
Các hồ sơ giải mật cho thấy cơ quan tuyên truyền của Bộ Ngoại giao Anh, Cục Nghiên cứu Thông tin (IRD), đã bí mật thông đồng với Washington trong cuộc chiến tàn khốc của Mỹ ở Việt Nam.
Bộ Ngoại giao Anh đã cung cấp hỗ trợ tuyên truyền quan trọng cho Hoa Kỳ trong suốt cuộc chiến ở Việt Nam, chủ yếu thông qua cơ quan tuyên truyền Chiến tranh Lạnh của mình, Cục Nghiên cứu Thông tin (IRD).
|
Trong suốt những năm 1960, IRD đã giúp chế độ Nam Việt Nam do Hoa Kỳ hậu thuẫn thành lập cơ quan tuyên truyền của riêng mình và tẩy trắng hình ảnh của Washington về cuộc đổ máu dân thường.
Nó cũng phân phát tài liệu cho hàng trăm nhân vật chính trị và truyền thông Anh để làm trong sạch hóa những hành động tàn bạo của Hoa Kỳ và khiến công chúng Anh bớt chỉ trích cuộc chiến.
Đáng chú ý, Anh thậm chí còn đề nghị cung cấp cho Hoa Kỳ sự hỗ trợ “đặc biệt” trong sự kiện Vịnh Bắc Bộ khét tiếng năm 1964 mà Washington đã sử dụng để leo thang chiến tranh ở Việt Nam một cách hung hăng bất chấp.
Anh không chỉ quan tâm đến việc lấy lòng trong cái gọi là “mối quan hệ đặc biệt”. Giống như Hoa Kỳ, Anh muốn kiềm chế một phong trào dân tộc chủ nghĩa cấp tiến ở Việt Nam, phong trào này đe dọa sẽ trở thành tấm gương về sự phát triển độc lập thành công ở Đông Nam Á.
Những tài liệu này cho thấy Anh đã sẵn sàng làm đến mức nào để ủng hộ cuộc chiến của Washington, dẫn đến cái chết của hai đến ba triệu người.
“Mục tiêu khẩn cấp”
Vào tháng 9/1961, một Phái đoàn cố vấn Anh (BRIAM) đã đến Sài Gòn “để đưa ra lời khuyên cho Chính phủ Việt Nam Cộng hòa về cách giải quyết vấn đề tiêu diệt mối đe dọa của Cộng sản”.
Một trọng tâm trong lời khuyên của Anh sẽ thuộc về lĩnh vực tuyên truyền.
Vào tháng 12/1961, Đại sứ Anh tại Sài Gòn nhận định rằng nhà lãnh đạo Nam Việt Nam Ngô Đình Diệm cần cải thiện “dịch vụ thông tin” của chế độ không được lòng dân của mình, nhưng cải cách dân chủ là điều không thể.
Theo người đứng đầu BRIAM, Robert Thompson, “nhiều người đã nói đến thực tế là chính quyền không dân chủ, nhưng dân chủ không hiệu quả ở tất cả các quốc gia và không thể có tác dụng ở Nam Việt Nam trong hoàn cảnh hiện tại”.
Nói cách khác, con rối của Washington khó có thể giành chiến thắng trong một cuộc bầu cử công bằng, và vì vậy dân chủ phải bị kìm hãm.
Do đó, đầu ra của IRD tại Việt Nam cần được “tăng cường”. Một quan chức Đại sứ quán Anh tại Sài Gòn, thủ đô ở miền Nam, đã viết: “Thực tế là Việt Nam hiện phải được coi là mục tiêu khẩn cấp [đối với IRD]”.
Mục tiêu tuyên truyền ban đầu của Anh là “đánh vào người nông dân trên đồng lúa”, “giúp xây dựng lòng trung thành trong số các quan chức chính phủ bằng cách tạo điều kiện thuận lợi cho họ” và “đảm bảo người dân được thông báo về những gì đang diễn ra ở Hà Nội”, thủ đô của Bắc Việt Nam.
