Có thể nói là ông Donald Trump đã chiến thắng một cách tuyệt đối trong cuộc bầu cử lịch sử 2024 của Mỹ: không chỉ vượt đối thủ Harris của đảng Dân chủ đến 5 triệu phiếu phổ thông; 312/226 phiếu đại cử tri, giành toàn bộ sự ủng hộ của 7 bang “do dự”; đảng Cộng hòa của ông Trump còn kiểm soát cả Thượng Viện (54/100) và Hạ Viện (218/435). Đây là chiến thắng vang dội nhất của một Tổng thống thuộc đảng Cộng hòa kể từ bầu cử 2004 đến nay; Trump có ưu thế trên cả ba lĩnh vực hành pháp, tư pháp và lập pháp để vận hành nhiệm kỳ Tổng thống thứ 47 của nước Mỹ.
Thế giới dường như đang chờ đợi sự “bùng nổ” tiếp theo của Donald Trump và mọi con mắt đang nhìn về phía Trump, tìm cách đánh giá ông Trump sẽ đưa nước Mỹ, thậm chí cả thế giới đi về đâu trong 4 năm tới.
Trước hết hãy điểm qua vài nét về nội các của chính quyền Donald Trump 2.0: Một tháng sau bầu cử, đến đầu tháng 12/2024 Trump đã cơ bản hoàn thành việc đề cử các thành viên nội các Trump 2.0 gồm 20 thành viên phải thông qua phê chuẩn và 9 thành viên không cần thông qua phê chuẩn của Thượng viện, nội các này sẽ bắt đầu chấp chính từ 20/1/2025.
(i) Tiêu chí lựa chọn thành viên Nội các Trump 2.0:
– Tiêu chí trước hết và trên hết là sự trung thành tuyệt đối với cá nhân ông Trump và với chủ thuyết “làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại” của Trump. Hầu hết những người mà ông Trump đã chọn đều đã thể hiện lòng trung thành với ông, hoàn toàn “đứng về phía Trump” trong nhiệm kỳ 1 của ông Trump (2016 – 2020) và đã từng bảo vệ Trump trong những năm tháng gian nan lận đận của Trump sau thất bại trong cuộc bầu cử năm 2020. Hơn một nửa thành viên Nội các mới đã từng kề vai sát cánh với Trump trong Nội các Trump 1, tiêu biểu như Chánh Văn phòng Nhà Trắng Susie Wiles; Bộ trưởng Di dân và Hải quan Thomas Homan; Cục trưởng Bảo vệ môi trường Zeldin; Bộ trưởng Nội vụ Doug Burgum, Bộ trưởng An ninh nội đia Kristi Noem… Ngoài những nhân vật luôn luôn tỏ rõ lòng trung thành, Trump còn lựa chọn trong số những nhân vật đã thay đổi 180 độ cách nhìn nhận đối với Trump và chính sách của Trump qua thực tiễn chấp chính của chính quyền Biden và nhất là từ khi bắt đầu cuộc vận động tranh cử 2024, tạo ra đội ngũ “trung thành mới” của Trump (tiêu biểu như Ngoại trưởng Rubio; Bộ trưởng Tài chính Bessent, Giám đốc CIA John Ratcliffe, Bộ trưởng Bộ “Hiệu suất Chính phủ” Tỉ phú Elon Musk…).
– Tiêu chí lớn thứ hai là chọn người có năng lực thực sự, có ảnh hưởng trên thực tế đối với xã hội và chuyên ngành phụ trách, có đầu óc sáng tạo, lập nghiệp có thể giúp Trump “làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại”, không câu nệ nhiều về quan niệm giá trị, quá trình hoạt động hoặc địa vị chính trị (Bộ trưởng Tài chính Bessent; Bộ trưởng Thương Mại Howard Lutnick, Ngoại trưởng Marco Rubio; Đại diện Thương mại Mỹ Jamieson Greer…).
(ii) Một số đặc điểm, tính chất nổi bật của Nội các Trump 2.0
– Trong số đã được Trump đề cử, thành phần xuất thân từ thương mại và truyền thông chiếm nhiều hơn các kỳ Tổng thống trước, có nhiều nhân vật tượng trưng cho giới tài phiệt phố Wall và là những tỉ phú hàng đầu của nước Mỹ (như Bộ trưởng Tài chính Bessent; hai đồng Bộ trưởng “Hiệu suất chính phủ” – Elon Musk và Vivek Ramaswamy; Bộ trưởng Thương mại Howard Lutnick; Bộ trưởng Quốc phòng Pete Hegseth…). Các thành phần này sẽ có vai trò tham mưu đáng kể cho điều hành kinh tế của Trump và góp phần cải thiện mối quan hệ vốn không mấy êm thấm giữa Trump với giới truyền thông, giúp tô vẽ lại hình ảnh của Trump trên truyền thông của Mỹ và quốc tế.
