Đô đốc Jauréguiberry và sự chen lấn của Pháp để giành giật Bắc Kỳ, 1879-1883

Ngô Bắc dịch

Nguồn: Kim Munholland, Admiral Jauréguiberry and the French Scramble for Tonkin, 1879-83, French Historical Studies, Spring79, Vol. 11, Issue 1, các trang 81-107

Sự quá vãng của các khảo hướng tập trung vào Âu Châu (Eurocentric) của chủ nghĩa đế quốc đã được ăn mừng một cách rộng rãi bởi các sử gia trong hai mươi lăm năm vừa qua. Bắt đầu với các nỗ lực của Robinson và Gallagher để vượt thoát các mệnh lệnh của chủ nghĩa đế quốc kinh tế, các học giả đã lập luận rằng sự bành trướng của Âu Châu cuối thế kỷ thứ mười chín phát sinh từ một chuỗi các cuộc khủng hoảng tại vùng “ngoại vi” của quyền lợi của Âu Châu tại Á và Phi Châu và rằng các cuộc khủng hoảng này đã lôi kéo các chính khách Âu Châu vào các cuộc chen lấn để giành giựt đất đai hay các khu vực ảnh hưởng nhằm thay thế cho chủ nghĩa đế quốc “không chính thức” của thời đại trước đó.(1) Đã không có sự thay đổi trong chính sách đế quốc, theo sự giải thích này, chỉ có một sự thay đổi trong phương pháp gây ra bởi các sự phát triển không dự liệu được tại thế giới phi-Âu Châu. Bởi việc bắt buộc các sử gia Âu Châu phải cứu xét đến các sự tuyên xác của lịch sử Phi Châu hay Á Châu, khuynh hướng này trong số các sử gia về chủ nghĩa đế quốc đã có một hiệu ứng lành mạnh và toàn cầu trong việc đặt sự bành trướng của Âu Châu vào trong khuôn khổ lịch sử thế giới, hơn là vào lịch sử hạn hẹp của Âu Châu không thôi.

Song, sau khi sự tín nhiệm đã được trao cho các biến cố xảy ra bên ngoài sự kiểm soát của các văn phòng thủ tướng Âu Châu, các sự miễn giảm được dành cho các hành động độc lập của các binh sĩ và đại diện Âu Châu, và sự thừa nhận được dành cho sự phát triển độc lập của các xã hội phi-Âu Châu, vẫn còn một sự ngờ vực giằn vặt rằng những gì diễn ra tại Paris hay London đã có một số tàm quan trọng nào đó trong việc phóng ra sự chen lấn của Âu Châu để giành giật các lãnh thổ hải ngoại vào cuối thế kỷ thứ mười chín, ngay dù các chính sách ít là kết quả của sự tính toán cho bằng sự ứng xử.(2) Gần đây hơn, các sử gia đã khơi dậy các sự thay đổi trong các tư tưởng “chính thức” hay ngay cả “không chính thức” của chủ nghĩa đế quốc tại Pháp hay Đại Anh Cát Lợi nhằm giải thích sự sẵn lòng của các chính phủ này để đầu tư vào các cuộc phiêu lưu hải ngoại.(3) Các quyết định chung cuộc cho sự can thiệp vẫn được đưa ra, hay ít nhất được phê chuẩn, tại Paris và London. Trang bị với sự cẩn trọng chống lại việc giả định rằng một nguyên cảo riêng biệt của Âu Châu đã định hình một kỷ nguyên của chủ nghĩa đế quốc, giờ đây có thể quay trở về từ vùng ngoại vi đến các trung tâm Âu Châu và tái khảo sát các trường hợp nghiên cứu điển hình về cung cách theo đó các chính khách Âu Châu đã đáp ứng với các thực tế đang thay đổi tại các biên cương hải ngoại và đã quyết định về sự can thiệp. Một trường hợp như thế là sự phát triển của chính sách của Pháp đối với Bắc Kỳ giữa các năm 1879 và 1883, thời mà Đô Đốc Jauréguiberry đóng một vai trò quan yếu trong việc giao kết chính phủ Pháp vào tốn phí và các sự may rủi của cuộc chinh phục thuộc địa.

Để đặt vai trò của Jauréguiberry vào phối cảnh, điều cần phải ghi nhận rằng sự chen lấn giành giựt Bắc Kỳ xảy ra trước khi Jules Ferry thành lập chính phủ lần thứ nhì của ông ta hồi đầu mùa xuân 1883. Mặc dù các sử gia thường xác định Ferry như kẻ xúi dục cho sự bành trướng của Pháp vào Bắc Kỳ, ông ta đúng ra là một kẻ thừa kế hơn là tác giả của chính sách của Pháp.(4) Cuộc chiến tranh không tuyên chiến của Ferry với Pháp về Bắc Kỳ có các cội rễ của nó trong các đề xuất giữa các năm 1879 đến 1883 khi Jauréguiberry tại bộ hải quân trở thành kẻ biện hộ hàng đầu cho sự bành trướng trong chính phủ Pháp. Còn hơn cả các đại diện Pháp tại chỗ, Jauréguiberry đã cung cấp một tiếng nói mạnh mẽ nhất tán thành sự can thiệp quân sự tích cực tại Bắc Kỳ. Mặc dù sự chú ý nhiều hơn được dành cho vai trò của Jauréguiberry trong “sự chen lấn giành giựt” của Pháp tại vùng Tây Phi Châu, một khuôn mẫu tương tự cũng được nhận thấy trong trường hợp Bắc Kỳ.(5)

Đô đốc Jaureguiberry (Ảnh: Wikipedia)

Giống y như ở Senegal, Đệ Tam Cộng Hòa thừa kế một di sản thuộc địa từ Đệ Nhị Đế Chính (Second Empire) tại Việt Nam. Dưới thời Napoléon III, hải quân Pháp đã thiết lập một thuộc địa tại Nam Kỳ (Cochinchina) và cưỡng đặt một chế độ bảo hộ lên vương quốc Căm Bốt, chính vì thế đánh dấu một sự hiện diện chính thức của Pháp trên bán đảo Đông Dương sau gần hai thế kỷ quan tâm rất rời rạc vào khu vực. Một khi đã được thiết lập tại Sàigòn, các đô đốc Pháp đã hướng sự chú ý của họ đến Bắc Kỳ, nhưng chiến tranh Pháp-Phổ đã làm gián đoạn các kế hoạch bành trướng tại miền bắc. Các tin tức về các sự thất trận của Pháp tại Âu Châu đã khơi dậy dư luận trong một thời gian ngắn, rằng quân sĩ Pháp có thể triệt thoái ra khỏi các trạm đóng quân của họ tại Á Châu.(6) Các hy vọng như thế chỉ là hão huyền. Thay vào đó, bị thúc giục bởi viên thống đốc chủ trương bành trướng tại Nam Kỳ, Đô Đốc Dupré, chính phủ Pháp đã thực hiện một nỗ lực bị chết yểu để chiếm đoạt Bắc Kỳ trong năm 1873. Một cuộc cãi cọ giữa một thương gia và kẻ buôn súng gốc Pháp, Jean Dupuis, với các viên chức Việt Nam tại Hà Nội đã cung cấp cho Dupré một duyên cớ để can thiệp. Đầu Tháng Mười Một, Dupré phái một toán viễn chinh nhỏ ra Hà Nội dưới sự chỉ huy của Francis Garnier, và viên chỉ huy Pháp đã chiếm giữ một số thành trì then chốt tại châu thổ sông Hồng, kể cả thành Hà Nội. Nhưng sự thành công mau lẹ của Garnier dẫn anh ta đến việc ước lượng thấp sức mạnh của cuộc kháng chiến chống Pháp tại Bắc Kỳ.(7) Khi anh ta nhận được tin tức rằng một lực lượng khá lớn Quân Cờ Đen của Lưu Vĩnh Phúc xuất hiện bên ngoài các cổng thành phố, Garnier hấp tấp dẫn một toán quân nhỏ đánh đuổi Quân Cờ Đen, để rồi bị giết trong vụ giao tranh lẻ tẻ. Các tin tức về sự từ trần của Garnier đưa đên một phản ứng sâu xa tại Paris khi chính phủ ra lệnh cho Dupré phải ký kết một hiệp ước một cách mau chóng trên các điều kiện thuân lợi khả hữu nhất.(8)

Bất kể sự thất bại về quân sự và sự triệu hồi sau đó Đô Đốc Dupré, chính phủ Pháp đã giành được các sự nhượng bộ quan trọng trong bản hiệp ước mà vua Tự Đức đã ký kết với Pháp trong năm 1974. Nhà vua Việt Nam đã thừa nhận sự chiếm hữu của Pháp tất cả sáu tỉnh tại Nam Kỳ, và chính phủ Pháp giành được quyền trú đóng các đại diện lãnh sự và các đội quân biệt phái nhỏ tại Hà Nội, Hải Phòng, và Nam Quon [Quy Nhon?]. Hải quân Pháp có thể phái các tàu vũ trang vào các con sông ở Bắc Kỳ để bảo vệ thương mại, được mở ngỏ cho các nhà mậu dịch Pháp và Âu Châu. Song một chế độ bảo hộ của Pháp chưa được nới rộng ra Bắc Kỳ, mặc dù các viên chức Pháp sau này có lập luận rằng các sự thỏa thuận năm 1874 đã tạo lập một vị thế đặc biệt cho Pháp tại Bắc Kỳ và cũng tuyên bố rằng bất kỳ mối quan hệ triều cống nào giữa Việt Nam và Trung Hoa đều đã bị phế bỏ.

Sư mơ hồ trong các quan hệ của Pháp với Việt Nam về vấn đề Bắc Kỳ đã khơi dậy một cuộc tranh luận giữa các viên chức Pháp sau năm 1874. Người thay thế Đô Đốc Dupré làm thống đốc Nam Kỳ, Đô Đốc Duperré, hoàn toàn lãnh đạm về các lợi nhuận thương mại sẽ giành đoạt được tại Bắc Kỳ, và ông đề nghị sự triệt thoái các lực lượng Pháp để làm an tâm các nhà chức trách Việt Nam rằng Pháp không mong muốn một sự bảo hộ hay một cuộc chinh phục.(9) Chính quyền và dân chúng Việt Nam thù nghịch người Pháp, ông Duperré nhận định, và sẽ luôn luôn gây ra các sự khó khăn cho các đại diện Pháp tại Huế hay Bắc Kỳ. Bởi vì thương mại Âu Châu tại miền bắc ở trên một quy mô nhỏ và bị giới hạn ở Hà Nội và Hải Phòng, Duperré phán đoán rằng triển vọng kinh tế của Bắc Kỳ đã không biện minh được cho các tốn phí của một sự chiếm đóng quân sự. Các nhóm Việt Nam không chính thức, chẳng hạn như Quân Cờ Đen, hay các binh sĩ Trung Hoa chính quy chiếm đóng các khu vực trong nội địa nơi tài nguyên khoáng sản của Bắc Kỳ được cho là tọa lạc, và thương mại trên sông Hồng thì bất trắc đến nỗi an ninh cho hoạt động mậu dịch “sẽ đòi hỏi sự can thiệp tức thời để bình định các tỉnh này” trên một quy mô rộng lớn.(10) Duperré giả định rằng một sự cam kết như thế vượt quá các tài nguyên của chính phủ.

Dù thế, chính phủ Pháp đã không có ý định triệt thoái ra khỏi Bắc Kỳ và dự trù sau rốt sẽ tìm kiếm một sự bảo hộ trọn vẹn, nhưng tạm thời Paris ưa thích duy trì nguyên trạng (status quo) hơn là bất kỳ sự phiêu lưu nào khác nữa tại Á Châu. Tình hình chính trị tại Âu Châu, kể cả sự căng thẳng kinh tế của việc thỏa mãn khoản bồi thường chiến phí cho Đức, buộc phải thận trọng.(11) Trong năm 1877 Quận Công (Duc) Decazes, Bộ Trưởng Ngoại Giao khi đó, đã lo sợ rằng một chế độ bảo hộ được công bố công khai sẽ tạo sự phản kháng của các cường quốc khác và khiêu khích chính phủ Trung Hoa, nước mà ông thú nhận, hãy còn giữ một sự chú ý đến Việt Nam.(12) Song sự triệt thoái bị bác bỏ bởi đây sẽ bị giải thích như một dấu hiệu của sự yếu kém của Pháp tại Á Châu, làm tổn hại uy tín của Pháp, và sẽ bị khai thác bởi các đối thủ của Pháp tại triều đình Việt Nam. Chính vì thế, chính sách của Pháp đối với Bắc Kỳ sau năm 1874 có tính chất thụ động và nhẫn nhục, ít nhất trong tạm thời, để chấp nhận một sự dàn xếp ít thỏa đáng hơn.

Nguyên trạng đã bị đảo lộn vào cuối năm 1878 khi Li Yang-ts’ai [Lý Dương Tài?], một cựu tướng lĩnh của quân đội Trung Hoa, dẫn đầu một nhóm binh sĩ Trung Hoa nổi loạn tiến vào Bắc Kỳ. Li Yang-ts’ai tự mạo xưng là một hậu duệ của triều đại nhà Lê đã bị mất ngôi ở Việt Nam, và nhân danh giòng họ nhà Lê ông ta trương ngọn cờ khởi nghĩa chống lại hoàng triều ở Huế. Lãnh sự Pháp tại Hải Phòng đã báo cáo một cách khích động rằng toàn thể khu vực đang trên bờ một cuộc nổi dậy toàn diện.(13) Các báo cáo sơ khởi từ Bắc Kỳ dẫn dắt bộ hải quân đến việc kết luận rằng một cơ hội đã hiện diện để chấm dứt tình trạng mơ hồ của Pháp tại miền bắc xáo trộn. Nếu chính phủ Việt Nam yêu cầu sự trợ giúp của Pháp để trấn áp cuộc nổi dậy, Đô Đốc Pothuau lập luận, giá phải trả sẽ là sự bảo hộ của Pháp.(14) Trong bất kỳ trường hợp nào, sự xâm nhập của họ Li đã dồn một cuộc khủng hoảng tại vùng ngoại vi của đế quốc Pháp sau hết đến sự can thiệp quân sự của Pháp, mặc dù không phải theo một cung cách mà Đô Đốc Pothuau đã kỳ vọng.