Để đạt được mục đích này, Bộ Ngoại giao Anh đã bắt tay vào việc giúp chế độ Nam Việt Nam “thành lập một Văn phòng Trung ương để nghiên cứu, phân tích và vạch trần các chiến thuật của Cộng sản” – một bản sao của IRD.
Giám đốc IRD Donald Hopson cảm thấy ý tưởng “giúp người Việt Nam thành lập IRD của riêng họ” là “một lưu ý đáng khích lệ”, và do đó, Bộ Ngoại giao “hoàn toàn chấp thuận kế hoạch này”.
Những cuộc thảo luận này được tiếp nối bằng các chuyến thăm của các nhân vật chính trị Nam Việt Nam tới IRD ở London.
Tẩy trắng một người hâm mộ Hitler
Sau khi Diệm bị lật đổ trong một cuộc đảo chính do Hoa Kỳ hậu thuẫn vào tháng 11/1963, IRD tiếp tục “tư vấn cho chính quyền Việt Nam Cộng hòa về các hoạt động chống Cộng của họ”. Cơ quan này cũng “tóm tắt cho các phóng viên nước ngoài và những người khác về tình hình Bắc Việt Nam và Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam”.
Đến tháng 6/1965, một sĩ quan quân đội tên là Nguyễn Cao Kỳ đã được bổ nhiệm làm Thủ tướng Nam Việt Nam. Một tháng sau, Kỳ trả lời tờ Sunday Mirror của London: “Mọi người hỏi anh hùng của tôi là ai. Tôi chỉ có một: Hitler”. Ông nói thêm rằng: “Chúng ta cần 4 hoặc 5 Hitler ở Việt Nam”.
Tuyên bố của Kỳ đã gây ra tranh cãi có thể đoán trước được và làm tổn hại đến kịch bản tuyên truyền của Hoa Kỳ và Anh rằng cuộc chiến ở Việt Nam là một trong những cuộc chiến của “thế giới tự do” chống lại chủ nghĩa toàn trị. Đã có những lời kêu gọi được đưa ra tại Nghị viện Anh để hủy công nhận chính quyền Nam Việt Nam.
Bị tổn thương bởi vụ bê bối, Bộ Ngoại giao Anh bắt đầu làm sạch hình ảnh hâm mộ Hitler của Kỳ.
Vào ngày 25/1/1966, một quan chức IRD đã viết thư cho Đại sứ quán Anh tại Sài Gòn rằng “chúng tôi muốn nhận được thông tin chi tiết về tội ác của Việt Cộng và các hoạt động tích cực của người Mỹ – chẳng hạn như cung cấp các cơ sở y tế hoặc giáo dục – và tài liệu hỗ trợ cho việc đưa ra một hình ảnh tốt hơn về Kỳ so với hình ảnh xưa nay về một kẻ sùng bái Hitler mang súng lục”.
Quan chức này nói thêm: “Tôi hầu như không cần phải nói rằng các tài liệu này càng bám sát các sự kiện thì càng tốt, và những tài liệu mà người Mỹ chưa khai thác, nếu có, sẽ đặc biệt hữu ích”.
Herbert Lancashire, Thư ký Thứ nhất của Đại sứ quán Anh tại Sài Gòn, đã trả lời rằng “chúng tôi sẽ hỏi… Richard Morris, phóng viên ngoại giao của tờ Times, người sẽ có mặt ở đây trong bốn ngày, liệu tờ báo của ông ta có đồng ý đăng tiểu sử về Kỳ mà bài viết đó có thể sẽ vẽ nên một bức tranh khác không”.
Cuối cùng, vấn đề về Kỳ không thể “được nêu ra” trong cuộc họp với Morris, và kế hoạch của Anh nhằm tẩy trắng một người hâm mộ Hitler đã phải dừng lại.
“Của trời cho” đối với Washington
IRD cũng trực tiếp hỗ trợ các chiến dịch tuyên truyền của Washington. Theo quan điểm của một quan chức Bộ Ngoại giao Anh, “thất bại của người Việt Nam và người Mỹ sẽ là thảm họa cho Thế giới Tự do và sẽ không kết thúc ở đó”. Vì vậy, Anh “phải tiếp tục hỗ trợ những gì chúng ta có thể, tốt nhất có thể”.