– Thành phần xuất thân từ Nghị sĩ, thống đốc Bang chiếm khoảng hơn ½ Nội các, trong đó có các Bộ chủ chốt như Bộ Ngoại giao, Bộ Nội vụ, Bộ An ninh Nội địa, Giám đốc Cơ quan Tình báo Quốc gia, Cố vấn An ninh Quốc gia… sẽ giúp Trump hài hòa mối quan hệ giữa hành pháp và lập pháp; cùng với việc Trump khống chế cả Thượng viện và Hạ viện, sẽ giúp chính quyền Trump 2.0 vận hành trôi chảy hơn, với sự ủng hộ nhiều hơn của ngành lập pháp.
– Đây còn là một nội các trẻ, sung sức (Thư ký báo chí Nhà Trắng Leavitt 27 tuổi, Phó Chánh Văn phòng Nhà Trắng Stephen Millar và Bộ trưởng Bộ “Hiệu suất Chính phủ Ramaswamy đều 39 tuổi; Đại sứ tại Liên hợp quốc Stephanick 40 tuổi; Giám đốc Tình báo quốc gia Gabbard 43 tuổi; Đại diện Thương mại Grees và Cục trưởng Bảo vệ môi trường Lee Zendin đều 44 tuổi; hai nhân vật chủ chốt của Nội các là Cố vấn An ninh Quốc gia Waltz cũng mới 50 tuổi và Ngoại trưởng Rubio 53 tuổi, vẫn còn rất sung sức…).
– Qua sự lựa chọn nhân sự mới, có thể thấy 2 xu hướng tư tưởng chủ đạo của Trump trong hình thành nội các, một là “nước Mỹ trên hết” (hoặc “làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại”) và hai là “kiềm chế Trung Quốc”. Nội các mới của Trump bao gồm nhiều nhân vật có quan điểm cứng rắn, thậm chí là “cứng rắn cực đoan” trong hai xu hướng tư tưởng này: Đa phần đều ủng hộ chính sách trưng thuế nhập khẩu cao của Trump với bất cứ đối tác nào, cả với các đối thủ và cả với đồng minh, đặc biệt là đối với Trung Quốc; chủ trương “trục xuất dần” 12 triệu “di dân bất hợp pháp” ra khỏi nước Mỹ, kể cả phải dùng đến lực lượng quân sự; phần lớn nội các Trump 2.0 đều có quan điểm “kiềm chế Trung Quốc”, trong đó có nhiều nhân vật, ở các địa vị quan trọng hàng đầu của Nội các có quan điểm “chống Trung Quốc” một cách cực đoan (tiêu biểu là Ngoại trưởng Rubio, Cố vấn An ninh quốc gia Waltz…). Nhìn chung quan điểm kiềm chế Trung Quốc của nội các Trump 2.0 “đồng bộ” với nhận thức chung của hai đảng Cộng hòa và Dân chủ tại Lưỡng viện về vấn đề này.
– Trong quá trình thực thi chủ thuyết “Nước Mỹ trên hết”, Trump đồng thời cũng quán triệt phương châm “Trump trên hết” đối với mọi quyết sách, thông qua “Trump trên hết” để thực hiện “nước Mỹ trên hết”. Trump là người quyết định cuối cùng trong tất cả các quyết sách, dù cho còn nhiều ý kiến khác nhau, thậm chí là có ý kiến phản đối (Trump quyết định rút khỏi Hiệp định Paris về biến đổi khí hậu, vẫn thúc đẩy khai thác và sử dụng năng lượng hóa thạch; trong vấn đề “kiềm chế Trung Quốc”, Trump vẫn là người đưa ra quyết định cuối cùng trên cơ sở tự Trump đánh giá về tác dụng của nhân tố Trung Quốc đối với triết lý “làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại” của Trump…).
– Trong danh sách Nội các mà Trump đề cử, ít nhất cũng đã hình thành 3 nhóm: Một nhóm chuyên mang tính phục thù, tìm cách truy xét cái gọi là “Chính phủ tầng sâu” và tất cả những quan chức tham gia vào việc khởi tố Trump, giúp Trump “rửa hận”. Nhóm này bao gồm những nhân vật gần gũi nhất, trung thành vô điều kiện với Trump, đã được thử thách trong nhiệm kỳ 1 của Trump. Một nhóm chuyên lo về thị trường, không để cho thị trường bị ảnh hưởng bởi các chính sách “nước Mỹ trên hết” của Trump. Nhân vật trung tâm của nhóm này là Bộ trưởng Tài chính Bessent. Một nhóm chuyên về tinh giản bộ máy và dự toán ngân sách, nâng cao hiệu suất của chính phủ do Elon Musk và Vivek Ramaswamy lãnh đạo, tìm cách giảm 2.000 tỉ USD trong dự toán ngân sách của Chính phủ tới, con số này cao tương đương với toàn bộ tiền lương của các nhân viên toàn liên bang.
– Trump đặc biệt chú ý bố trí những nhân vật có chuyên môn cao và lòng trung thành vào ba lĩnh vực trụ cột: Kinh tế thương mại, An ninh quốc gia và Ngoại giao.
