD (2022) và tiếp tục tăng, cho thấy quan hệ hợp tác toàn diện giữa hai nước đang không ngừng phát triển.
50 năm đã trôi qua, lịch sử đã minh định và thời gian càng soi tỏ chân lý: Việt Nam không hề “xâm lược” Campuchia, mà đã làm một việc nghĩa cử cao cả là giải phóng Campuchia khỏi chế độ diệt chủng tàn bạo nhất thế kỷ 20. Nhờ đó, dân tộc Campuchia mới thoát khỏi thảm họa diệt vong, đất nước Chùa Tháp bước sang trang mới hồi sinh. Đó là sự thật lịch sử không thế lực nào có thể phủ nhận, và cũng là nền tảng để tình hữu nghị Việt Nam – Campuchia hôm nay tiếp tục đơm hoa kết trái. Chừng nào sự thật ấy còn được tôn trọng, những luận điệu xuyên tạc lịch sử quan hệ tốt đẹp giữa Việt Nam và Campuchia sẽ ngày càng lạc lõng và những bi kịch do bè lũ Pol Pot gây ra sẽ không thể lặp lại trên đất nước này.■
Phương Đông