Sự yêu cầu từ Huế về sự trợ giúp của Pháp không bao giờ đến Sàigòn hay Paris. Thay vào đó, chính phủ Việt Nam đã cầu cứu Trung Hoa về sự trợ giúp quân sự để trục xuất viên phản tướng này. Lời thỉnh cầu này buộc các viên chức Pháp phải nhận ra rằng bản hiệp ước 1874 đã không chấm dứt mối quan hệ triều cống cổ truyền giữa Trung Hoa và Việt Nam. Bất kể các sự tuyên xác của Pháp rằng hiệp ước 1874 đã thiết lập “sự độc lập” của Việt Nam ra khỏi bất kỳ cường lực nào khác, chính phủ Pháp đã không phản đối khi vua Tự Đức đã gửi phái bộ triều cống ba năm một lần, theo thông lệ sang Trung Hoa vào năm 1877. Các viên chức Pháp đã liếc xem cử chỉ này như một nghi thức “không có tính cách vi phạm” và từ chối không nhìn nhận tầm quan trọng của nó trong các quan hệ Việt Nam – Trung Hoa.(15) Tuy nhiên, sự triều cống này nhiều hơn một nghi thức, và giờ đây Việt Nam khẩn cầu Trung Hoa đảm nhận các trách nhiệm như một quyền lực bá chủ. Rõ ràng, vua Tự Đức hy vọng sử dụng mối liên hệ của mình với Bắc Kinh để vượt thoát khỏi sự giám hộ của Pháp. Và chính phủ Pháp thừa nhận, bất kể hiệp ước 1874, rằng sự chú ý của Trung Hoa tại Việt Nam vẫn còn tích cực. Một năm trước đó, Decazes đã ghi nhận rằng trong khi chính phủ Trung Hoa có vẻ ít quan tâm đến các hoạt động của Pháp tại Nam Kỳ hay Căm Bốt, một sự hiện diện của Pháp tại Bắc Kỳ đe dọa trực tiếp vùng biên cương phía nam của Trung Hoa.(16)

Chính quyền Trung Hoa đã đáp ứng tức thời trước lời yêu cầu của Việt Nam. Tổng Đốc Lưỡng Quảng (Quảng Tây và Quảng Đông) đã ra lệnh cho các lực lượng vũ trang Trung Hoa chính quy tiền vào diễn trường, và họ đã mau chóng vượt qua biên giới để truy kích Li Yang-ts’ai. Sự can thiệp của Trung Hoa vừa tức thời vừa hữu hiệu. Cuộc “nổi loạn” của Li Yang-ts’ai được chứng tỏ là yểu tử, bởi dân chúng Bắc Kỳ vẫn thờ ơ trước lời kêu gọi của ông ta cho một cuộc khởi nghĩa. Được trợ giúp bởi Quân Cờ Đen của Lưu Vĩnh Phúc, đội quân Trung Hoa chính quy của Tướng Feng Tzu-ts’ai [Phùng Tú Tài?] đã đánh duổi họ Li và các đồ đảng của ông ta trong Tháng Một. Họ Li và một đám nhỏ các đồng minh trung thành chạy vào vùng nội địa của Bắc Kỳ nơi họ tiếp tục bị truy kích bởi các lực lượng Trung Hoa chính quy. Vào cuối năm, Tướng Feng đã bắt được họ Li, kẻ mau chóng bị hành quyết, và Tướng Feng đã cho bêu chiếc đầu bị cắt của viên tướng nổi loạn khắp các làng xã tại Bắc Kỳ như bằng chứng ghê gớm về khả năng của Trung Hoa để đáp ứng lời khẩn cầu của một nước chư hầu. Hành động của Tướng Feng và sự hiện diện tiếp tục của bộ đội Trung Hoa tại Bắc Kỳ không chỉ tái xác nhận mối ràng buộc giữa Việt Nam và Trung Hoa mà còn làm phát lộ ra sự yếu kém của Pháp. Pháp có gửi các toán tăng viện ra Hà Nội trong suốt cuộc khủng hoảng, nhưng họ đứng yên chứng kiến sự đàn áp thành công của Trung Hoa đối với cuộc nổi loạn của Li Yang-ts’ai. Các lãnh sự Pháp tại Hải Phòng và Hà Nội than phiền rằng các viên chức Việt Nam đã không thông báo với họ về sự hợp tác hiện hữu giữa đội quân Trung Hoa và các lực lượng Việt Nam.(17)

Người Pháp đã hay biết đầy đủ về ý nghĩa của sự can thiệp của Trung Hoa theo lời yêu cầu của vua Tự Đức. Như đại diện Pháp tại Huế đã nhận xét, “Việt Nam đã từng là một nước chư hầu trong một thời gian lâu dài của Trung Hoa, “người chị lớn” của họ, và chưa bao giờ không xem cô ta như vị bá chủ của mình”.(18) Hơn nữa, vua Tự Đức có chủ định rõ rằng rằng việc phô diễn sự ủng hộ này của Trung Hoa sẽ được dùng để chống lại Pháp. Được khuyến khích bởi sự ủng hộ tích cực của Trung Hoa tại miền bắc, vua Tự Đức đã yêu cầu chính phủ Pháp triệt thoái thủy quân lục chiến của họ khỏi các hải cảng theo hiệp ước tại Bắc Kỳ và hoàn trả “các tỉnh bị mất” tại Nam Kỳ lại thẩm quyền của ông.(19) Đến mức liên quan tới mối quan hệ giữa Việt Nam và Trung Hoa, cũng như sự hay biết của Pháp về mối quan hệ đó, người ta chỉ còn cách đồng ý với Giáo Sư Ella Laffey là kẻ kết luận, “… Pháp chỉ một ít lý cớ, trong trường hợp Việt Nam, để gọi mối quan hệ triều cống “có tính cách ký danh và giả tưởng” [“nominal et fictive”, tiếng Pháp trong nguyên bản, chú của người dịch] vào một thời điểm khi dưới một sự đe dọa được cảm nhận chung, các quan hệ giữa hai nước chặt chẽ hơn và năng động hơn bất kỳ thời điểm nào trước đó trong suốt triều nhà Nguyễn”.(20) Chính vì thế chính phủ Việt Nam đã bác bỏ các lời tuyên xác của Pháp tại Bắc Kỳ và rõ ràng phẫn uất trước sự hiện diện của Pháp tại Nam Kỳ.

Cuộc khủng hoảng tạo ra bởi sự can thiệp của Trung Hoa trùng hợp với sự bổ nhiệm Đô Đốc Jauréguiberry làm bộ trưởng hải quân vào đầu năm 1879. Một trong các công tác đầu tiên của ông là đối phó với hành động của Trung Hoa, và từ khởi đầu Jauréguiberry đã biểu lộ một ý định gạt sang một bên bất kỳ mối quan hệ Việt Nam – Trung Hoa nào. Trong Tháng Sáu, Jauréguiberry tái xét tình hình trong một bản báo cáo dài. Ông nhận xét rằng một chế độ bảo hộ sẽ nhất định làm tan biến giấc mơ của vua Tự Đức rằng nước Pháp sẽ triệt thoái ra khỏi Bắc Kỳ hay nhượng lại bất kỳ lãnh thổ nào ở Nam Kỳ; nó cũng sẽ chấm dứt bất kỳ sự tuyên xác nào về các ràng buộc đặc biệt giữa Trung Hoa và Việt Nam. Một chế độ bảo hộ của Pháp sẽ được giải quyết bởi áp lực của Pháp trên Huế mà không lưu ý đến các ý muốn của Trung Hoa. Ông lập luận rằng chính sách của Pháp không thể tiếp tục trên căn bản hiện hữu của nó, và ông đã trưng dẫn một báo cáo từ Đô Đốc Lafont trong đó vị thống đốc nhận định rằng hoặc Pháp triệt thoái khỏi Bắc Kỳ, cho phép mỗi quốc gia tự mình theo đuổi quyền lợi riêng của mình tại đó, hay là phải thiết lập, một cách không mơ hồ, một chế độ bảo hộ. Cả Lafont và Jauréguiberry đều tán thành đường lối kể sau, và Jauréguiberry lập luận cho một cuộc viễn chinh quân sự để cưỡng hành các lời tuyên xác của Pháp. “Để đạt được các kết quả bền vững và thỏa đáng”, ông cảnh cáo, “chính phủ phải đành chịu một kinh phí đáng kể cho các sự trang bị hải quân và cho sự bố trí các lực lượng quân sự ”.(21) Đối với Jauréguiberry, Bắc Kỳ đòi hỏi chi phí và rủi ro vượt quá một vụ biểu dương hải lực.

Khả tính của sự tranh giành từ Âu Châu đã bổ túc tính khẩn cấp cho lời thỉnh cầu của viên bộ trưởng hải quân. Jauréguiberry ghi nhận rằng các chính phủ Đức và Tây Ban Nha đang tìm cách lập các tòa lãnh sự tại Bắc Kỳ, và theo một báo cáo được soạn thảo cho bộ ngoại giao, người Anh tán thành sự can thiệp của Trung Hoa tại Bắc Kỳ như một phương thức để ngăn chặn sự tiếp cận của Pháp vào thị trường Trung Hoa. Jauréguiberry nhấn mạnh nhu cầu mở ngỏ một sự tiếp cận thương mại vào Vân Nam trước người Anh, các kẻ đang tiến tới xuyên qua Miến Điện, và ông cũng ghi nhận sự khai thác khả hữu các tài nguyên khoáng sản được cho là bao la tại vùng thượng du Bắc Kỳ. Bởi việc đánh bại các kẻ cạnh tranh Âu Châu, Pháp sẽ cung cấp sự kiểm soát và ổn định cần thiết cho sự khai thác thương mại miền Bắc Kỳ. Sự can thiệp quân sự nhằm kềm chế nạn hải tặc dọc sông Hồng là một bước mở đầu cần thiết cho việc mậu dịch và sự khai thác tiềm năng khoáng sản trong nội địa. Jauréguiberry đã biện minh sự can thiệp như thế theo các điều khoản của Hiệp Ước 1874 cam đoan dành cho Pháp thẩm quyền để bảo đảm hoạt động mậu dịch trật tự tại Bắc Kỳ.(22) Sử dụng các lập luận về chiến lược, kinh tế, và chính trị, cũng như sự hấp dẫn về uy tín, Jauréguiberry nhấn mạnh rằng thời cơ đã đến để áp đặt một chế độ bảo hộ trên nhà vua Tự Đức ngoan cố.

Trong Tháng Mười, Jauréguiberry trình bày một kế hoạch can thiệp quân sự. Ông yêu cầu các tín khoản để tài trợ một đoàn quân viễn chinh sáu nghìn người, ba nghìn binh sĩ Âu Châu và một quân số tương đương lính đánh thuê Việt Nam; họ sẽ được yểm trợ bởi mười hai tàu vũ trang để tuần tra con sông tại Bắc Kỳ và các hải phận duyên hải. Ông đã duyệt lại các lý do cho sự can thiệp: sự đối nghịch khăng khăng của vua Tự Đức đối với các đòi hỏi của Pháp; “các sự né tránh” của Việt Nam các nghĩa vụ trong hiệp ước 1874; nhu cầu cần phá vỡ mối quan hệ giữa Việt Nam và Trung Hoa; sự hiện diện của các nhóm du kích phi chính quy dọc hai bên thủy lộ sông Hồng đến Vân Nam; và sự ngăn cản của các cường lực Âu Châu khác việc thiết lập tại miền bắc thuộc địa Pháp từ Nam Kỳ. Jauréguiberry lập luận rằng sự phân chia lãnh thổ Việt Nam là giả tạo, và ông dự liệu một liên bang chung cuộc gồm Nam Kỳ, Trung Kỳ, Bắc Kỳ và Lào dưới sự thống trị của Pháp. Một cuộc viễn chinh vào Bắc Kỳ sẽ là một bước tiến quan yếu để vươn tới mục đích này của sự thống nhất áp đặt bởi Pháp. Ông nhấn mạnh, thật là vô ích để tưởng tượng rằng một chế độ bảo hộ có thể giành đoạt được bằng các phương pháp ngoại giao thuần túy.(23) “Mỗi sự trì hoãn trong việc tìm kiếm một giải pháp”, ông nhận định, “khiến cho tình trạng của chúng ta ngày càng trở nên khó khăn một cách liên tục hơn”.(24) Jauréguiberry lạc quan về sự dễ dàng cho một lực lượng quân sự có thể chinh phục các địa điểm then chốt trong miền. Ông dự liệu rằng sự sử dụng binh sĩ Việt Nam được tuyển mộ từ các kẻ cải đạo theo Công Giáo sẽ làm giảm bớt nhu cầu về các lực lượng Pháp chính quy, và các số thu về quan thuế sẽ nhiều hơn để bồi hoàn phí tổn của các hoạt động quân sự.(25) Ông đã đề nghị rằng một tín khoản sáu triệu phật lăng sẽ cần tìm kiếm để phóng ra cuộc viễn chinh.

Tuy nhiên, nội các lo sợ rằng sự can thiệp sẽ khiêu khích các cường lực Âu Châu khác, và đã ngần ngại để yêu cầu nghị viện cấp các kinh phí to lớn. Bộ Ngoai Giao ở Quai d’Orsay cũng nghi ngờ viên Bộ Trưởng Hải Quân hung hăng, và đã tranh luận thắng lợi cho sự sử dụng các phương cách ngoại giao để đạt được chế độ bảo hộ. Trên hết, hoạt động của Pháp tại Bắc Kỳ “là né tránh bất kỳ điều gì có thể mang lại sự can thiệp dáng vẻ của một cuộc chinh phục, nói một cách chính xác”.(26) Các nhà lãnh tụ phe cộng hòa tại Paris tán thành một đế quốc tại Đông Nam Á nhưng lo sợ rằng chủ trương phiêu lưu quân sự có thể vuột ra khỏi tầm tay kiểm soát và tạo ra các tình thế phức tạp nguy hiểm về chính trị và tốn kém. Jauréguiberry được phép gia tăng quân số Pháp đồn trú tại các hải cảng theo hiệp ước, và các sự tuần tra hải quân Pháp tại vùng châu thổ được tiến hành, nhưng không được làm điều gì nhiều hơn thế.