Trong đội ngũ kinh tế thương mại, Bộ trưởng Tài chính Scott Bessents; Bộ trưởng Thương mại Lutnick, Đại diện Thương mại Jamieson Greer đều xuất thân từ giới tài phiệt phố Walll, có kiến thức và kinh nghiệm quản lý về tài chính, thương mại, đầu tư, nhìn chung có quan điểm đồng thuận với Trump trên lĩnh vực này. Sự tương tác giữa ba “trụ cột” trên lĩnh vực Tài chính – đầu tư – thương mại này có thể sẽ giúp Trump xây dựng một hệ thống chính sách kinh tế tài chính có hiệu lực, hiệu quả hơn so với nhiệm kỳ 1 của ông Trump.
Lĩnh vực Ngoại giao và An ninh quốc gia trong nội các Trump 2.0 rất gắn bó với nhau, thể hiện trước hết qua các nhân vật đứng đầu trên hai lĩnh vực cốt lõi này. Ngoại trưởng Rubio và Cố vấn An ninh Quốc gia (ANQG) Waltz đều là những nhân vật thuộc nhóm “chiến lược gia diều hâu”, tiêu biểu cho quan điểm “diều hâu” trên hai lĩnh vực Ngoại giao và An ninh. Ngoại trưởng Rubio là một nhà hoạt động ngoại giao nặng về hình thái ý thức, chính sách ngoại giao của ông ta sẽ rất cứng rắn, nhất là đối với Trung Quốc và Nga. Trên lĩnh vực ANQG, ngoài Cố vấn ANQG Waltz nổi tiếng thuộc phái diều hâu, các nhân vật liên quan đến ANQG hầu như đều có quan điểm cứng rắn, như Bộ trưởng Quốc phòng, Giám đốc CIA, Bộ trưởng phụ trách biên giới và di dân, Bộ trưởng An ninh nội địa… lập trường của họ trong chiến lược ANQG của Mỹ có thể làm cho cạnh tranh địa chính trị giữa các nước lớn khó có thể hạ nhiệt.
– Các thành viên của nội các được đề cử có lịch sử trải nghiệm và thế giới quan không giống nhau, nên khả năng tranh cãi, thậm chí là mâu thuẫn trong nội bộ về quan điểm, chính sách và cách ứng xử là điều khó tránh khỏi, phải dựa nhiều vào vai trò “cầm trịch” của Tổng thống Trump để cân bằng. Tổng thống Donald Trump rất tự tin về vai trò “quyết sách cuối cùng” của mình nên đã tỏ ra không hề lo ngại với sự khác nhau về thế giới quan, nhân sinh quan của các thành viên nội các. Rất có thể Trump đã chủ động tạo ra một hình thái nội các “thống nhất trong đa dạng” để nêu cao vai trò và trí tuệ của “tư lệnh tối cao” – Tổng thống trong điều hành bộ máy; đây cũng là nét đặc trưng của Trump.
Một số nét đáng chú ý về đối ngoại của Trump 2:
Trump có thể đặt trọng tâm chính sách nhiệm kỳ 2 vào những vấn đề đối nội, đặc biệt là vào lĩnh vực chấn hưng kinh tế – thương mại, đưa ngành chế tạo hiện đại trở lại Mỹ, cấu trúc lại chuỗi cung ứng, tạo việc làm, nâng cao sức cạnh tranh, đảm bảo chắc chắn địa vị chi phối lớn nhất thực lực kinh tế toàn cầu của kinh tế Mỹ (Cố vấn ANQG Sullivan ngày 27/4/2023, tại Học Hội Brookings, đã có bài phát biểu tiêu đề “Chấn hưng lại địa vị lãnh đạo kinh tế toàn cầu của Mỹ” phải thừa nhận, khi Chiến tranh thế giới II vừa kết thúc, GDP của Mỹ chiếm ½ GDP thế giới, trong đó ¼ là do ngành chế tạo tạo ra; nhưng đến tháng 8/2024, sản phẩm do ngành chế tạo Mỹ tạo ra chiếm không đến 17% sản phẩm chế tạo của thế giới, thấp hơn nhiều so với mức 29% của ngành chế tạo Trung Quốc). Tuy nhiên cũng có rất nhiều hồ sơ đối ngoại bức bách mà Trump phải tập trung giải quyết:
(i) Quan hệ Mỹ – châu Âu: vẫn tồn tại nguy cơ chia rẽ chủ yếu trên ba lĩnh vực then chốt: chiến tranh Ukraine, xung đột thương mại và chi phí quốc phòng. Về cuộc chiến Ukraine, Mỹ ngày càng muốn chuyển gánh nặng “viện trợ cho Ukraine” sang cho châu Âu, Trump càng tỏ ra muốn kết thúc cuộc chiến này càng sớm càng tốt và rất có thể sẽ thúc ép Ukraine phải có những “nhượng bộ cần thiết” trước Nga; thậm chí nhiều chính trị gia châu Âu cũng đang lo ngại khả năng “đi đêm” giữa Trump và Putin nhằm nhanh chóng kết thúc cuộc chiến theo hướng có lợi cho Mỹ. Ngay sau khi thắng cử, Trump đã điện đàm với Thủ tướng Đức Olaf Scholz thảo luận về “Khôi phục hòa bình châu Âu” và cũng đã điện đàm với hầu hết các nhà lãnh đạo chủ yếu của châu Âu bao gồm cả Tổng thống Nga Putin, Tổng thống Ukraine Zelensky; Tổng thư ký NATO, Tổng thống Pháp, Thủ tướng Ý, Thủ tướng Đan Mạch… Cùng với đó, Hội nghị Thượng đỉnh “Cộng đồng chính trị châu Âu” gồm trên 40 