Vào tháng 4/1962, IRD đã đồng ý với yêu cầu của Cơ quan Thông tin Hoa Kỳ, nơi thúc đẩy các hoạt động truyền thông của Chính phủ, để sản xuất “khoảng mười lăm kịch bản dài 15 phút mô tả ấn tượng của một nhóm… người tị nạn đã rời khỏi miền Bắc trong 12 tháng qua”.
Ý tưởng là miêu tả các điều kiện ở miền Bắc cộng sản kém hơn nhiều so với miền Nam, và các kịch bản đã được giao cho các sĩ quan Nam Việt Nam am hiểu về chiến tranh tâm lý.
Đầu mối của Anh cho kế hoạch này là Thiếu tá Phạm Xuân Ninh, Giám đốc Đài Phát thanh Quốc gia tại Sài Gòn, người đã đến London để tham gia khóa đào tạo tuyên truyền vào tháng 9/1961. Hoa Kỳ về sau đã nói với một quan chức IRD rằng “nguồn lực của người đầu mối của anh ở Sài Gòn đúng là của trời cho”.
Sự kiện Vịnh Bắc Bộ
Vào ngày 02/8/1964, tàu khu trục USS Maddox đã bị tàu phóng ngư lôi của Bắc Việt tấn công ở Vịnh Bắc Bộ. Mặc dù Hoa Kỳ tuyên bố rằng cuộc tấn công này là vô cớ, nhưng trên thực tế, nó được thúc đẩy bởi các cuộc tấn công bí mật của Hoa Kỳ nhằm vào lực lượng Bắc Việt.
Hai ngày sau, Washington tuyên bố rằng các tàu của Hoa Kỳ một lần nữa bị tấn công ở Vịnh Bắc Bộ. Đây là lời nói dối dựa trên thông tin tình báo sai lệch, nhưng nó đã đem lại cho Hoa Kỳ một lý do chính đáng để leo thang chiến tranh một cách mạnh mẽ.
Vào ngày 10 tháng 8, Tổng thống Hoa Kỳ Lyndon B. Johnson đã được Quốc hội cho phép “thực hiện bất kỳ biện pháp nào mà ông tin là cần thiết để trả đũa” Bắc Việt Nam, tạo cơ sở pháp lý cho việc Washington tiếp tục cuộc chiến trong tương lai.
Đáng chú ý, Anh đã đề nghị cung cấp hỗ trợ “đặc biệt” cho Hoa Kỳ trong sự kiện Vịnh Bắc Bộ.
Như một quan chức IRD đã ghi lại trong thư từ mật, “vào đầu cuộc khủng hoảng Vịnh Bắc Bộ gần đây, tôi đã nói chuyện với ông Wilt tại Đại sứ quán Hoa Kỳ và hỏi liệu chúng tôi có thể làm gì đặc biệt để giúp đỡ không”.
Wilt “rất trân trọng” lời đề nghị này nhưng cho biết chính phủ Hoa Kỳ vào thời điểm đó “rất hài lòng với cách câu chuyện đang tự diễn ra”.
Cải thiện hình ảnh đẫm máu của Washington
Trong những năm tiếp theo, khi Hoa Kỳ đã dấn sâu vào cuộc chiến, sự hỗ trợ tuyên truyền của Anh vẫn được duy trì.
Năm 1966, khi Hoa Kỳ triển khai chiến dịch Sấm Rền – một chiến dịch ném bom ồ ạt và bừa bãi – các ghi chú của Bộ Ngoại giao Anh cho thấy chính sách của IRD “là giúp cải thiện hình ảnh của Hoa Kỳ về những hành động gây đổ máu ở Việt Nam”.
Theo ước tính của Hoa Kỳ, 182.000 dân thường ở Bắc Việt đã thiệt mạng trong Chiến dịch Sấm Rền, mặc dù con số thực tế chắc chắn cao hơn nhiều.
Các viên chức IRD biện minh cho điều này trên cơ sở rằng “không có lời hứa nào về một cuộc sống tốt đẹp cho người dân Nam Việt Nam nếu Mỹ rút quân”.