Mũi tấn công quan trọng trong nỗ lực của Pháp để giành đạt một sự bảo hộ tại Bắc Kỳ vẫn là ngoại giao và tập trung quanh một đặc sứ được phái đến Huế với mục đích thuyết phục vua Tự Đức chấp nhận một sự tái xét bản hiệp ước 1874. Để đổi lấy việc chấp thuận một chế độ bảo hộ tại Bắc Kỳ và Trung Kỳ cho người Pháp, viên sứ giả được phép đề nghị cung cấp cho vua Tự Đức sự trợ giúp của Pháp để giành lại sự kiểm soát trên các thần dân bất phục tùng của ông tại miền bắc.(27) Song chính sách ngoại giao của Pháp tại Việt Nam dựa trên một giả định sai lạc rằng sự “rối loạn” của Bắc Kỳ gây phiền nhiễu lớn lao cho các thẩm quyền Việt Nam tại Huế. Điều chắc chắn rằng vùng đất biên giới Bắc Kỳ -Trung Hoa được cư trú bởi một hỗn hợp nhiều sắc dân khác biệt và bị xáo trộn bởi một loạt “các băng đảng” tham gia vào các cuộc đột kích cướp bóc. Thẩm quyền của chính phủ Việt Nam thường nhường bước trước quyền lực thực tế nắm giữ bởi các thủ lĩnh làng xã địa phương. Người Pháp, dựa trên các báo cáo từ người Việt Nam theo Công Giáo và các nhà truyền đạo Âu Châu, mô tả tình hình tại Bắc Kỳ như một tình trạng xáo trộn và sắp nổi loạn. Người Pháp tự giới thiệu mình như các đồng minh sẽ mang lại trật tự, nhưng hiển nhiên là vua Tự Đức mong muốn đạt tới sự thỏa hiệp với các thủ lĩnh địa phương, chẳng hạn như Lưu Vĩnh Phúc, hay ngay cả sự can thiệp của Trung Hoa, hơn là vòng tay ôm của Pháp. Trong thực tế, Lưu Vĩnh Phúc, kẻ mà người Pháp tố cáo là quân thổ phỉ, đã hợp tác với các lực lượng Việt Nam và Trung Hoa chống lại Pháp và giữ tư thế như một võ quan phục vụ nhà vua Việt Nam. Thương mại Pháp hay Âu Châu xuyên qua Bắc Kỳ vào Trung Hoa mang lại ít lợi lộc cho chính quyền Việt Nam, đặc biệt nếu Pháp kiểm soát thuế quan và đòi hỏi một chế độ bảo hộ. Giá đòi hỏi của Pháp quá cao đối với Huế, và không có gì đáng ngạc nhiên rằng phái bộ Pháp tại kinh đô Việt Nam đã không đạt được chế độ bảo hộ mong muốn.

Trong khi đó, áp lực cho một chính sách hung hăng hơn, kể cả một sự biểu dương sức mạnh, xuất hiện từ nhiều nguồn gốc khác nhau. Khuếch đại sự báo động của Jauréguiberry, thống đốc Nam Kỳ, Le Myre de Vilers, thúc giục sự can thiệp tức thời. Ông trưng dẫn vụ ám sát thương nhân Pháp, ông Francelli, như một cơ hội cho sự khẳng quyết các quyền hạn của Pháp tại Bắc Kỳ.(28) Cả các viên chức lẫn các quyền lợi cá nhân đều kêu gọi một chính sách tích cực. Lãnh sự Pháp tại Thượng Hải khẩn cầu sự can thiệp, giống như một nhóm các doanh nhân Âu Châu và Trung Hoa tại Hải Phòng đã thỉnh cầu sự trợ giúp trong việc kềm chế nạn hải tặc. Nam Tước (Baron) de Caobourg, chủ tịch Hội Nghiên Cứu Hàng Hải và Thuộc Địa (Society for Maritime and Colonial Studies), yêu cầu một sự chiếm đóng sông Hồng để mở cửa Vân Nam cho thương mại Pháp. Và báo chí của phe cộng hòa, nhất là tờ Le Temps và tờ République franҫaise của phe Gambetta, mở chiến dịch cổ động cho sự can thiệp.(29)

Trên hết, thái độ của chính phủ Trung Hoa đối với Bắc Kỳ gây bối rối cho các viên chức Pháp. Mặc dù đội quân của Tướng Feng Tsu-ts’ai đã bắt giữ và chém đầu Li Yang-ts’ai, kẻ nổi loạn vào cuối năm 1879, các lực lượng Trung Hoa đã chậm trễ trong việc triệt thoái khỏi Bắc Kỳ. Một sự đóng quân khá lớn vẫn còn bên phía Việt Nam của biên giới gần Lạng Sơn, theo các báo cáo của Pháp. Đại diện Pháp tại Bắc Kinh báo cáo rằng chính quyền Đế Triều đã khoa trương nhiều sự thành công của nó trong việc bắt giữ và hành quyết Li Yang-ts’ai và tuyên bố rằng các nghĩa vụ của Trung Hoa đối với Việt Nam đã được chu toàn.(30) Mặc dù Patenôtre, đại diện Pháp tại Bắc Kinh, tuyên bố rằng quyên lợi của Trung Hoa chỉ là vấn đề uy tín và sự tự trọng tại Bắc Kỳ, ông đã thúc giục việc hành động tức thời để đối đầu với bất kỳ tham vọng nào của Trung Hoa. Bất kể các sự cứu xét nào khác có thể ảnh hưởng đến thái độ của chính phủ Pháp, sự thách đố của Trung Hoa tại Bắc Kỳ là yếu tố trực tiếp nhất và nghiêm trọng nhất.

Vào lúc này vua Tự Đức bắt đầu thực hiện các sự chuẩn bị kỹ lưỡng cho một sứ đoàn khác sang triều cống Trung Hoa, và tờ Peking Gazette đã dùng cơ hội này để xác nhận điều mà Patenôtre đã mô tả như “quyền chủ tể mạo danh” trên Việt Nam. Sự kiện này bổ túc bằng chứng cho sự tuyên xác của Trung Hoa về một mối quan hệ đặc biệt với Việt Nam làm rầy rà chính phủ Pháp. Jauréguiberry đã muốn ngăn chặn hoàn toàn sứ đoàn này, nhưng [Charles de] Freycinet [Thủ Tướng Pháp từ 28 Tháng Mười Hai 1879 – 23 Tháng Chín 1880, sau nội các của William Waddington và trước nội các lần thứ nhất của Jules Ferry, chú của người dịch] thú nhận rằng có ít điều có thể làm được để ngăn cản sứ đoàn này ngoài việc bày tỏ sự không hài lòng đối với Huế.(31) Tuy nhiên, sứ đoàn triều cống dự trù đã thuyết phục Freycinet rằng một chính sách cứng rắn hơn tại Bắc Kỳ là thiết yếu. Trong Tháng Bảy ông thú nhận với Jauréguiberry, “Tôi tin ý tưởng nguyên thủy của ông về sự chiếm đóng vùng đất đó {Bắc Kỳ} thì vững chắc hơn là việc chỉ tuần cảnh ở các cửa sông mà nội các đã ủng hộ”. Ông chấp thuận kế hoạch của Jauréguiberry về việc phái ba nghìn binh sĩ Âu Châu sang Bắc Kỳ, và ông đã đề nghị tìm kiếm các tín khoản ở Hạ Nghị Viện Pháp ngay khi tái nhóm sau kỳ nghỉ mùa hè. Về phía Bắc Kinh, Freycinet tiên đoán một cách kín đáo “không có gì để lo ngại về phía Trung Hoa”.(32)

Trước khi cuộc viễn chinh quân sự đề nghị có thể được chấp thuận, nội các Freycinet bị đánh đổ và Jauréguiberry nhường bộ hải quân cho Đô Đốc Cloué. Chính phủ mới, được đứng đầu bởi Jules Ferry, đã quyết định bám lấy chính sách nguyên thủy về hoạt động tuần cảnh hạn chế hơn tại vùng châu thổ sông Hồng thay vì một sự chiếm đóng quân sự toàn diện. Bộ Trưởng Ngoại Giao mới, Barthélemy Saint-Hilaire, và Đô Đốc Cloué tái tục các nỗ lực ngoại giao để giành đạt sự bảo hộ từ Huế.(33)

Với sự ra đi của Jauréguiberry khỏi bộ hải quân, kẻ biện hộ mạnh mẽ nhất cho một sự can thiệp trực tiếp là Thống Đốc Nam Kỳ, Le Myre de Vilers, kẻ nhấn mạnh rằng các xáo trộn ở Bắc Kỳ tượng trưng cho một mối nguy hiểm kéo dài đối với các quyền lợi của Pháp tại Á Châu. Các báo cáo từ các lãnh sự Pháp phát hiện sự kích động hơn nữa, và các tàu chiến của Trung Hoa đang xuất hiện trên các hải phận Việt Nam với chu kỳ thường xuyên gia tăng. Điều đáng báo động hơn nữa là một báo cáo rằng lãnh tụ Quân Cờ Đen, Lưu Vĩnh Phúc, đã sang Trung Hoa để tuyển mộ các quân sĩ bổ túc trong sự dự trù một cuộc tranh chấp với Pháp. Le Myre de Vilers nhận định rằng sự can thiệp của Trung Hoa và sứ đoàn dự trù sang Bắc Kinh rõ ràng phơi bày ý định của vua Tự Đức muốn vượt thoát khỏi áp lực của Pháp với sự ủng hộ từ Bắc Kinh và Quân Cờ Đen.(34) Ông ta quyết định quay trở về Pháp nơi ông có thể đích thân tranh luận cho trường hợp can thiệp.

Le Myre de Vilers đã lập lại nhiều lập luận đã sẵn được đưa ra tán đồng một sự bảo hộ của Pháp tại Bắc Kỳ. Tuy nhiên, ông nhìn nhận một sự miễn cưỡng của Paris để tiến tới việc cam kết sâu đậm hơn cho một sự giao chiến quân sự tại Á Châu vào một thời điểm khi mà một đoàn viễn chinh khá lớn vừa được gửi sang Tunisia. Nhận thức đầy đủ về các sự lo lắng của phe cộng hòa, Le Myre đưa ra sự chống đối của ông trước bất kỳ “sự phiêu lưu quân sự” nào và nhân mạnh đến khía cạnh “hòa bình” và tiệm tiến trong đề nghị của ông. Một sự chiếm đóng toàn diện Bắc Kỳ sẽ đòi hỏi ba mươi đến bốn mươi nghìn binh sĩ, ông ước lượng. Thay vào đó, ông khuyến cáo một lực lượng ít hơn vào khoảng ba nghìn quân làm nền tảng cho sự bành trướng của Pháp vào miền bắc Việt Nam. Ông cảnh cáo rằng tiến trình sẽ không phải là “công việc của một ngày mà là của nhiều năm dài”, kết hợp các áp lực quân sự và ngoại giao để thu đạt được các mục tiêu của Pháp. Công thức của ông cho sự bành trướng của Pháp, điều ông quen lập lại nhiều lần để tái bảo đảm cho một chính phủ khó khăn tại Paris, rằng sự kiểm soát trên Bắc Kỳ sẽ giành đạt được “về mặt chính trị, hành chính, hòa bình, và tiến bộ” hơn là bởi một cuộc chinh phục quân sự. Hà Nội hay Huế có thể chiếm đoạt một cách dễ dàng, ông nhận định, nhưng sự vụ ở Tunisia “đã chứng tỏ một cách quá phong phú rằng việc chiếm đóng thủ đô của một xứ bán mọi rợ không thôi vẫn chưa đủ”. Một cuộc viễn chinh quân sự theo cung cách Âu Châu cổ điển sẽ cho thấy là vô ích tại một quốc gia nơi “mà sinh hoạt công cộng không hiện hữu, nơi mỗi làng xã cấu thành một loại cộng hòa độc lập”.(35) Để giữ các quân số binh sĩ Âu Châu ở mức thấp, các sự tuyển mộ người Việt Nam sẽ được áp dụng một cách rộng rãi, và ông tán thành việc thay thế các quan lại Việt Nam cứng đầu bằng các kẻ cộng tác sẽ điều hành xứ sở dưới sự giám sát của Pháp, như đã từng được thực hiện tại Nam Kỳ.

Các lập luận của Le Myre de Vilers nhận được sự đón tiếp thiện cảm ở cả bộ ngoại giao lẫn bộ hải quân. Trong Tháng Bẩy, chính phủ, bất kể sự bận tâm về vấn đề Tunisia, đã yêu cầu nghị viện một ngân khoản hai mươi bốn trăm nghìn phật lăng cho một đoàn viễn chinh để khai thông sông Hồng cho hoạt động thương mại. Dự luật được thông qua chỉ sau một cuộc tranh luận ngắn ngủi và đã cung cấp, như Saint Hilaire nhận xét, một cơ hội để giúp cho các quan điểm của Pháp được thắng thế tại Đông Dương.(36) Trong các chỉ thị của ông cho Le Myre de Vilers, Đô Đốc Cloué nhấn mạnh sự khôi phục uy tín của Pháp và sự tăng cường các chính sách của Pháp tại Huế, nhưng ông cũng nhắc lại sự cảnh cáo rằng các áp lực sử dụng phải không được có tính chất của một hành động quân sự trong bầt kỳ cung cách nào”.(37) Đội quân đồn trú tại Hà Nội sẽ được tăng cường như một lời cảnh cáo đối với vua Tự Đức, nhưng, một cách nào đó, bề ngoài của một cuộc viễn chinh quân sự cũng sẽ phải được né tránh. “Sự gia tăng này”, Le Myre de Vilers nêu ý kiến, “phải diễn ra trong các bước tiến nhỏ và không tạo chấn động trong một cách để không một ai nhận thức ra, rằng chúng ta tăng gấp đôi kích thước các lực lượng hiện nay của chúng ta”.(38) Đây sẽ là một sự bành trướng đế quốc một cách âm thầm, giảm thiếu tối đa các rủi ro chính trị nội bộ bằng việc giới hạn sự khoa trương quân sự. Le Myre de Viler hy vọng rằng bóng ma của cuộc chinh phục quân sự có thể được tránh khỏi, và ông thành thực tin tưởng rằng sự bành trướng tại Bắc Kỳ sẽ diễn ra “một cách hòa dịu” và “tiệm tiến”. Bộ hải quân, nhậy cảm với sự cạn kiệt năm mươi nghìn binh sĩ gây ra bởi đòan viễn chinh Tunisia, hậu thuẫn cho chính sách tiệm tiến của ông.

Sự nhấn mạnh trên chủ trương tiệm tiến không đủ tái bảo đảm chính phủ Trung Hoa, ngắm nhìn với sự quan ngại gia tăng trên các sự chuẩn bị của Pháp và bắt đầu thảo luận về phương cách đáp ứng.(39) Trong Tháng Chín, Sứ Thần Trung Hoa tại Pháp, Tseng Chi-tse [Tăng Kỷ Trạch?], thông báo cho Bộ Ngoại Giao Pháp rằng chính phủ Trung Hoa đã không nhìn nhận bản hiệp ước năm 1874 và các sự tuyên xác của Pháp theo bản hiệp ước này.(40) Vào cuối năm, chính phủ Pháp, giờ đây được đứng đầu bởi Léon Gambetta, bác bỏ lập trường của họ Tseng qua việc nhận định rằng bản hiệp ước 1874 đã được thi hành trong gần tám năm và chính phủ Trung Hoa đã hoàn toàn hay biết về các điều khoản của nó mà không đưa ra bất kỳ sự phản đối nào trước đây về bản hiệp ước.(41) Điều trở nên rõ ràng là hai nước đang hướng đến sự tranh chấp.