nước châu Âu đã họp tại Budapest, Hungary, ngày 7/11, chỉ hai ngày sau khi Trump thắng cử; Hội nghị kêu gọi “thi hành các hành động mạnh mẽ hơn để bảo vệ mình và giúp đỡ Ukraine”. Nhưng làm thế nào để “tự bảo vệ mình” và “giúp đỡ cho Ukraine” là không đơn giản, cơ bản vẫn chỉ là bày tỏ ý nguyện, chưa đạt được một giải pháp thực sự khả thi nào để triển khai. Mỹ và châu Âu vẫn tiếp tục chia rẽ về cuộc chiến Nga – Ukraine và về quan hệ với Nga. Châu Âu lo ngại sự thay đổi quan điểm của Mỹ về cuộc chiến Ukraine không chỉ vì họ sẽ phải gánh nặng hơn “cục nợ” Ukraine mà chủ yếu là lo ngại sự thay đổi này của Mỹ sẽ càng chia rẽ châu Âu, chia rẽ NATO hơn, càng làm cho châu Âu yếu thế hơn trước Nga.
Về quan hệ kinh tế mậu dịch, ngoài tuyên bố gia tăng trưng thuế lên 60% đối với hàng hóa nhập khẩu của Trung Quốc, Trump cũng đã đe dọa tăng trưng thuế từ 10% – 20% đối với hàng nhập khẩu của châu Âu; hai bên vẫn thực thi các biện pháp trừng phạt lẫn nhau. Năm 2023 châu Âu vẫn xuất siêu sang Mỹ 124 tỉ USD, đây vẫn là “cái gai” trong con mắt Trump, nếu không có biện pháp loại bỏ, khả năng cải thiện thêm nữa quan hệ giữa chính quyền Trump 2.0 với châu Âu xem ra là không dễ dàng.
Một mặt ảnh hưởng tiêu cực nữa đến quan hệ Mỹ – Âu là sức ép của Mỹ đòi châu Âu tăng chi phí quốc phòng (lên trên 2% GDP), gia tăng tỉ lệ đóng góp trong NATO đang và sẽ còn gây bức xúc cho các nước châu Âu và NATO. Theo thống kê, đến cuối năm 2023, trong 27 quốc gia thành viên EU, mới chỉ có 18 quốc gia thực hiện ngân sách quốc phòng đạt từ 2% GDP, còn kém xa đòi hỏi của Mỹ và đây vẫn là vấn đề gay cấn trong quan hệ Mỹ – EU, vì đòi hỏi này đã được đặt trong nhu cầu chiến lược mới, “làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại”.
Xét từ ba lĩnh vực tác động trực tiếp đến sự phát triển của quan hệ Mỹ – Âu nói trên có thể dự báo quan hệ hai bên dưới thời Trump 2.0 vẫn tiếp tục trong tình trạng chia rẽ và tình trạng này không thể giải quyết một sớm một chiều, càng làm cho châu Âu khó đi đến “tự chủ chiến lược” hơn trước một nước Mỹ có một Tổng thống uy quyền hơn.
(ii) Quan hệ Mỹ với Đông Bắc Á:
Tình hình Đông Bắc Á đang có những diễn biến nhanh, mới, phức tạp, đặt ra nhiều thách thức mới đối với chính quyền Trump 2.0: Bình Nhưỡng sửa đổi Hiến pháp, định vị Hàn Quốc là “quốc gia thù địch”, quan hệ Hàn – Triều căng thẳng hơn bao giờ hết, Triều Tiên cấp tập diễn tập quân sự và nâng cấp vũ khí, đặc biệt là tên lửa đạn đạo và phát triển vũ khí hạt nhân; Nga – Triều nâng cấp quan hệ lên đối tác chiến lược toàn diện, mang tính “đồng minh quân sự” trên thực tế, trực tiếp liên quan đến cuộc chiến Nga – Ukraine; quan hệ Trung – Triều được củng cố và người ta bắt đầu nhìn thấy bóng dáng của liên minh Trung – Nga – Triều tại bán đảo Triều Tiên; sự nâng cấp quan hệ đồng minh Mỹ – Nhật và củng cố quan hệ tam giác Mỹ – Nhật – Hàn, bên cạnh đó là xu hướng đi tới khu vực mậu dịch tự do Trung – Nhật – Hàn cũng đặt ra nhiều vấn đề mới cho Trump trong 4 năm tới. Bán đảo Triều Tiên trở thành tiêu điểm của cạnh tranh nước lớn, của đối đầu Đông – Tây, của “vừa cạnh tranh vừa hợp tác” Bắc – Nam; không chỉ ảnh hưởng đến khu vực Đông Bắc Á mà còn tác động đến cục diện toàn cầu. Trong bối cảnh đó, bán đảo Triều Tiên liệu có thể trở thành bãi chiến trường mới mà bên tham chiến không chỉ là hai miền Triều Tiên, còn bao gồm cả Mỹ, Nga, thậm chí cả Trung Quốc? Và như vậy, Trump 2.0 làm thế nào để thực hiện “làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại” ngay tại cửa ngõ của Trung Quốc? Đây vừa là sự lựa chọn chiến lược, vừa là nghệ thuật vận dụng sách lược của Donald Trump, không hề dễ dàng. Tất nhiên việc Trump 2.0 gia tăng can dự vào Đông Bắc Á sẽ tạo ra những thách thức mới cho Trung Quốc, trước hết là về mặt chiến lược, đồng minh chiến lược Mỹ – Nhật – Hàn được mở rộng tại “sân nhà” Trung Quốc, an ninh khu vực bị đe dọa, tham vọng thiết lập khu vực mậu dịch tự do Trung Quốc – Nhật – Hàn mà Trung Quốc đang theo đuổi sẽ trở nên vô vọng.