Vài năm sau khi chiến tranh kết thúc, một cựu sĩ quan CIA, Frank Snepp, thừa nhận rằng khi ông cố gắng đưa thông tin sai lệch về Việt Nam lên phương tiện truyền thông Hoa Kỳ, ông sẽ “đến gặp Đại sứ Anh và tóm tắt thông tin sai lệch mà tôi vừa đưa cho một phóng viên. Vì vậy, khi một phóng viên muốn kiểm tra chéo những gì tôi đã nói với anh ta với… Đại sứ Anh… anh ta cũng sẽ nhận được cùng một thông điệp – cùng một thông tin sai lệch”.
Tuyên truyền trong nước
Bên cạnh việc hỗ trợ nỗ lực tuyên truyền của Nam Việt Nam và Hoa Kỳ, IRD cũng đã nỗ lực đáng kể để quảng bá tài liệu của mình tới công chúng Anh.
Vào giữa những năm 1960, có một thực tế đáng thất vọng rằng “Hoa Kỳ và chính quyền Nam Việt Nam dường như bị phản ánh tiêu cực hơn trên báo chí ở Anh so với hầu hết các quốc gia phương Tây khác”. Một quan chức còn nói thêm rằng Hoa Kỳ đang “mất đi sự đồng cảm” tại Anh, và “một phần sự phẫn nộ đó cũng đang ảnh hưởng đến chính phủ Anh”.
Một quan chức đại sứ quán Anh tại Sài Gòn đã viết rằng cần có “một nỗ lực truyền thông lớn hơn trong nước để hỗ trợ cho cuộc chiến của Hoa Kỳ”, kêu gọi các đề xuất về “những cách khả thi để cải thiện sản phẩm thông tin của IRD phục vụ… tiêu thụ trong nước”.
Đến đầu năm 1966, IRD đã “tăng số lượng và phạm vi truyền bá các sản phẩm thông tin về Việt Nam… đặc biệt là ở Anh”. Tài liệu viết riêng về Việt Nam đã được gửi đến hơn 250 địa chỉ liên lạc ở Anh, bao gồm 61 nghị sĩ, 56 nhà báo và nhà bình luận, 13 thành viên của BBC và 22 học giả.
Những tờ báo “đón nhận” các tài liệu này tích cực nhất bao gồm Daily Telegraph, Sunday Telegraph, Sunday Times, Times, Economist và Spectator.
Rõ ràng các tài liệu này nhằm mục đích củng cố sự đồng cảm của công chúng Anh đối với nỗ lực chiến tranh, và giúp Hoa Kỳ bớt bị quy trách nhiệm về mức độ thương vong dân thường nghiêm trọng ở Việt Nam.
Trong thời gian này, IRD cũng tìm cách gửi các phái đoàn chính trị gia và nhà báo Anh đến Việt Nam, hy vọng rằng “những vị khách khi trở về sẽ tin tưởng hơn vào khả năng chiến thắng, hoặc ít nhất là tin vào nhu cầu kiềm chế chủ nghĩa cộng sản, và từ đó có xu hướng ủng hộ lý tưởng của Hoa Kỳ hơn”.
Tài liệu IRD gửi đến Tây Âu cũng được “sử dụng thường xuyên và hiệu quả”, trong khi việc phát tán ở Mỹ Latinh được mô tả là “cao vì nhu cầu lớn đối với tài liệu chống Cộng”.
Sự hỗ trợ tuyên truyền của Anh trong chiến tranh là đáng kể, nhưng rõ ràng đã không hiệu quả như mong muốn – phần lớn công chúng Anh vẫn phản đối gay gắt cuộc xung đột, và cuối cùng Hoa Kỳ buộc phải rút quân khỏi Việt Nam một cách đáng xấu hổ vào năm 1973.■
JOHN McEVOY[1]
Hồng Nhung (dịch)
Chú thích:
[1] John McEvoy là quyền Trưởng ban Điều tra của Declassified UK, một tổ chức truyền thông độc lập chuyên nghiên cứu và đưa tin về vai trò quốc tế và chính sách đối ngoại của Vương quốc Anh. Bản gốc bài viết này được đăng trên trang Declassifieduk.org vào ngày 17/11/2022.