Trong khi đó, Bắc Kinh yêu cầu các đề nghị từ các tổng đốc các tỉnh về các phương thức để đối phó với mối nguy hiểm từ Pháp. Vào cuối năm 1881, tổng đốc Quảng tây, Ch’ing-yu, đã gửi văn thư của ông lên Bắc Kinh. Ông nhấn mạnh rằng Trung Hoa không thể giữ sự thờ ơ trước các kế hoạch của Pháp nhằm trục xuất quân hải tặc ra khỏi sông Hồng. Băc Kỳ cung cấp một rào cản hay “phên dậu” phương nam cho Vương Quốc Trung Tâm, và hành động tức thời thì cần thiết để ngăn cản sự tiếp cận từ sông Hồng vào miền nam Trung Hoa. Không làm như thế sẽ khiến cho Trung Hoa dễ bị xâm hại và phải chịu đựng thêm các đòi hỏi của Pháp.(42) Theo sáng kiến riêng của chính mình, Ch’ing-yu đã sẵn phái một lực lượng tăng cường nhỏ tiến vào Bắc Kỳ.(43)

Trong khi chính phủ Trung Hoa tiến đến sự kháng cự, Le Myre de Vilers khởi xướng chính sách bành trướng gia tăng. Ông trưng dẫn các tình tiết gần đây – sự bắt giữ hai thần dân Pháp bởi Quân Cờ Đen và sự ngược đãi một nhân viên của phái bộ ngoại giao Pháp tại Huế — như sự biện minh cho việc gửi các quân tăng phái nhằm tăng gấp đôi số đồn trú tại Bắc Kỳ. “Trái cây đã chín”, ông loan báo, “giờ đây là lúc hái quả”.(44) Vào giữa Tháng Một, ông thông báo Paris rằng ông đã tăng gấp đôi lực lượng đồn trú tại Hà Nội, và ông đã bổ nhiệm Đại Tá Rivière đứng đầu đoàn viễn chinh. Ông đoan chắc với các thượng cấp của ông rằng “Sẽ không có các hoạt động quân sự … chỉ có các biện pháp dự phòng”.(45) Đúng vào lúc Le Myre de Vilers đưa ra các chỉ thị cho Rivière, một điện tín đến từ Paris ra lệnh cho ông đình chỉ dự án trong khi chờ đợi sự đến nơi của Đô Đốc Pierre, kẻ sẽ đảm nhận sự kiểm soát tất cả các lực lượng hải và lục quân tại Việt Nam. Rõ ràng chính phủ Gambetta trù tính một cuộc viễn chinh ồ ạt đã được chuẩn bị một cách bí mật cho Bắc Kỳ, hay ít nhất đã có một vài bằng chứng cho sự kiện này, và Le Myre de Vilers, nghĩ rằng chính sách của ông bị đẩy lui, đã đe dọa từ chức.(46) Tuy nhiên, “Chính Phủ Vĩ Đại” ngắn ngủi của Gambetta bị sụp đổ trước khi bất kỳ dự án to lớn nào có thể được khởi động, nếu trong thực tế đã có các kế hoạch như thế hiện hữu.

Sự thay đổi chính phủ đã mang Jauréguiberry trở lại bộ hải quân dưới thời [Thủ Tướng] Freycinet, và các mệnh lệnh cho cuộc viễn chinh của Đô Đốc Pierre không bao giờ được ban ra. Le Myre de Vilers quay trở lại chính sách tiệm tiến của ông ta và tái ban hành các chỉ thị cho Rivière để mang năm trăm quân ra Hà Nội. Mặc dù Jauréguiberry mong muốn có một đoàn viễn chinh đông hơn, Freycinet trở lui với sự dè dặt và nhấn mạnh rằng các chính phủ trước đã quyết định về một chiều hướng ôn hòa hơn, và Jauréguiberry đã nhượng bộ. Freycinet lo sợ rằng một cuộc nổi dậy chống lại Pháp sẽ phát triển nếu một cuộc can thiệp quân sự toàn diện xảy ra. Việc lớn nhất ông sẽ chấp nhận là “một sự bố trí quân sĩ nào đó” tại Bắc Kỳ.(47) Le Myre de Vilers ra lệnh cho Rivière né tránh bất kỳ sự tranh chấp nào với các lực lượng Trung Hoa trong miền. Ông ta sẽ cần tập trung các lực lượng của mình tại Hà Nội, chiếm giữ thành nếu cần thiết cho an ninh hay để mở cửa cho sự lưu thông trên sông Hồng. Ngay khi Rivière đến Hà Nội vào đầu Tháng Tư ông ta đã quyết định rằng tòa thành không thể để nằm trong tay Việt Nam. Vào ngày mười bảy, lập lại thủ đọan của Garnier năm 1873, Rivière chiếm đóng tòa thành và tự tin đã kiểm soát được thành phố.

Cuộc tấn công của Rivière vào tòa thành đã khiến sự vụ ở Bắc Kỳ tiến tới một cuộc khủng hoảng khác. Đế xuất của viên tư lệnh Pháp, mặc dù được dự liệu, xem ra hơi vội vã đối với Le Myre de Vilers, kẻ hy vọng hành xử áp lực trên Huế trước khi có sự chiếm đóng tòa thành, nhưng ông đã báo cáo về Paris rằng sự ù lì của Việt Nam và bằng chứng rằng vua Tự Đức đã tự chọn việc ngã vào vòng tay của Trung Hoa và Quân Cờ Đen khiến cho hành động cứng rắn trở nên cần thiết.(48) Le Myre de Vilers có cảnh cáo Rivière, một khi tòa thành được chiếm giữ, cần né tránh bất kỳ hành động nào khác có thể xúc phạm đến các nhà chức trách địa phương và tạo ra “các sự phức tạp không cần thiết”. Ông đã trưng dẫn tình hình tại Âu Châu và Ai Cập như một sự cứu xét “không cho phép Pháp tham dự vào một cuộc tranh chấp kéo dài và tốn kém” tại Á Châu. Trong thực tế, sự ngần ngại của nước Pháp về kinh đào Suez chỉ khích lệ các tiếng nói hiếu chiến hơn tại Bắc Kinh và Huế. “Sự không tham gia của chúng ta tại Ai Cập đã có một tác động lớn lao tại Á Châu và đã bị nhìn như một sự thoái vị”.(49)

Hành động của Rivière cũng giống như sự thoái bộ của Pháp về vấn đề Ai cập đã khích động quyết tâm của Việt Nam và Trung Hoa để kháng cự lại các đòi hỏi của Pháp tại Bắc Kỳ. Trong sự sửa soạn chiến tranh Việt Nam đã củng cố các thành lũy của họ ở Thuận An, phòng vệ lối tiến bằng đường biển đến Huế, và vua Tự Đức yêu cầu viện trợ quân sự của Trung Hoa. Nhiều bộ đội Trung Hoa hơn vượt qua biên giới tiến vào Bắc Kỳ, và Quân Cờ Đen của Lưu Vĩnh Phúc củng cố các đồn lũy tại Sơn Tây và Hưng Hóa.(50) Đến mức mà chính phủ Trung Hoa quan tâm, cuộc tấn công của Rivière mang lại cho người Pháp sự kiểm soát một lối tiếp cận bằng đường sông vào chính Vân Nam, và Trung Hoa đã quyết định đối đầu với sự thách đố. Như tác giả Eastman ghi nhận, “…từ thời điểm này, Trung Hoa đi theo con đường dẫn trực tiếp đến chiến tranh”.(51) Các viên chức tại miền nam Trung Hoa đã thúc giục chính phủ có hành động chống lại các sự tiến quân của Pháp, và giờ đây Trung Hoa đã quyết định ủng hộ chính quyền Việt Nam yếu ớt trong cuộc đấu tranh của nó.

Chính phủ Pháp nhận thức rằng các sự sửa soạn chiến tranh đang tiến hành nhưng quyết định rằng chế độ bảo hộ có thể vẫn có thể đạt được mà không cần đến một cuộc tranh chấp công khai. Từ Bắc Kinh, Sứ Thần Pháp, Frederic Bourée, báo cáo rằng người Trung Hoa đang phỉnh gạt, mặc dù ông thúc giục chính phủ ông hãy tiến hành mau lẹ để thiết lập một sự bảo hộ trước khi Trung Hoa có thể can thiệp.(52) Từ Sàigòn, Le Myre de Vilers nhấn mạnh rằng chính quyền vẫn còn vững mạnh, nhưng ông đề nghị một sự thỏa hiệp sẽ dành cho Pháp khu vực châu thổ, để lại vùng thượng du trong tay các nhóm băng đảng Việt Nam và Trung Hoa không chính quy.(53) Thời gian, ông lập luận, sẽ đứng về phía Pháp, và ông đã ra lệnh cho Rheinart tại Huế và Rivière tại Hà Nội phải né tránh bất kỳ sự khiêu khích không cần thiết nào. Trong một điện tín gửi Rivière ông đồng ý rằng ở một số điểm Quân Cờ Đen sẽ phải bị loại bỏ như một chướng ngại vật cho hoạt động thương mại, nhưng trong nhất thời ông khuyến cáo sự cẩn trọng trong khi đối phó với họ. Ông bác bỏ lời yêu cầu của Rivière về việc thiết lập một đồn quân sự tại giao điểm của sông Hồng và sông Lô (Clear River). Trên hết, “lòng yêu nước đòi hỏi rằng chúng ta phải né tránh bất kỳ sự khó khăn nào có thể dẫn dắt ông tiến vào một cuộc tranh chấp với Trung Hoa”.(54) Một lý do khác cho sự dè dặt là khuynh hướng cứng rắn gia tăng của phe chủ chiến tại Huế, đứng đầu bởi Tôn Thất Thuyết, viên thượng thư chống Pháp cương quyết nhất của vua Tự Đức.(55) Mặc dù Le Myre de Vilers vẫn còn tin tưởng rằng các sự tuyên xác của Pháp trên vùng Thung Lũng sông Hồng sẽ được thiết lập, ông nhấn mạnh rằng một chính sách tiệm tiến đòi hỏi sự kiên nhẫn, chứ không phải hành động quân sự vội vàng về phía chính phủ Pháp.

Trong khi Le Myre de Vilers khuyến cáo sự thận trọng khi đối diện với các căng thẳng dâng cao, Đô Đốc Jauréguiberry đã quyết tâm cưỡng đặt chế độ bảo hộ. Bên lề một trong những báo cáo của Le Myre de Vilers kêu gọi sự kềm chế, Jauréguiberry hạ bút phê sự quyết tâm của ông: “Chúng ta không thể trở lui giờ đây!” (56) Ông tán thưởng hành động mạnh mẽ được thực hiện tại Bắc Kỳ, và vào cuối Tháng Sáu ông đã gửi cho ông Freycinet một văn thư trong đó ông trình bày các hành động của Pháp như một phần thưởng quá trễ nãi đối với “các nỗ lực và hy sinh lớn lao của chúng ta”.(57) Đối với các sự tuyên xác của Trung Hoa, Jauréguiberry nhấn mạnh rằng sự can thiệp của Bắc Kinh vào các chuyện của Việt Nam “không thể tha thứ được”, và ông thúc giục rằng chính phủ Pháp hãy có một lập trường cứng rắn chống lại sự can thiệp của Trung Hoa tại Việt Nam.(58) Ông lập luận rằng sự ngoan cố của Huế chắc chắn phản ảnh sự bảo đảm ủng hộ từ Bắc Kinh. Ngay khi Huế nhân thức được rằng Trung Hoa không còn có thể cầu khẩn được nữa, khi đó Pháp có khả năng áp đặt các đòi hỏi của mình. Thời điểm đã đến cho một giải pháp xác định đối với Bắc Kỳ, và Jauréguiberry bày tỏ sự bực tức đối về sự hiểu biết của Le Myre de Vilers. Ông đoan chắc với viên thống đốc rằng Ai Cập không hàm ý sự yếu kém của Pháp, và ông thúc giục Le Myre hãy quay trở lại các chính sách cứng rắn đã từng được xướng xuất trong mùa xuân.(59)

Trong Tháng Mười Jauréguiberry phục hồi lại kế hoạch ba năm trước của ông về việc gửi một đoàn viễn chinh quân sự to lớn sang Bắc Kỳ. Khác với nhóm nhỏ các binh sĩ dưới quyền chỉ huy của Rivière, ông một lần nữa kêu gọi một lực lượng ít nhất là sáu nghìn binh sĩ.(60) Duclerc, người thay thế Freycinet tiếp theo sau vụ Ai Cập, tán thành quan điểm của Bộ Trưởng Hải Quân. Toàn thể nội các thảo luận tình hình Bắc Kỳ và đồng ý rằng sẽ là điều cần thiết để giành được sự thống trị của Pháp bằng hành động quân sự. Chính phủ đã kết luận rằng nó không có sự lựa chọn ngoài việc từ bỏ chính sách hòa dịu của nó “và để bảo đảm, bằng việc phái các lực lượng đầy đủ, sự thống trị hữu hiệu của chúng ta tại Thung Lũng Sông Hồng”. Duclerc nhìn nhận rằng dự án này sẽ làm phức tạp các quan hệ của Pháp với Trung Hoa, nhưng ông quyết tâm tìm kiếm cấp khoản từ Hạ Viện Pháp sớm nhất khi nó tái nhóm.(61)

Jauréguiberry tức thời cung cấp các kế hoạch cho sự can thiệp và phô bày các lập luận đã được sử dụng ba năm trước. Ông cho rằng các phương pháp ngoại giao không thôi sẽ không bao giờ thành công, và chính vì thế vũ lực sẽ cần thiết đễ cưỡng bách sự chấp nhận một chế độ bảo hộ của Pháp. Ông tuyên bố rằng một công thức có thể được tìm thấy để cứu vớt lòng tự trọng của Trung Hoa và rằng Trung Hoa có thể thực sự được nhẹ gánh để thoát ra khỏi nghĩa vụ “nặng nề” [“onerous”, nguyên bản ghi sai là “onorous”, chú của người dịch] và được định nghĩa một cách mơ hồ đối với Việt Nam. Ông giả định một cách mơn trớn rằng Trung Hoa sẽ chào đón hoạt động mậu dịch mở rộng với Vân Nam mà sự kiểm soát của Pháp trên sông Hồng sẽ mang lại.(62) Trong khi phát biểu các quan điểm này, Jauréguiberry đã phô bày một cái nhìn tập trung vào Âu Châu thiển cận về tầm quan trọng gắn liền với mối quan hệ triều cống cổ truyền giữa Trung Hoa và Việt Nam. Từ quan điểm của ông hiệp ước năm 1874 đã chấm dứt về mặt pháp lý các ràng buộc như thế, một quan điểm mà hiển nhiên cả chính phủ Trung Hoa lẫn Việt Nam đều không chia sẻ. Về phí tổn đối với Pháp cho một cuộc viễn chinh quân sự, ông ước lượng một tín khoản ít nhất là sáu triệu rưỡi phật lăng sẽ phải được cần đến, nhưng ông ghi nhận rằng tổng số thu về thuế quan cho Bắc Kỳ tương đương với hai mươi mốt triệu, nhiều hơn khoản đền bù cho các sự hy sinh của Pháp. Sự khai thác tương lai các hầm mỏ và thương mại của Bắc Kỳ hứa hẹn biến vùng đất bảo hộ trở nên sinh lợi hơn Nam Kỳ, và khí hậu miền bắc thích hợp hơn đối với người Âu Châu; nhưng các lợi điểm của Bắc Kỳ chỉ có thể giành thắng được với sự áp dụng áp lực quân sự mạnh mẽ.(63) Bị ấn tượng bởi các lập luận này, Duclerc đồng ý yêu cầu Nghị Viện cấp mười triệu phật lăng để bảo hành cho cuộc viễn chinh.(64)