(iii) Quan hệ Trump 2.0 với Trung Quốc:
Thành phần nội các Trump 2.0 phần đông có quan điểm cứng rắn với Trung Quốc, nhất là ở ba vị trí then chốt: Ngoại trưởng, Cố vấn ANQG và Giám đốc CIA:
– Ngoại trưởng Marco Rubio, 53 tuổi, Thượng nghị sĩ bang Florida, sẽ là người gốc Latinh (gốc Cuba) đầu tiên giữ chức Ngoại trưởng Mỹ. Rubio thuộc phái diều hâu, đã từng ủng hộ Mỹ tấn công Iraq, trừng phạt Iran, đứng về phía Israel trong xung đột với Palestine. Gần đây Rubio thể hiện thái độ “diều hâu cực đoan” đối với Trung Quốc, bao trùm trên các lĩnh vực tài chính, mậu dịch, nhân quyền, cho rằng Trung Quốc trỗi dậy uy hiếp địa vị của Mỹ. Năm 2021, tại Quốc hội, Rubio đề xướng việc cấm các doanh nghiệp Trung Quốc lên sàn giao dịch chứng khoán Mỹ vì lý do an ninh quốc gia; can thiệp vấn đề nhân quyền ở Trung Quốc, kêu gọi ngăn chặn các sản phẩm nhập khẩu từ Tân Cương vì lý do nhân quyền, phê phán chính phủ Mỹ cho phép Trung Quốc gia nhập WTO; cho rằng Ngoại giao Trung Quốc và “dự án thế kỷ BRI” đang đe dọa vai trò bá quyền của Mỹ. Tháng 11/2024 Rubio viết trên Tạp chí “Nhà kinh tế” cho rằng, Mỹ nên sớm kết thúc chiến tranh Nga – Ukraine và chiến tranh Trung Đông, chuyển mục tiêu chiến lược sang đối phó với Trung Quốc. Rubio đã hai lần bị Trung Quốc cấm nhập cảnh.
– Cố vấn ANQG Mike Waltz, 50 tuổi, là Hạ Nghị sĩ bang Florida. Waltz và Rubio là những đại diện của phái diều hâu đối với Trung Quốc trong đảng Cộng hòa, đều cho Trung Quốc là mối “uy hiếp sống” (existential threat). Năm 2020, với tư cách là thành viên của Tiểu Tổ đặc biệt về Trung Quốc của Hạ viện, Waltz đã công bố “Báo cáo của Tổ công tác Trung Quốc” (China task Force) dài hơn 140 trang, chỉ trích Trung Quốc trên các lĩnh vực hình thái ý thức, chuỗi cung ứng, an ninh quốc gia, khoa học kỹ thuật, kinh tế năng lượng… kiến nghị đình chỉ kế hoạch đầu tư của Cục Dự trữ liên bang đối với Trung Quốc và Nga, ủng hộ thiết lập quan hệ tốt đẹp với các đồng minh châu Á để kiềm chế Trung Quốc. Waltz đóng vai trò dẫn đầu trong việc bảo trợ cho đạo luật nhằm giảm sự phụ thuộc của Mỹ vào khoáng sản có nguồn gốc từ Trung Quốc. Ông đã chỉ trích các hoạt động của Trung Quốc ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương, thậm chí lên tiếng về việc Mỹ phải chuẩn bị sẵn sàng cho một cuộc xung đột tiềm tàng trong khu vực xuất phát từ Trung Quốc.
– Giám đốc Cơ quan Tình báo Trung ương (CIA) John Ratcliffe, 59 tuổi, Hạ nghị sĩ bang Texaz, từng là Tổng Giám đốc Tình báo Quốc gia của Chính phủ Trump 1, hiện là Chủ tịch liên tịch Trung tâm An ninh Mỹ thuộc Sở Nghiên cứu chính sách “Ưu tiên nước Mỹ”; cũng thuộc phái “diều hâu” với Trung Quốc; đã từng viết trên “Nhật báo phố Wall”: Trung Quốc là “mối uy hiếp lớn nhất của Mỹ, cũng là mối uy hiếp lớn nhất của dân chủ và tự do của toàn thế giới kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai”.