Trong khi Jauréguiberry đề nghị vũ lực để mang các chính phủ Á Châu vào trong hàng ngũ, Le Myre de Vilers tiếp tục khuyến cáo một sự thỏa hiệp xuyên qua thương nghị. Với sự yếu kém của chế độ vua Tự Đức, Le Myre de Vilers lập luận, Bắc Kỳ và Trung Kỳ nhất thiết sẽ rơi vào vòng ảnh hưởng hoặc của Pháp hay Trung Hoa. Bởi mối quan ngại của Trung Hoa là về “bức bình phong” của biên cương phương nam, ông đề nghị rằng hai khu vực ảnh hưởng sẽ được tạo lập ra tại Bắc Kỳ với một khu trái độn trung lập nằm giữa. Trung Hoa sẽ kiểm soát vùng thượng du dọc biên giới và Pháp sẽ nắm giữ vùng châu thổ và Thung Lũng sông Hồng.(65) Đại diện Pháp tại Huế ủng hộ cho sự thỏa hiệp này. Rheinart nhìn thấy ít có giá trị thương mại tại Bắc Kỳ, và ông tuyên bố rằng Trung Hoa sẽ giữ cửa ngỏ Vân Nam bị đóng lại với mọi giá; chính vì thế, giá trị của vùng thượng du là tối thiểu đối với các quyền lợi kinh tế của Pháp và, với sự hiện diện kéo dài của các băng nhóm không chính thức hoạt động dọc biên giới, chúng sẽ trở thành một gánh nặng về mặt quản trị hành chính. Giá trị duy nhất của bất kỳ sự chiếm đóng quân sự nào bên ngoài vùng châu thổ sẽ chỉ là việc giành đoạt các quầy mặc cả cho sự thương thuyết. Vì thế, ông cũng tán thành sự thỏa thuận với Trung Hoa để phân chia Bắc Kỳ thành các khu vực ảnh hưởng.(66) Nhưng một sự thỏa hiệp cần phải đạt tới một cách mau chóng, bởi bộ đội Trung Hoa đang tiến vào Bắc Kỳ với một quân số đông đảo trong mùa thu 1882, theo các báo cáo của Pháp.(67) Lo sợ một cuộc tấn công sắp xẩy ra đã dẫn Le Myre de Vilers đến việc thỉnh cầu một sự giải quyết bằng thương thuyết, và để né tránh bất kỳ duyên cớ nào, ông ta đã hạ lệnh Rivière phóng thích bất kỳ người Trung Hoa nào, ngay cả các kẻ có vũ khí, đã bị bắt giữ.(68)

Vào mùa thu 1882, Jauréguiberry càng trở nên bực tức hơn với khuynh hướng dè dặt của Le Myre de Vilers đối với sự vụ Bắc Kỳ. Khi Le Myre de Vilers khăng khăng trong sự bào chữa của ông ta cho sự ôn hòa, Jauréguiberry không còn kiên nhẫn và ra lệnh viên thống đốc phải quay trở về Paris vào cuối năm. Với Le Myre de Vilers bị bịt miệng, Jauréguiberry cổ động cho dự án Bắc Kỳ của ông; song ông đã gặp phải sự kháng cự tại Paris. Mặc dù Duclerc ủng hộ Jauréguiberry, đã có các bộ trưởng khác trong nội các chống đối bất kỳ sự dính líu hải ngoại nào khác sau sự thất bại của vụ Ai cập. Hơn nữa, tác phong hách dịch và khá lãnh đạm của Jauréguiberry đã xúc phạm một số các đồng sự của ông, và sự trình bày dài giòng của ông về dự án khi ông đệ trình kế hoạch lên nội các trong Tháng Mười Hai đã không khắc phục sự dè dặt của họ được bao nhiêu. Jauréguiberry thú nhận một cách thẳng thắn các khó khăn liên can đến một cuộc chinh phục Bắc Kỳ, nhưng ông nhấn mạnh rằng không có sự lựa chọn nào khác và uy tín của Pháp đòi hỏi hành động tức thời. Phiên họp nội các, được tổ chức với sự hiện diện của Tổng Thống Grévy, một kẻ chỉ trích sự bành trướng thuộc địa và một người chống đối mạnh mẽ Jauréguiberry, là một phiên họp sóng gió. Grévy lập luận chống lại đề nghị, chủ trương rằng đất nước cần một thời gian yên tĩnh để an ủi, chứ không phải sự xáo trộn của các cuộc phiêu lưu hải ngoại. Jauréguiberry xem sự phê bình của Grévy như một sự xúc phạm cá nhân, và có một lúc viên Bộ Trưởng Hải Quân đã đe dọa ném toàn bộ dự án vào lò sưởi và, trong một cơn tức giận, đã thảo đơn từ chức của chính ông. Nhận thức rằng Grévy sẽ đơn giản chấp nhận nó một cách thật hả dạ, Jauréguiberry xé đơn từ chức, ném nó vào lò sưởi và vùng vằng rởi phòng họp.(69)

Cuộc khủng hoảng suýt làm sụp đổ chính phủ của Duclerc. Mặc dù ông nhận thấy rằng đề nghị nhiều tham vọng của Jauréguiberry có thể không được chấp nhận sau phiên họp nội các náo động, Duclerc đã dàn xếp một sự thỏa hiệp. Một lực lượng tăng phái bẩy trăm binh sĩ sẽ được gửi sang Bắc Kỳ, nâng lực lượng của Rivière lên khoảng một nghìn hai trăm quân. Việc này có thể được thực hiện mà không cần xin ngân khoản bổ túc từ Nghị Viện, do đó tránh được một vấn đề có thể làm sụp đổ chính phủ đang lung lay của Duclerc. Cả Grévy và Jauréguiberry đều chấp nhận sự thỏa hiệp. Jauréguiberry tin tưởng rằng lực lượng tăng phái còn chưa đủ, nhưng ông tính toán rằng các cuộc tranh chấp khác tại Bắc Kỳ là điều tất yếu và rằng chính phủ chung cuộc sẽ bị buộc phải gửi một đoàn viễn chinh quân sự với quy mô to lớn. Vào cuối Tháng Mười Hai, chiếc tàu Corrèze đã khởi hành với các binh sĩ tăng phái bổ túc cho Rivière.(70)

Sự rối loạn của nội các trên kế hoạch của Jauréguiberry trùng hợp với các tin tức về một thỏa hiệp mà Frédéric Bourée đã đạt được với một viên chức Trung Hoa cao cấp, Lý Hồng Chương (Li Hung-chang), tại Thiên Tân vào đầu Tháng Mười Hai. Trong mùa thu 1882, Bourée, kẻ trước đây đã thông báo cho chính phủ ông rằng phía Trung Hoa muốn phỉnh gạt, trở nên hoảng sợ về các sự chuẩn bị chiến tranh của Trung Hoa, và đã quyết định theo sáng kiến riêng của mình để dàn xếp một sự thỏa hiệp nhằm né tránh chiến tranh. Chính phủ Trung Hoa thông báo với Bourée trong Tháng Mười Hai rằng thỏa hiệp ông ta và Lý Hồng Chương đã đề xuất, dự trù một sự khai thông mậu dịch vào Vân Nam, sự kiểm soát của Pháp vùng châu thổ, và một khu vực ảnh hưởng của Trung Hoa dọc biên giới, sẽ là căn bản cho cuộc thảo luận sâu hơn.(71) Trong tạm thời, sẽ có một sự triệt thoái bộ đội Trung Hoa tại Bắc Kỳ để né tránh bất kỳ sự đụng độ nào với các lực lượng của Pháp. Nhất thời, có vẻ như chiến tranh giữa Trung Hoa và Pháp về Bắc Kỳ có thể được đẩy lui. Rivière báo cáo rằng bộ đội Trung Hoa đã ngưng không tiến quân vào Bắc Kỳ, rõ ràng theo lệnh từ Bắc Kinh.(72) Bourée thích chí đánh điện cho Paris rằng ông ta đã ngăn chặn được các sự giao tranh, và ông đã tạo ra cảm tưởng rằng chính phủ Trung Hoa đã hoàn toàn chấp thuận các điều khoản của thỏa ước Lý-Bourée. Trong thực tế, cả chính phủ Trung Hoa lẫn Pháp đều không có ý định phê chuẩn bản thỏa hiệp Li-Bourée, và cả hai bên tìm kiếm thời gian để chuẩn bị cho một cuộc lật bài tẩy trên vấn đề Bắc Kỳ.

Không mấy ngạc nhiên, Jauréguiberry phản đối các cuộc thương thảo Lý-Bourée mà ông nhấn mạnh nhượng bộ quá nhiều cho Trung Hoa và làm hỏng các nỗ lực để điều đình trực tiếp với Huế. Chế độ bảo hộ là một vấn đề sẽ được giải quyết một cách trực tiếp giữa Pháp và Việt Nam mà không cần quan tâm đến các ý muốn của Trung Hoa.(73) Một lần nữa, ông tại khẳng định ý kiến của ông rằng vũ lực là thiết yếu để làm nản lòng sự can thiệp của Trung Hoa và để cưỡng bách sự chấp nhận của vua Tự Đức về một chế độ bảo hộ của Pháp; các cuộc thương thảo cung cấp một khả tính cho sự triển hoãn, chứ không phải một giải pháp cho vấn đề Bắc Kỳ.(74)

Sự chống đối bất kỳ sự thỏa hiệp nào với Trung Hoa cũng đến từ các quyền lợi kinh doanh Pháp tại chính Bắc Kỳ. Victor Roques, một chủ tàu có các quyền lợi quan trọng trong các tài nguyên khoáng sản tiềm năng của Bắc Kỳ, đã viết cho chánh văn phòng bộ hải quân một bức thư phản đối lại bất kỳ sự thỏa hiệp nào không bảo toàn trọn vẹn Bắc Kỳ cho đến tận biên giới Trung Hoa. Bất kỳ điều gì kém hơn có nghĩa là sự từ bỏ các miền hầm mỏ giá trị để chỉ “thu được ít mảnh ruộng trồng lúa gạo”, ông ta phàn nàn. Ông đã thúc giục dân biểu Pháp đại diện cho Nam Kỳ, ông Blanscubé, nhấn mạnh đến số quân sĩ đủ để chiếm đóng toàn thể bắc Kỳ, và ông lập luận rằng không nhượng bộ nào cần phải đưa ra với Trung Hoa hay Việt Nam.(75) Một quyết định dứt khoát về việc chấp nhận hay bác bỏ thỏa hiệp Lý-Bourée bị triển hoãn bởi một cuộc khủng hoảng chính phủ.

Mặc dù ông chia sẻ sự nghi ngờ của Jauréguiberry về giá trị của thỏa hiệp Lý-Bourée, Duclerc từ chối không bác bỏ nó tức thời. Ông hy vọng kéo dài các cuộc thương thảo và dùng thời gian có được để tăng cường các quân số trừ bị của Pháp mà không phải lo sợ về một cuộc tấn công bất ngờ của Trung Hoa.(76) Ông tính toán rằng chính phủ của ông không đủ mạnh để yêu cầu một tín khoản mười triệu phật lăng từ Viện Dân Biểu. Cuộc tranh luận gần đây về vấn đề Bắc Kỳ làm bộc lộ sự lung lay của nội các ông, và vào cuối tháng, Duclerc bị buộc phải từ chức do kết quả của các vấn đề quốc nội ít liên quan đến Bắc Kỳ. Một chính phủ lâm thời, cầm đầu bởi Armand Fallières, được thành lập để thay thế nội các Duclerc. Hậu quả của sự thay đổi chính phủ này là Jauréguiberry phải rời khỏi bộ hải quân lần sau cùng. Bản thân chính phủ lâm thời đã chấm dứt khi Jules Ferry thành lập một nội các vào ngày 21 Tháng Hai với sự hậu thuẫn chính trị rộng rãi; nó đã chứng tỏ sẽ là một trong các chính phủ có nhiệm kỳ lâu dài hơn của Đệ Tam Cộng Hòa.

Mặc dù Jauréguiberry và Duclerc đã ra đi, các tiếng nói cho một chính sách xâm lấn vẫn kiên trì và không lâu được nghe thấy từ Charles Brun, viên Bộ Trưởng Hải Quân của Ferry. Thống Đốc mới của Nam Kỳ, Charles Thomson, đã viết rằng một giải pháp dứt khoát cho Bắc Kỳ đòi hỏi hành động quân sự tức thì. Một lực lượng bốn nghìn binh sĩ ngoài đoàn quân từ tàu Corrèze sẽ cho phép chiếm đóng các cứ địa chính tại Bắc Kỳ. Đây là kế hoạch của Jauréguiberry được hâm nóng lại. Thomson tuyên bố rằng ý kiến của người Pháp tại Nam Kỳ nhất trí ủng hộ sự can thiệp trên một quy mô sao cho bảo đảm được một chế độ bảo hộ của Pháp.(77) Cùng lúc, Rivière sốt ruột đã quyết định dùng vũ lực áp đặt vấn đề. Sử dụng các quân mới tăng phái, ông bung ra khỏi nội phận của ông ta tại Hà Nội. Các lực lượng của Lưu Vĩnh Phúc đe dọa cắt đứt lối tiếp cận của Pháp với biển, vì thế Rivière tràn ngập thành Nam Định, mang lại cho ông sự kiểm soát thủy lộ nằm bên dưới Hà Nội.(78) Rivière ước lượng rằng một lực lượng ba nghìn quân bổ túc sẽ đủ bảo đảm cho ông làm chủ toàn thể vùng châu thổ, và ông đã thúc giục rằng số tăng phái như thế cần được gửi sang. Thomson hoàn toàn ủng hộ lời yêu cầu này và thúc giục chính phủ hãy gửi đoàn viễn chinh sang ngay dù các ngân khoản vẫn chưa được chấp thuận. Bất kỳ sự trì hoãn nào cũng sẽ gây ra tai họa. (79) Ông đã thúc giục Rivière giữ vững sự phòng thủ trong khi chờ đợi sự đến nơi của quân số bổ túc.

Trong khi đó, chính phủ Ferry bác bỏ các cuộc thương thảo của Bourée với Trung Hoa. Bộ Trưởng Ngoại Giao mới, Paul Challemel-Lacour, kết luận rằng bản thỏa hiệp cho phép Trung Hoa có quyền can thiệp vào các công chuyện của Bắc Kỳ, và hoạt động mậu dịch với Vân Nam không được bảo đảm. Trong một phiên họp nội các ngày 5 Tháng Ba, nó đã quyết định bác bỏ một cách chính thức các lời tuyên xác của Trung Hoa tại Bắc Kỳ và, để đánh dấu sự không chấp thuận của chính phủ đối với thỏa ước Lý-Bourée, Bourée đã bị triệu hồi. Với quyết định này, chính phủ Ferry giờ đây quay trở lại để cứu xét hành động quân sự tại Bắc Kỳ. Như Billot, khi đó là giám đốc nha chính trị của Bộ Ngoại Giao, đã nhận định, “sự triệt thoái của các bộ đội Trung Hoa và sự khuất phục của chính phủ Việt Nam không thể nào đạt được nếu không có các sự dàn binh bố trí các lực lượng”.(80) Luận đề của Jauréguiberry giờ đây được ôm choàng bởi chính phủ Ferry, và một tuần sau đó, Challemel-Lacour biện hộ cho nhu cầu cần có một chính sách thuộc địa “đầy sinh lực” tại Thượng Viện Pháp.

Một cách khá lạ lùng, đại diện Pháp tại Trung Hoa khuyến khích sự kháng cự của Trung Hoa trước các đòi hỏi của Pháp. Khi Bourée nhận được tin về sự triệu hồi ông, ông ta đã thông báo cho Lý Hồng Chương rằng chính phủ Trung Hoa nên tiếp tục sự can dự tích cực tại Việt Nam. Trong một sự đề cập đến ông Roques, kẻ tìm kiếm sự kiểm soát trọn vẹn trên Bắc Kỳ, Bourée tuyên bố rằng chính phủ Pháp bị ảnh hưởng bởi các quyền lợi thương mại, nhưng nhân dân Pháp mong muốn né tránh chiến tranh. Lời cố vấn này, cùng với tin tức về sự chiếm giữ Nam Định của Rivière, rõ ràng đã quyết định cho chính phủ Trung Hoa để chống lại các sự tiến quân hơn nữa tại Bắc Kỳ bằng sức mạnh quân sự.(81) Các lập trường cứng rắn hơn ở cả hai phía và các sự chuẩn bị chiến tranh đã vươn tới một tầm mức cao hơn.

Sự chiếm đóng Nam Định của Rivière đã sẵn khiến cho khả tính của một sự giải quyết hòa bình về Bắc Kỳ theo các đường hướng của thỏa hiệp Lý-Bourée trở nên bất khả thi. Trong khi loan báo sự chiếm đóng Hòn Gay và Nam Định của ông ta, Rivière đã khoa trương rằng ông đã bổ túc “vùng Bắc Kỳ mỏ” vào “vùng Bắc Kỳ gạo” mà Pháp đã chinh phục trước đây, chính vì thế, tái cam đoan với người bạn và kẻ thân tín của ông ta, Victor Roques, rằng các mỏ dự trữ khoáng sản của Bắc Kỳ sẽ được cung cấp cho sự phát triển của Pháp.(82) Ông cũng tuyên bố rằng ông đã cưỡng đặt vấn đề Bắc Kỳ đến nỗi chính phủ không thể trở lùi được.(83) Tuy thế, các viên chức Pháp lo ngại rằng sự xung động của Rivière khiến sự giao chiến xảy ra quá sớm. Bộ Trưởng Hải Quân đã ra lệnh cho Rivière phải né tránh sự đụng độ với các lực lượng Trung Hoa hay với Quân Cờ Đen của Lưu Vĩnh Phúc. Các cuộc tấn công vào Bắc Ninh và Sơn Tây, nơi có các đơn vị Trung Hoa và Việt Nam đáng kể tập hợp, đã bị hoãn từ bốn đến sáu tuần lễ.(84) Chính phủ không thể đưa ra lời yêu cầu xin cấp ngân khoản trước ngày 19 Tháng Tư, Brun cảnh cáo, và ông nghi ngờ rằng các ngân khoản này sẽ được chấp thuận trước ngày 10 Tháng Năm. Ba chiếc tàu, Mytho [Mỹ Tho], Annamite, và l’Atlante đã được chuẩn bị để rời cảng Toulon và Brest với hai nghìn một trăm binh sĩ ngay sau khi các ngân khoản đầu tiên được chấp thuận, nhưng ngay với sự chấp thuận tức thời các lực lượng tăng phái này sẽ không đến được Hà Nội cho đến đầu Tháng Bẩy.(85) Trong khi đó, Đô Đốc Meyer đã được lệnh tiến vào hải phận Bắc Kỳ với các chỉ thị để cung cấp cho Rivière sự ủng hộ tòan diện trong trường hợp khẩn cấp.

Cùng lúc, bộ hải quân đã phục hồi, với hình thức giảm bớt chút ít, dự án của Jauréguiberry cho một sự chiếm đóng quân sự Bắc Kỳ. Trong Tháng Ba, một văn thư khuyến cáo sự chiếm giữ chín địa điểm chiến lược tại Bắc Kỳ, kể cả Móng Cáy [Moncay trong nguyên bản, chú của người dịch] tại biên biên Trung Hoa. Báo cáo này đã ước lượng rằng một nghìn hai trăm binh sĩ bổ túc sẽ cần có cho việc đóng các đồn quân sự tại Bắc Kỳ.(86) Sự ước lượng này mau chóng được mở rộng lên tới bốn nghìn binh sĩ, và Bộ Trưởng Ngoại Giao, Challemel-Lacour, đã sử dụng con số này trong việc khuyến cáo hành động tại Bắc Kỳ. Vào ngày 26 Tháng Tư, chính phủ đưa ra một lời yêu cầu lên Viện Dân Biểu số tiền năm triệu rưỡi phật lăng để trang trải cho các phí tổn của ba nghìn binh sĩ Âu Châu và một nghìn lính đánh thuê gốc Việt, cùng với chín tàu vũ trang bổ túc, cho cuộc viễn chinh Đông Dương. Viện Dân Biểu đã chấp thuận lời yêu cầu bằng số phiếu 351 trên 48. Sau sự tu chính tại Thượng Viện, nó đã được trả về cho sự chấp thuận chung quyết, nhất trí vào ngày 26 Tháng Năm. Lời loan báo gây xúc động mạnh về vụ chặt đầu Rivière bởi bàn tay của Quân Cờ Đen ngày 19 Tháng Năm đã mang âm vang yêu nước và xúc cảm cho quyết định vừa được lấy. Trước khi tin tức về cái chết của Rivière về tới Paris, chính phủ Pháp đã chấp thuận ý tưởng và kinh phí cho một cuộc chinh phục quân sự Bằc kỳ, tiến hành một chính sách mà Jauréguiberry đã đề nghị lần đầu trong năm 1879 và đã thuyết phục Freycinet chấp nhận trong năm kế đó. Các ngân khoản và kích thước của cuộc viễn chinh có phần nào ít hơn sự khuyến cáo của Jauréguiberry, nhưng nó là một bước tiến quyết định tiến tới sự can thiệp quân sự.

Không chỉ kinh phí của cuộc chinh phục quân sự được chấp nhận, mà cả sự rủi ro của chiến tranh cũng được nhìn nhận là khả hữu và không thể tránh khỏi. Các báo cáo của Bourée, kẻ vẫn còn ở Trung Hoa chờ đợi người sang thay thế, giờ đây đã nêu rõ ý định của Trung Hoa. Kinh lược sứ (viceroy) tại Quảng Tây đã chỉ định Tướng Feng Tzu-ts’ai là tư lệnh quân đội Trung Hoa tại Bắc Kỳ, nơi mà, theo lời cảnh cáo của Bourée, một tổng số quân lên tới khoảng một trăm năm mươi nghìn binh sĩ được báo cáo.(87) Cho tới lúc này, các sự chuẩn bị chiến tranh của Trung Hoa phần lớn được đảm trách bởi các viên chức cấp tỉnh tại Quảng Tây và Quảng Đông là các kẻ đã thúc giục chính phủ Đế Triều đáp ứng với sự đe dọa của Pháp. Sự bác bỏ của Pháp bản thỏa ước Lý-Bourée đã thúc đẩy Bắc Kinh đến chỗ hành động. Vào đầu Tháng Tư, chính phủ Trung Hoa tra hỏi về các số quân tăng phái của Pháp tại Việt Nam. Chính phủ Pháp đã trả lời rằng các hành động của Pháp xảy ra trong khuôn khổ các điều khoản của hiệp ước 1874.(88) Câu trả lời này đã không làm yên tâm các nhà lãnh đạo Trung Hoa là các kẻ đã ra lệnh một sự tiến bước quân sự nhiều hơn vào Bắc Kỳ và phái các tàu chiến bổ túc vào hải phận Việt Nam.(89) Bourée đã cảnh cáo chính phủ của ông về các sự nguy hiểm của chiến tranh, nhưng vào lúc này Paris đã cương quyết một cách vững chắc để gửi một đoàn viễn chinh sang và cưỡng hành “các quyền hạn” của hiệp ước 1874.(90) Bộ Trưởng Hải Quân cam đoan với Rivière rằng vị thế của ông ta không bị đe dọa một cách quá đáng, nhưng như một sự phòng ngừa, ông ta đã ra lệnh cho hạm đội hải quân Pháp ngăn chặn bất kỳ mưu toan nào của Trung Hoa để gửi quân tăng phái vào Bắc Kỳ bằng đường biển.(91)

Lời hứa hẹn mang lại ít sự yên tâm cho Rivière, kẻ đã báo cáo các lực lượng đông đảo của Trung Hoa và Quân Cờ Đen tập họp gần Bắc Ninh và ngay tại vùng phụ cận của chính Hà Nội. Mạnh bạo hơn bởi sự đến nơi của hai đại đội thủy quân lục chiến từ Nam Kỳ, Rivière đã quyết định thử thách sự táo tợn gia tăng và, như ông ta nhìn, sự cao ngạo của các lực lượng của Lưu Vĩnh Phúc.(92) Vào ngày 19 Tháng Năm, ông tấn công Quân Cờ Đen bên ngoài cổng thành Hà Nội và bị hạ sát trong cuộc trận đánh gần nơi mà Garnier đã ngã gục gần một thập niên trước đó. Lần này, không giống năm 1874, chính phủ từ chối không trở lui khỏi một sự giao chiến quân sự cách xa hơn sáu nghìn dặm với mẫu quốc Pháp. Sự tin tưởng của Le Myre de Vilers rằng Bắc Kỳ có thể giành thắng được “một cách hòa bình và tiệm tiến” và hy vọng của bộ ngoại giao rằng vua Tự Đức sẽ chịu phục tùng trước áp lực ngoại giao đã nhường bước cho một sự hiện thực hóa rằng sức mạnh vũ trang thì cần thiết để phá vỡ sự kháng cự của Việt Nam và để thuyết phục Trung Hoa rằng Pháp đã bác bỏ mối quan hệ đặc biệt của Vương Quốc Trung Tâm với Việt Nam. Để giành đoạt sự bảo hộ của mình, chính phủ Pháp đã lao vào một cuộc chiến tranh trên đất liền để chinh phục Bắc Kỳ; cuộc chinh phục này nhiều hơn một cuộc chiến tranh để thu đoạt các căn cứ hải quân, các đặc nhượng thương mại, và căn cứ yểm trợ [points d’appui, tiếng Pháp trong nguyên bản, chú của người dịch].

Cái chết của Rivière và lời kêu gọi ủng hộ của Ferry thường được nhìn như các biến cố quyết định trong sự chen lấn của Pháp để giành giựt Bắc Kỳ. Đúng là Ferry đã đẩy ra trước, viện dẫn nhu cầu bảo vệ danh dự và uy tín dân tộc, và ông đã tán dương các sự giàu có thương mại sẽ giành đoạt được tại Bắc Kỳ. Chính phủ của ông đã khởi sự một sự gia tăng các lực lượng Pháp lên tới khoảng ba mươi lăm nghìn binh sĩ vào lúc chiến tranh giành Bắc Kỳ kết thúc. Song Ferry đã mang thi hành một chính sách mà Jauréguiberry đã đề xuất đầu tiên và đã vận động trong hai nhiệm kỳ tại bộ hải quân. Vào lúc Jauréguiberry rời chức vụ trước ngày có nội các lần thứ nhì của Ferry, một sự cam kết về chính sách đế quốc quân sự tại Bắc Kỳ đã sẵn được thực hiện. Mặc dù ông không còn giữ chức vụ, Jauréguiberry đã thắng lợi trong cuộc tranh luận. Ông đã cung cấp chất xúc tác sinh tử cho chủ nghĩa đế quốc của phe cộng hòa giữa các năm 1879 đến năm 1883. Jauréguiberry đã giành được tiếng tăm quân sự dưới thời Đệ Nhị Đế Chính (Second Empire), kể cả công tác tại Nam Kỳ, nhưng ông đã xây dựng sự nghiệp chính trị của mình dưới thời Đệ Tam Cộng Hòa với việc thuyết phục trước tiên Freycinet và sau đó Duclerc rằng Bắc Kỳ thì quan trọng cho các quyền lợi của Pháp tại Á Châu và rằng đáng trả giá cho một cuộc chinh phục quân sự. Các áp lực được tạo ra bởi các tác nhân hung hăng tại diễn trường, chẳng hạn như Rivière, thì quan trọng. Nhưng đã có các tiếng nói khác ủng hộ cho một chiều hướng dè dặt hơn, nổi bật là Le Myre de Vilers, và đã có các kẻ chống đối là chính sách để quốc cần phải được khắc phục, chẳng hạn như Grévy. Trong khi các diễn tiến địa phương, trên hết là sự can thiệp của Trung Hoa, đã giúp định hình các thái độ và sự đáp ứng của Pháp đối với các biến cố tại vùng ngoại vi, quyết định chung cuộc để can thiệp nằm tại Paris, và ở đây Jauréguiberry là một kẻ bênh vực thường trực cho sự bành trướng giữa các năm 1879 đến 1883. Jauréguiberry đã quyết tâm khắc phục sự kháng cự của Việt Nam và gạt sang một bên các sự tuyên xác của Trung Hoa. Những gì Jauréguiberry loan báo là một kỷ nguyên của chính sách đế quốc quân sự cho nước Pháp có nghĩa sự chiếm đóng và, nếu cần, các chiến dịch chứ không phải chỉ có chính sách ngoại giao bằng tàu vũ trang.