Ngoài ra, không thể không nhắc tới quan điểm cứng rắn đối với Trung Quốc của Phó Tổng thống đắc cử JD Vance, Đại diện Thương mại Mỹ Jamieson, nhiều thành viên nội các được đề cử khác đều chỉ trích Trung Quốc về vấn đề dân chủ nhân quyền, bất công bằng trong các hoạt động thương mại, có những “hành vi cưỡng bức” tại eo biển Đài Loan, biển Đông và biển Hoa Đông…
Các quan điểm cứng rắn của các thành viện nội các nói trên sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến quyết sách của Trump đối với Trung Quốc nhưng bên cạnh đó, trong nội các Trump 2.0 cũng có những thành viên có quan hệ “lợi ích tương quan” với Trung Quốc, có thể có ảnh hưởng đến chính sách của Trump đối với Trung Quốc theo hướng ít cực đoan hơn, trung dung hơn:
– Bộ trưởng Thương mại Howard Lutnick vẫn tiếp tục thu lợi từ hai công ty làm ăn với Trung Quốc: Công ty dịch vụ tài chính do Lutnick lãnh đạo, được thành lập với hình thức chung vốn giữa tập đoàn BGC với công ty quốc hữu “Trung thành tín thác” có trụ sở tại Bắc Kinh, và công ty Cantor Fitzgerald thường hợp tác với các công ty Trung Quốc lên sàn chứng khoán tại Mỹ. Người ta hoài nghi những “lợi ích riêng tư” này sẽ ảnh hưởng đến thái độ của Bộ trưởng Thương mại Lutnick đối với Trung Quốc.
– Tỉ phú Bộ trưởng Bộ “Hiệu suất Chính phủ” Elon Musk càng có quy mô “làm ăn” và lợi nhuận “khủng” hơn với Trung Quốc, đặc biệt là trên lĩnh vực sản xuất ô tô điện. Năm 2019, Musk được Chính phủ Trung Quốc cấp phép xây dựng nhà máy sản xuất ô tô điện Tesla lớn nhất tại Thượng Hải, năm 2020 nhà máy này đã sản xuất một khối lượng sản phẩm ô tô điện Tesla chiếm trên ½ tổng sản phẩm ô tô Tesla trên toàn cầu; Musk giàu lên nhanh chóng, đồng thời Musk cũng đã giúp ngành sản xuất ô tô điện của Trung Quốc phát triển nhanh chóng. Quá trình làm ăn tại Thượng Hải đã giúp Musk có quan hệ gần gũi với Lý Cường (lúc đó đang là Bí thư Thành ủy Thượng Hải, nay là Thủ tướng Trung Quốc) . Mặt khác, Công ty Space X của Musk đã ký với Lầu Năm góc Mỹ một hợp đồng có lợi nhuận cao, bao gồm cả các hoạt động nghiệp vụ tại Trung Quốc, thông qua chuỗi mạng vệ tinh, có thể khống chế hầu như toàn bộ mạng thông tin vệ tinh toàn cầu, Trung Quốc có thể lợi dụng hệ thống này cho tuyên truyền đối ngoại của mình. Nay Musk trở thành thành viên được trọng dụng của Nội các Trump 2.0, Musk có thể càng có vai trò mà cả Mỹ và Trung Quốc đều cần đến. Trên một số vấn đề chính trị chiến lược nhạy cảm, lập trường của Musk là có lợi cho Trung Quốc: Biện hộ cho việc tại sao Trung Quốc phải khống chế Đài Loan, Musk còn cho rằng cần xem xét “tính hợp lý” trong việc Trung Quốc trấn áp người Duy Ngô Nhĩ tại Tân Cương… Chắc chắn Musk không muốn quan hệ Mỹ – Trung trở nên xung đột, càng không muốn chiến tranh thương mại nổ ra giữa hai bên có thể làm tổn hại đến lợi ích vốn có của mình tại thị trường Trung Quốc. Musk sẽ tận dụng ảnh hưởng của mình về cả hai phía Mỹ và Trung Quốc để “tối đa hóa” lợi ích cá nhân. Trump sẵn sàng giành vị trí xứng đáng cho Musk trong tiếp xúc đối thoại cấp cao với Trung Quốc và bản thân Musk dường như cũng đã sẵn sàng cho vai trò này. Bởi vậy, sẽ chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi Musk sẽ trở thành nhân vật cầu nối quan hệ giữa Trump 2.0 với Trung Quốc, trở thành trung tâm của sự điều chỉnh chính sách của Trump đối với Trung Quốc theo hướng trung dung hơn, tăng cường quản lý cạnh tranh, không để cạnh tranh biến thành xung đột.
Với Trump 2.0, quan hệ Trung – Mỹ sẽ đi về đâu?