Về các động lực của Jauréguiberry, ông đã sử dụng các lập luận kinh tế, các nhu cầu chiến lược, các đòi hỏi của uy tín quốc gia, và sự tranh giành với các cường lực khác, chẳng hạn như Đại Anh Cát Lợi hay Trung Hoa, để biện minh cho sự can thiệp. Đây là các lập luận bổ túc, chứ không cạnh tranh, để tán thành chính sách đế quốc quân sự. Cuộc chinh phục Bắc Kỳ được nêu ra như cần thiết cho sự khẳng định sức mạnh của Pháp tại hải ngoại và để mang lại “trật tự” cho một Bắc Kỳ xáo trộn như một bước mở đầu cần thiết cho sự thống trị kinh tế và chính trị. Sự can thiệp của Pháp, Jauréguiberry nhấn mạnh, là quan yếu để ngăn chặn “nạn cướp bóc’ của Lưu Vĩnh Phúc, để loại trừ “các sự né tránh” và “các nhược điểm” của vua Tự Đức, và để chấm dứt sự tuyên xác của Trung Hoa về một quyền lợi sinh tử trong các sự vụ của Việt Nam. Các điều kiện địa phương – hay ít nhất sự nhận thức của Jauréguiberry về chúng – đã cung cấp một căn bản lý luận cho sự can thiệp. Đàng sau các lập luận là một quyết tâm muốn khẳng định quyền lực của Pháp ở hải ngoại. Các sự tế nhị của các quan hệ giữa chính quyền Việt Nam và Lưu Vĩnh Phúc hay tầm quan trọng của các sự ràng buộc cổ truyền giữa Trung Hoa và Việt Nam đối với Jauréguiberry không có nghĩa gì khác hơn các duyên cớ để thách thức các đòi hỏi của Pháp. Sự trợ giúp của Trung Hoa cho Việt Nam trong các năm 1878-79 dẫn Jauréguiberry đến sự kết luận rằng sự can thiệp quân sự không thế tránh khỏi hay nếu bị trì hoãn lâu dài, sẽ gây tổn hại cho uy tín của Pháp tại Á Châu. Bởi việc phủ nhận mối quan hệ triều cống giữa Việt Nam và Trung Hoa và gán cho vai trò của Lưu Vĩnh Phúc chỉ đơn giản là “quân thổ phỉ”, Jauréguiberry đã xác định cuộc khủng hoảng tại vùng ngoại vi theo một cung cách cốt để biện minh được cho sự can thiệp. Bởi việc đặt định Pháp theo một đường hướng chinh phục quân sự Bắc Kỳ, ông cũng đã xếp đặt nước Pháp tiến tới một cuộc chiến tranh không tuyên chiến với Trung Hoa. Chính chính sách này và một niềm tin rằng sự can thiệp vũ trang biện minh cho các rủi ro kinh tế và chính trị là điều mà Jules Ferry đã thừa kế; ông ta đã làm cú đẩy sau chót cho một sự chen lấn giành giựt mà Jauréguiberry đã khởi động.

Ảnh: in trong Le Monde Illustré năm 1891.
1. Toàn Cảnh Lào Cai, tiền đồn của Pháp
2. Tàu Vân Nam, tại bến sông Hà Nội
3. Đường phố bị ngập lụt của Hà Nội
4. Bãi đổ bộ hành khách và hàng hóa của Hà Nội

_____

Chú thích:

Kim Munholland là phó giáo sư về lịch sử tại Đai Học University of Minnesota.

Tác giả xin cám ơn Quỹ McMillan và Phòng Các Chương Trình Quốc Tế (Office of International Programs) tại Đại Học University of Minnesota về các khoản trợ cấp để hỗ trợ cho việc nghiên cứu bài viết này.

1. Câu phát biểu đầu tiên của luận đề là của các tác giả John Gallagher và Ronald Robinson, trong bài “The Imperialism of Free Trade”, Economic History Review, VI (1953), 1-15; được khai triển hơn nữa bởi cùng các tác giả trong bài “The Partition of Africa”, trong tạp chí The New Cambridge Modern History, XI: Material Progress and World Wide Problems, 1870-98 (Cambridge, 1962), 593-95; cũng xem D. K. Fieldhouse, Economics and Empire 1830-1914 (Ithaca, 1973), các trang 460-63, để có một sự phát biểu khác về lý thuyết “ngoại vi”; một cuộc thảo luận tuyệt hảo về “luận đề Robinson-Gallagher” và sự tranh cãi có thể được tìm thấy nơi phần giới thiệu quyển sách biên tập bởi Wm. Roger Louis, Imperialism: The Robinson and Gallagher Controversy (New York, 1976), các trang 2-51.

2. A. S. Kanya-Forster, “Myths and Realities of African Resistance”, trong Canadian Historical Association, Historical Papers Presented at the Annual Meeting (Ottawa, 1969), trang 198.

3. Ronald Robinson, John Gallagher, và Alice Deny, Africa and the Victorians: The Official Mind of Imperialism (London, 1961), rải rác; C. W. Newbury và A. S. Kanya-Forstner, “French Policy and the Origins of the Scramble for West Africa”, Journal of African History, X (1969), 274; C. M. Andrew, “The French Colonialist Movement During the Third Republic: The Unofficial Mind of Imperialism”, Transactions of the Royal Historical Society, XXVI (London, 1976), 143-66.

4. T. F. Power, Jules Ferry and the Renaissance of French Imperialism (New York, 1944), trang 161; Fresnette Pisani-Ferry, Jules Ferry et le partage du monde (Paris, 1962), trang 147.

5. Về vai trò của Jauréguiberry trong cuộc chen lấn giành giựt Phi Châu, xem: Newberry và Kanya-Forstner, “French Policy”, trang 274; A. S. Kanya-Forstner, The Conquest of the Western Sudan: A Study in French Military Imperialism (Cambridge, 1969), trang 64.

6. Thống Đốc Nam Kỳ gửi Bộ Trưởng Hải Quân, November 9, 1870, Archives Nationales, Section d’Outre-Mer (từ giờ về sau viết tắt là ANSOM), Indochine A30(15).

7. Ella S. Laffey, “French Adventurers and Chinese bandits in Tonkin: The Garnier Affair in Its Local Context”, Journal of Southeast Asian Studies, VI (1975), 43.

8. Bộ Trưởng Hải Quân và Thuộc Địa gửi Thống Đốc Nam Kỳ, Cochinchina, January 7, 1874, ANSOM, Indochine A30(19); cũng được in trong quyển của ông Dutreb (M. Bert), L’Amiral Dupré et la conquête du Tonkin (Paris, 1924), trang 98; và trong quyển của Georges Taboulet, La Geste franҫaise en Indochine, II (Paris, 1956), 738.

9. Thống Đốc Nam Kỳ gửi Bộ Trưởng Hải Quân và Thuộc Địa, April 9, 1875, ANSOM A30(19).

10. Cùng người gửi đến cùng người nhận, September 21, 1875, cùng nơi dẫn trên; cũng xem Charles Fourniau, “La genèse et l’évolution de l’affaire du Tonkin”, Revue historique, CCXLVI (October-December 1971), 378.

11. “Memorandum on History of negotiations with Huế and the Tonkin Affair”, soạn thảo cho Bộ Trưởng Hải Quân và Thuộc Địa, December 1876, ANSOM, Indochine A00(13); cũng xem, Bộ Trưởng Ngoại Giao gửi Bộ Trưởng Hải Quân và Thuộc Địa, September 6, 1877, Archives, Ministère des Affaires Étrangères (từ giờ về sau viết tắt là MAE), Mémoires et Documents, Asie 34; được in trong MAE, Documents Diplomatiques, no. 66 (Livre Jaune), Affaires du Tonkin (1874-Décembre 1882), no. 24.

12. Bộ Trưởng Hải Quân và Thuộc Địa gửi Bộ Trưởng Ngoại Giao, April 19, 1875, cùng nơi dẫn trên, no. 8.

13. Lãnh Sự Pháp tại Hải Phòng gửi Thống Đốc Nam Kỳ, December 5, 1878, Livre Jaune, no. 38; cũng xem, Thống Đốc Nam Kỳ gửi Bộ Trưởng Hải Quân và Thuộc Địa, December 16, 1878, ANSOM, Indochine A30(33).

14. Bộ Trưởng Hải Quân và Thuộc Địa gửi Bộ Trưởng Ngoại Giao, January 9, 1879, MAE, Mémoires et Documents, Asie 35.

15. Bộ Trưởng Ngoại Giao gủi Sứ Thần Pháp tại Trung Hoa, July 25, 1878, Livre Jaune, no. 32.

16. Cùng người gửi đến cùng người nhận, May 30, 1877, Livre Jaune, no. 21.

17. Lãnh Sự Pháp tại Hà Nội gửi Thống Đốc Nam Kỳ, March 24, 1879, ANSOM, Indochine A30(31).

18. M. Raindre (Huế) gửi Thống Đốc Nam Kỳ, June 12, 1879, MAE, Mémoires et Documents, Asie 35.

19. Thống Đốc Nam Kỳ gửi Bộ Trưởng Hải Quân và Thuộc Địa, April 8, 1879, ANSOM, Indochine A30(31).

20. Ella Laffey, “The Content of the Sino-Vietnamese Tributary Relationship in the Late Nineteenth Century”, bài viết chưa được ấn hành, trang 8.

21. Bộ Trưởng Hải Quân gửi Bộ Trưởng Ngoại Giao, June 18, 1879, MAE, Mémoires et Documents, Asie 35; cùng người gửi đến cùng người nhận, June 2, 1879, ANSOM, Indochine A31(31).

22. Báo cáo của Tiểu Ban về Bắc Kỳ (Report of Subcommittee on Tonkin), Bộ Hải Quân, July 4, 1879, ANSOM, Indochine A00(14).

23. Bộ Trưởng Hải Quân và Thuộc Địa gửi Bộ Trưởng Ngoại Giao, October 1, 1879, Livre Jaune, no. 53.

24. Cùng người gửi đến cùng người nhận, October 17, 1879, cùng nơi dẫn trên, no. 54.

25. “Memorandum for Council of Ministers”, November 1879, MAE, Mémoires et Documents, Asie 35.

26. Bộ Trưởng Ngoại Giao gửi Bộ Trưởng Hải Quân và Thuộc Địa, January 31, 1880, ANSOM, Indochine A30(38); Fourniau, “La genèse” trang 381.

27. “Memorandum of January 1880”, MAE, Mémoires et Documents, Asie 36.

28. France, Commission de publication des documents relatives aux origins de la guerre de 1914”. Documents Diplomatiques franҫais, 1871-1914 (từ giờ về sau viết tắt là D. D. F.), 1 sér. Vol. iii; Thống Đốc Nam Kỳ gửi Bộ Trưởng Hải Quân và Thuộc Địa, May 28, 1880, #138; cùng người gửi đến cùng người nhận, May 24, 1880, ANSOM, Indochine B11(6).

29. Các sự thỉnh cầu đề ngày 25 Tháng Hai, 1 Tháng Tư, Tháng Năm, Tháng Tám, 1880, ANSOM, Indochine A30(38).

30. Xử Lý Thường Vụ Pháp tại Bắc Kinh gửi Bộ Trưởng Ngoại Giao, December 25, 1879, MAE, Mémoires et Documents, Asie 36, và Livre Jaune, no. 59.

31. Bộ Trưởng Ngoại Giao gửi Bộ Trưởng Hải Quân và Thuộc Địa, May 24, 1880, ANSOM, Indochine B11(6).

32. Bộ Trưởng Ngoại Giao gửi Bộ Trưởng Hải Quân và Thuộc Địa, July 24, 1880, Livre Jaune, no. 70.

33. Bộ Trưởng Hải Quân và Thuộc Địa gửi Bộ Trưởng Ngoại Giao, November 5, 1879, Livre Jaune, no. 72.

34. Thống Đốc Nam Kỳ gửi Bộ Trưởng Hải Quân và Thuộc Địa, October 16, 1880, ANSOM, Indochine B11(6).

35. Cùng người gửi đến cùng người nhận, September 6, 1881, ANSOM, Indochine A30(50).

36. Bộ Trưởng Ngoại Giao gửi Bộ Trưởng Hải Quân và Thuộc Địa, August 18, 1881, Livre Jaune, no. 90.

37. Bộ Trưởng Hải Quân và Thuộc Địa gửi Thống Đốc Nam Kỳ, Cochinchina, September, 1881, Livre Jaune, no. 93 (Annex).

38. Thống Đốc Nam Kỳ gửi Bộ Trưởng Hải Quân và Thuộc Địa, September 27, 1881, ANSOM, Indochine A30(53).

39. Lloyd E. Eastman, Throne and mandarins: China’s Search for a Policy during the Sino-French Controversy 1880-1885 (Cambridge, Mass., 1967), các trang 51-57.

40. Sứ Thần Trung Hoa tại Pháp gửi Bộ Trưởng Ngoại Giao Pháp, September 24, 1881, MAE, Mémoires et Documents, Asie 37; Livre Jaune, no. 92.

41. Bộ Trưởng Ngoại Giao gửi Sứ Thần Trung Hoa tại Pháp, January 1, 1882, Livre Jaune, no. 97.

42. Bản dịch “Bản Ghi Nhớ” (Memorandum) của Ching-hu, đề Tháng Hai 1882, MAE, Mémoires et Documents, Asie 39.

43. Eastman, Throne and mandarins, trang 54.

44. Thống Đốc Nam Kỳ gửi Bộ Trưởng Thương Mại và Thuộc Địa, MAE, Mémoires et Documents, Asie 37; Charles-Robert Agéron, “Gambetta et la reprise de l’expansion colonial”, Revue franҫaise d’histoire d’outre-mer, LIX (1972), 188.

45. Thống Đốc Nam Kỳ gửi Bộ Trưởng Thương Mại và Thuộc Địa, January 16, 1882 (điện tín), Livre Jaune, no. 99.

46. Có một số bằng chứng rằng Gambetta đã hoạch định một cuộc viễn chinh ồ ạt vào Bắc Kỳ khi ông lên nắm quyền vào cuối năm 1881, phản ảnh sự tin tưởng của ông ta rằng một chính sách thuộc địa mãnh liệt sẽ nâng cao uy tín của Pháp. Vào ngày 17 Tháng Một, 1882, bộ trưởng hải quân, Đô Đốc Gougéard, đã đánh điện cho Le Myre de Vilers với các mệnh lệnh đình chỉ mọi hành động để chờ sự cập bến Sàigòn của Đô Đốc Pierre, được nghĩ sẽ đảm nhận việc chỉ huy một cuộc viễn chinh quan trọng; Bộ Trưởng Hải Quân gửi Thống Đốc Nam Kỳ, January 16, 1882, Livre Jaune, no. 100. Tờ báo của Gambetta, La République franҫaisẹ từ lâu đã tán thành sự bành trướng ra Bắc Kỳ, và quyết định của Gambetta để phái Đô Đốc Pierre với một lực lượng đáng kể có thể là bước đầu tiên tiến tới sự bành trướng quân sự dưới sự bảo trợ của phe cộng hòa; William B. Cohen, “Gambettists and Colonial Expansion Before 1881: The République franҫaise”, French Colonial Studies, I (Spring 1977), 55-56. Theo tác giả Agéron, một trong các cố vấn của Gambetta về hải quân và thuộc địa sự vụ là Đô Đốc Peyron, kẻ ủng hộ chính sách xâm lấn của Jauréguiberry; Charles-Robert Agéron, “Gambetta et la reprise de l’expansion colonial”, các trang 186-90. Đô Đốc Gougéard về sau có ấn hành một tập tường thuật tuyên bố rằng các sự chuẩn bị cho cuộc viễn chinh quân sự của Đô Đốc Pierre vào Bắc Kỳ đã được thực hiện dưới thời chính phủ Gambetta, nhưng không có mệnh lệnh nào đề cập đến việc đó được xuất hiện trong các văn khố của các bộ chiến tranh, hải quân, hay bộ thuộc địa. Một sự tường thuật đương thời khác xuất hiện trong quyển của Bernard Lavergne, Les deux présidences de Jules Grévy, 1879-1887: Mémoires de Bernard Lavergne (Paris, 1966), các trang 143, 149-50. Lavergne có trích dẫn lời tuyên bố của Đô Đốc Galiber rằng Gambetta đã âm mưu một cuộc viễn chinh trên quy mô to lớn tại Bắc Kỳ trước khi đảm nhận chức vụ. Bởi Lavergne đối nghịch với Gambetta, Jauréguiberry, và một chính sách bành trướng thuộc địa, bằng chứng của ông có thể có thiên kiến và sự hồi tưởng của Galiber, như tác giả Agéron đã chứng minh, có phần nào sai lạc. Dù thế, có bằng chứng gián tiếp (circumstantial evidence) rằng Gambetta chủ định một chính sách xâm lấn hơn tại Bắc Kỳ.

47. Bộ Trưởng Ngoại Giao gửi Bộ Trưởng Hải Quân và Thuộc Địa, March 16, 1882, Livre Jaune, no. 105.

48. Thống Đốc Nam Kỳ gửi Bộ Trưởng Hải Quân và Thuộc Địa, May 2, 1882, ANSOM, Indochine A30(54).

49. Thống Đốc Nam Kỳ gửi Tư Lệnh Các Lực Lượng Pháp tại Bắc Kỳ (Rivière), March 2, 1882, MAE, Mémoires et Documents, Asie 38; Thống Đốc Nam Kỳ gửi Bộ Trưởng Hải Quân và Thuộc Địa, September 24, 1882, ANSOM, Indochine A30(55).

50. Xử Lý Thường Vụ Pháp tại Huế gửi Thống Đốc Nam Kỳ, May 12-14, 1882, cùng nơi dẫn trên; Fourniau, “La genèse”, trang 389.

51. Eastman, Throne and Mandarins, trang 55.

52. Sứ Thần Pháp tại Bắc Kinh gửi Bộ Trưởng Ngoại Giao, May 14, 1882, ANSOM, Indochina B11(8).

53. Thống Đốc Nam Kỳ gửi Xử Lý Thường Vụ Pháp tại Huế, May 23, 1882, Livre Jaune, no. 121 (Annex 1).

54. Thống Đốc Nam Kỳ gửi Tư Lệnh Các Lực Lượng Pháp tại Bắc Kỳ (Rivière), July 15, 1882, MAE, Mémoires et Documents, Asie 39.

55. Thống Đốc Nam Kỳ gửi Bộ Trưởng Hải Quân và Thuộc Địa, July 17, 1882, cùng nơi dẫn trên.

56. Cùng người gửi đến cùng người nhận, July 17, 1882, ghi chú bên lề ANSOM, Indochine A30(54).

57. Bộ Trưởng Hải Quân và Thuộc Địa gửi Chủ Tịch Hội Đồng và Bộ Trưởng Ngoại Giao, June 30, 1882, MAE, Mémoires et Documents, Asie 39.

58. Cùng người gửi đến cùng người nhận, September 8 và 12, 1882, cùng nơi dẫn trên.

59. Cùng người gửi đến cùng người nhận, October 12, 1882, cùng nơi dẫn trên.

60. Cùng người gửi đến cùng người nhận, October 15, 1882, cùng nơi dẫn trên.

61. Chủ Tịch Hội Đồng và Bộ Trưởng Ngoại Giao gửi Bộ Trưởng Hải Quân và Thuộc Địa, October 22 và 23, 1882, cùng nơi dẫn trên.

62. Bộ Trưởng Hải Quân và Thuộc Địa gửi Chủ Tịch Hội Đồng và Bộ Trưởng Ngoại Giao, October 31, 1882, cùng nơi dẫn trên.

63. “Memorandum for Colonial Division”, Bộ Hải Quân và Thuộc Địa, November 7, 1882, ANSOM, Indochine A00(18).

64. Bộ Trưởng Ngoại Giao gửi Bộ Trưởng Hải Quân và Thuộc Địa, November 14, 1882, Livre Jaune, no. 139.

65. Thống Đốc Nam Kỳ gửi Bộ Trưởng Hải Quân và Thuộc Địa, September 8, 1882, MAE, Mémoires et Documents, Asie 39.

66. Xử Lý Thường Vụ Pháp tại Huế gửi Thống Đốc Nam Kỳ, September 16, 1882, ANSOM, Indochine A30(55); Cùng người gửi đến cùng người nhận, September 30, 1882, MAE, Mémoires et Documents, Asie 39; Cùng người gửi đến cùng người nhận, January 18, 1883, ANSOM, Indochine A30(59).

67. Trong Tháng Mười Một, Lãnh Sự Pháp tại Hồng Kông báo cáo rằng hai mươi nghìn binh sĩ Trung Hoa đã tiến vào Bắc Kỳ từ mùa hè; Bộ Trưởng Ngoại Giao gửi Bộ Trưởng Hải Quân và Thuộc Địa, ANSOM, Indochine B11(7).

68. Tư Lệnh Pháp tại Bắc Kỳ (Rivière) gửi Bộ Trưởng Hải Quân và Thuộc Địa, November 24, 1882, Archives de la Ministère de la Marine (từ giờ về sau viết tắt là Marine Arch.), BB4/1947.

69. Billot, L’Affaire du Tonkin (Paris, 1888), các trang 10-12; Lavergne, Mémoires, trang 96.

70. Billot, L’Affaire du Tonkin, các trang 13-17.

71. Sứ Thần Pháp tại Trung Hoa (Điện Tín) gửi Bộ Trưởng Ngoại Giao, December 5, 1882, Livre Jaune, no. 140; ANSOM, Indochina B11(10).

72. Tư Lệnh Pháp tại Bắc Kỳ (Rivière) gửi Bộ Trưởng Hải Quân và Thuộc Địa, January 19, 1882, Marine Arch., BB4/1947.

73. Bộ Trưởng Hải Quân và Thuộc Địa gửi Bộ Trưởng Ngoại Giao, January 2, 1883, ANSOM, Indochine A30(58).

74. Cùng người gửi đến cùng người nhận, January 26, 1883, Livre Jaune, no. 165.

75. M. Roques gửi Thống Đốc Nam Kỳ cho [nhờ chuyển đến?] Đô Đốc Lespés, chánh văn phòng Bộ Hải Quân, January 14, 1883, ANSOM, Indochine A00(19); M. Roques gửi M. Blanscubé, dân biểu Nam Kỳ, February 22, 1883, cùng nơi dẫn trên; cùng xem, Taboulet, La Geste, II, 787-88.

76. Bộ Trưởng Ngoại Giao gửi Bộ Trưởng Hải Quân và Thuộc Địa, January 13, 1883, ANSOM, Indochine A30(58); Billot, Affaire du Tonkin, các trang 22-23.

77. Thống Đốc Nam Kỳ gửi Bộ Trưởng Hải Quân và Thuộc Địa, February 24, 1883, Marine Arch., BB4/1947.

78. Tư Lệnh Pháp tại Bắc Kỳ (Rivière) gửi Bộ Trưởng Hải Quân và Thuộc Địa, cùng nơi dẫn trên.

79. Cùng người gửi đến cùng người nhận, March 31, 1883, cùng nơi dẫn trên.

80. Billot, Affaire du Tonkin, trang 38.

81. Eastman, Throne and Mandarins, các trang 67-68.

82. Tư Lệnh Pháp tại Bắc Kỳ (Rivière) gửi Bộ Trưởng Hải Quân và Thuộc Địa, March 24, 1883, Marine Arch., BB4/1948; Dieter Broter, Franzosischer Imperialismus in Vietnam: Die koloniale Expansion und die Errichtung des Protectorates Annam-Tongking 1880-1885 (Zurich, 1971), các trang 131-32.

83. Rivière, thư ngày 8 Tháng Năm, 1883 gửi Bà Caillavet, được trích dẫn trong sách của Taboulet, La Geste, II, trang 794.

84. Thống Đốc Nam Kỳ gửi Bộ Trưởng Hải Quân và Thuộc Địa, April 1, 1883, Marine Arch., BB4/1947; Bộ Trưởng Hải Quân và Thuộc Địa gửi Bộ Trưởng Ngoại Giao, April 3, 1883; Bộ Trưởng Hải Quân và Thuộc Địa gửi Thống Đốc Nam Kỳ và Bộ Trưởng Hải Quân và Thuộc Địa gửi Tư Lệnh Sư Đoàn Hải Quân Pháp (French Naval Division), April 4, 1883, Livre Jaune, no. 174 (và Annexes); Bộ Trưởng Hải Quân và Thuộc Địa gửi Thống Đốc Nam Kỳ, April 6, 1883, Livre Jaune, no. 175; Tư Lệnh Pháp tại Bắc Kỳ (Rivière) gửi Bộ Trưởng Hải Quân và Thuộc Địa, April 19, 1883, Marine Arch., BB4/1947.

85. Bộ Trưởng Hải Quân và Thuộc Địa gửi Tư Lệnh Sư Đoàn Hải Quân Pháp (French Naval Division), April 27, 1883, Marine Arch., BB4/1946; Bộ Trưởng Hải Quân và Thuộc Địa gửi Thống Đốc Nam Kỳ, April 6, 1883, và Bộ Trưởng Hải Quân và Thuộc Địa gửi Bộ Trưởng Ngoại Giao, April 8, Livre Jaune, no. 174 và no. 177.

86. “Memorandum for the Minister”, Bộ Hải Quân và Thuộc Địa, March 1883, ANSOM, Indochine A00(18).

87. Đại diện Pháp tại Trung Hoa (lâm thời; pro tem) gửi Bộ Trưởng Ngoại Giao (điện tín), May 3, 1883, ANSOM, Indochine B11(10), và Cùng người gửi đến cùng người nhận, May 13, 1883, Livre Jaune, no. 190.

88. Tổng Lý Nha Môn (Tsong-li Yamen) gửi Hầu Tước Tseng, Sứ Thần Trung Hoa tại London, April 2, 1883, Livre Jaune, no. 173; Henri Cordier, Histoire des relations de la Chine avec les puissances occidentals, 3 vols., (Paris, 1901-02), II, 374.

89. Eastman, Throne and Mandarins, các trang 71-72.

90. . Đại diện Pháp tại Trung Hoa (lâm thời; pro tem) gửi Bộ Trưởng Ngoại Giao (điện tín), April 16, 1883, Livre Jaune, no. 180; Bộ Trưởng Ngoại Giao gửi Đại Diện Pháp tại Trung Hoa (lâm thời; pro tem) April 27, 1883, Livre Jaune, no. 183.

91.Bộ Trưởng Hải Quân và Thuộc Địa gửi Tư Lệnh Pháp tại Bắc Kỳ (Rivière), May 11, 1883, Marine Arch., BB4/1946.

92. Tư Lệnh Pháp tại Bắc Kỳ (Rivière) gửi Bộ Trưởng Hải Quân và Thuộc Địa, May 10, 1883, Marine Arch., BB4/1948./-

_____

Phụ chú:

Sơ Lược Tiểu Sử của Jauréguiberry

Jean Bernard Jauréguiberry (sinh ngày 26 Tháng Tám 1815 – mất ngày 21 Tháng Mười 1887) là một đô đốc hải quân và chính khách Pháp.

Bản quán tại Bayonne, Jauréguiberry gia nhập Hải Quân Pháp trong năm 1831. Ông thăng cấp liên tục, trở thành trung úy trong năm 1845, trung tá trong năm 1856, và đại tá trong năm 1860. Sau khi phục vụ tại Crimea và Trung Hoa, và là thống đốc tại Sénégal, ông được thăng làm phó đề đốc trong năm 1869.

Ông đã phục vụ trên đất liền trong phần thứ nhì của cuộc chiến tranh Pháp-Phổ. Ông có mặt tại Coulmiers, Villpion và Loigny-Poupry, với tư cách tư lệnh sư đoàn, và trong cuộc triệt thoái của Chanzy trên vùng Lemans, với tư cách tư lệnh một quân đoàn.

Vào ngày 9 Tháng Mười Hai, ông được thăng làm phó đô đốc, và trong năm 1871, ông chỉ huy hạm đội tại Toulon; năm 1875 ông là thành viên của hội đồng luật hải quân sự vụ (council of admiralty), và trong Tháng Mười 1876, ông được bổ nhiệm làm tư lệnh hạm đội tuần cảnh vùng Địa Trung Hải.

Tháng Hai năm 1879, ông trở thành Bộ Trưởng Hải Quân trong nội các Waddington, và vào ngày 27 Tháng Năm kê đó, được bầu làm một thượng nghị sĩ suốt đời. Ông trở lại làm bộ trưởng hải quân trong nội các của Freycinet trong năm 1880. Ông mất tại Paris trong Tháng Mười năm 1887.

Nguồn: Wikipedia

BÌNH LUẬN

BÀI VIẾT LIÊN QUAN