Trong tranh cử, Trump và ekip của ông đưa ra rất nhiều cảnh báo mang tính trừng phạt với Trung Quốc: Gia tăng quan thuế lên 60%, thực hiện “thoát ly chiến lược” với Trung Quốc, hủy bỏ địa vị tối huệ quốc mậu dịch của Trung Quốc, từng bước hủy bỏ việc nhập khẩu tất cả các nhu yếu phẩm từ Trung Quốc, thông qua các biện pháp có hiệu lực để đảm bảo Trung Quốc không thể thông qua nước thứ ba để lách luật, xuất khẩu sang Mỹ… Trên lĩnh vực đầu tư: cấm các công ty công nghệ lõi của Mỹ đầu tư tại Trung Quốc, cấm Trung Quốc mua lại các công ty Mỹ và đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng tại Mỹ, cấm Trung Quốc đầu tư ô tô năng lượng mới tại Mỹ. Về lĩnh vực nhân tài, hạn chế cấp visa công tác cho các nhân tài khoa học kỹ thuật, tiếp tục các biện phạp hạn chế Trung Quốc phát triển khoa học công nghệ, giao lưu nhân tài: điều tra nguồn vốn nghiên cứu tại các trường Đại học, cao đẳng. Trên lĩnh vực địa chính trị: can thiệp chủ quyền, gia tăng áp lực về vấn đề Đài loan, tranh chấp biển; tăng cường quan hệ với các đồng minh châu Á (Nhật, Hàn, Úc…), phối hợp kiềm chế Trung Quốc phát triển…
Nhưng liệu Trump có hoàn toàn xử lý các vấn đề về Trung Quốc như những cảnh báo đó không, còn phải xem xét từ nhiều yếu tố. Trước hết nó có thật sự phục vụ cho mục tiêu cao nhất, tập trung nhất của Trump 2.0 là “Làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại” hay không. Trong bối cảnh hiện nay, việc Mỹ có “vĩ đại trở lại hay không” phụ thuộc một phần không nhỏ vào phương hướng phát triển quan hệ Mỹ – Trung. Khách quan mà nói, trong cạnh tranh Trung – Mỹ hiện nay, ưu thế chiến lược đang thuộc về phía Trung Quốc và xem ra ưu thế này ngày càng được khẳng định. Mỹ đang bị ràng buộc trực tiếp vào cuộc chiến Nga – Ukraine, vào chiến tranh Trung Đông, tốn tiền của, hao cân não mà không nắm chắc phần thắng. Trong khi thực lực tổng hợp của Mỹ đang ở vào giai đoạn suy yếu tương đối, lực bất tòng tâm, thì thực lực của Trung Quốc vẫn không ngừng được củng cố, không gian lựa chọn chiến lược ngày càng được mở rộng. Ưu thế chiến lược này của Trung Quốc càng được củng cố, sức mạnh của Trung Quốc để ứng phó với các loại biện pháp trừng phạt của Mỹ cũng sẽ càng được gia tăng. Trên thực tế, các đòn trừng phạt của Mỹ, kể cả cuộc chiến thương mại do Trump 1.0 phát động không chỉ gây tổn thất cho phía Trung Quốc mà cũng gây tổn thất lớn cho Mỹ. Nếu Trump 2.0 thực hiện trưng thuế lên 60% vào hàng nhập khẩu của Trung Quốc vào Mỹ thì kim ngạch mậu dịch Trung – Mỹ có thể sẽ tụt xuống vào con số “0” và bên không thể chịu đựng nổi tình trạng này chính là Mỹ chứ không phải là Trung Quốc (sự khan hiếm hàng hóa trên thị trường, giá cả đội cao, lạm phát trỗi dậy…). Đó là chưa kể đến các biện pháp trả đũa của Trung Quốc. Trung Quốc có kinh nghiệm đối phó với cuộc chiến thương mại của Trump 2018, thực lực Trung Quốc lại được nâng cao, thị trường “siêu lớn” của Trung Quốc càng được mở rộng và trên hết, Trung Quốc đã sẵn sàng cho mọi kịch bản đáp trả, mặc dù Trung Quốc không muốn điều này xảy ra. Trung Quốc hoàn toàn có khả năng tiến hành việc quản chế xuất khẩu sang Mỹ các nguyên liệu quý hiếm lưỡng dụng vô cùng cần thiết cho ngành công nghệ cao và sản xuất quốc phòng bao gồm Vonfram (W), Magie (Mg), Titan (Ti), hợp kim nhôm và graphit (than chì); Trung Quốc là nước chủ đạo sản xuất và cung ứng các loại nguyên liệu không thể thiếu này, nếu Trung Quốc hạn chế xuất khẩu sang Mỹ, Mỹ sẽ rất khó tìm kiếm nguồn thay thế trong thời gian ngắn.
Bên cạnh những lợi thế trong quan hệ trực tiếp với Mỹ, Trung Quốc còn có một mạng lưới quan hệ đối tác rộng rãi trên toàn cầu, Trung Quốc là đối tác thương mại lớn nhất của trên 140 nền kinh tế trên thế giới, trong đó hầu như toàn bộ các nền kinh tế chủ yếu của thế giới, bao gồm cả các đồng minh và đối tác chủ yếu của Mỹ. Ngay cả nội bộ Mỹ, không ít doanh nghiệp Mỹ đã phản tỉnh qua thực tiễn đối đầu thương mại Mỹ – Trung kể từ chiến tranh thương mại 2018, họ không muốn rời bỏ thị trường Trung Quốc, không muốn đoạn tuyệt với một thị trường 1,4 tỉ dân mà ở đó, họ vẫn kiếm được nhiều lợi nhuận hơn các nơi khác trên thế giới.
Từ sau cuộc gặp nguyên thủ Trung – Mỹ tại San Francisco tháng 11/2023, quan hệ căng thẳng giữa chính quyền Biden với Trung Quốc rõ ràng đang dịu dần. Gần đây cả hai phía đều tỏ mong muốn tiếp tục xu hướng này, kể cả sau khi Biden rời Nhà Trắng.
Gần đây nhất, trong cuộc họp báo đầu tiên sau thắng cử tại Mar-a-Lago ngày 16/12/2024, Trump tuyên bố “Trung – Mỹ có thể cùng nhau giải quyết mọi vấn đề của thế giới”, Trump còn nhấn mạnh đó là “vấn đề rất quan trọng”. Trước đó, Hội nghị Tổ công tác Kinh tế Trung – Mỹ lần thứ 7 (12/12) và Hội nghị Tổ công tác Tài chính Trung – Mỹ lần thứ 7 (15/12) đã họp, hai bên đã ký ”Hiệp định hợp tác khoa học kỹ thuật trung, dài hạn Trung – Mỹ”. Hai Tổ công tác này đã được thành lập do “nhận thức chung” từ cuộc gặp nguyên thủ hai nước Trung – Mỹ tại San Francisco tháng 10/2023. Chỉ trong vòng 1 năm, từ tháng 10/2023 đến tháng 10/2024, mỗi Tổ công tác này đã tiến hành 6 kỳ họp, trung bình 2 tháng họp một lần. Mật độ dày đặc của các kỳ họp này cho thấy hai bên đều hiểu rõ tầm quan trọng của việc duy trì tiếp xúc và giữa hai bên vẫn còn một khối lượng công việc rất lớn phải bàn. Hơn nữa các cuộc tiếp xúc này đều diễn ra vào thời điểm sắp chuyển giao quyền lực từ Biden sang Trump, cả hai bên đều muốn thể hiện tính liên tục của quá trình đi đến hòa dịu.
Từ thiết lập quan hệ Trung – Mỹ (1979) đến nay, quan hệ hai nước cơ bản đã trải qua ba thời kỳ: “Hợp tác cùng có lợi (1979 – 2000); “Vừa cạnh tranh vừa hợp tác” (2000 – 2008) và “Kiềm chế chiến lược” (từ 2008 đến nay). Quan hệ giữa Trump 2.0 với Trung Quốc hiện nay dù có thay đổi gì chăng nữa, cơ bản vẫn nằm trong khuôn khổ giai đoạn “kiềm chế chiến lược”. Tuy nhiên, “kiềm chế chiến lược” của Mỹ với Trung Quốc thời kỳ Trump 2.0 được thực hiện với những thay đổi từ cả hai phía trên hai lĩnh vực then chốt: tư duy chiến lược và khả năng hành động. Về tư duy chiến lược, cả Mỹ và Trung Quốc hình như đã từ bỏ tham vọng “thôn tính” đối phương, vì cả hai bên, không bên nào có đủ khả năng làm điều này, đều chấp nhận cùng tồn tại trong cạnh tranh, tăng cường quản lý cạnh tranh, không để bất đồng dẫn đến xung đột, tiến tới thiết lập một trật tự nước lớn kiểu mới “tôn trọng lẫn nhau, chung sống hòa bình và hợp tác cùng có lợi”. Về khả năng hành động, tùy thuộc vào sự thay đổi tương quan lực lượng giữa Mỹ và Trung Quốc, giữa phương Tây và phương Đông mà những thay đổi này đang ngày càng có lợi cho Trung Quốc. Với tư cách là hai cường quốc hàng đầu, hai nền kinh tế lớn nhất nhì toàn cầu, hai nước Trung – Mỹ cần ý thức đầy đủ về sự thay đổi của thế giới, xây dựng cặp quan hệ quan trọng nhất này không chỉ vì lợi ích của hai nước mà còn vì trách nhiệm và nghĩa vụ đối với nhân loại.
“Kiềm chế chiến lược” Mỹ – Trung thời đại Trump 2.0 không thể là “một mất, một còn”. Nước Mỹ dưới thời Trump 2.0 có thể mạnh hơn, có uy quyền hơn nhưng muốn để cho nước Mỹ “vĩ đại trở lại”, Donald Trump không thể không tìm cách phát triển quan hệ lành mạnh với Trung Quốc, không để cho chiến lược “kiềm chế Trung Quốc” đối lập với tiến trình “làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại”.■