Lòng tin - Sự chân thành - Đoàn kết: Bí mật thành công của Việt Nam

Tết Độc Lập năm nay, kỷ niệm 80 Năm Cách mạng Tháng tám thành công và Quốc khánh 2-9 năm 2025 của Việt Nam đã trở thành một “hiện tượng” chiếm trọn nhiều trang đầu của những tờ báo uy tín nhất thế giới, bởi những câu chuyện và hình ảnh đẹp đẽ của không khí hân hoan, hào hùng và đặc biệt là sự gắn kết đến lạ lùng của cả một dân tộc từ già đến trẻ, mọi giai tầng xã hội trong một niềm vui chung, thiêng liêng và vĩ đại: Ngày đất nước Việt Nam được Độc Lập – Tự Do.

Không khí hào hùng đó còn được nhân lên và thăng hoa bởi sự hiện diện của hơn 20 đoàn khách quốc tế, bao gồm lãnh đạo cấp cao các nước, các chính đảng và tổ chức quốc tế trong dịp Lễ trọng này và rất nhiều điện mừng của các Nguyên thủ, lãnh đạo cao cấp của nhiều cường quốc, quốc gia, các tổ chức quốc tế, các học giả và giới truyền thông đã được gửi đến cho lãnh đạo Đảng, Nhà nước và Nhân dân Việt Nam.

Bên cạnh những tình cảm nồng ấm, tin yêu, còn là sự ngưỡng mộ mà bạn bè quốc tế đã dành cho đất nước và con người Việt Nam, nhiều nhận xét cho rằng Việt Nam đã biến “những điều không thể thành có thể” và hành trình độc lập của Việt Nam có thể được coi như “sử thi anh hùng”, truyền cảm hứng cho các dân tộc bị áp bức trên thế giới. Với sự ổn định chính trị và vị thế cao hiện nay, Việt Nam đã chứng minh chủ nghĩa xã hội và cải cách thị trường có thể tương tác tích cực, trở thành mô hình cho các nước đang phát triển.

Cảnh tượng Nhân dân nô nức, hân hoan chào mừng Lễ diễu binh, diễu hành kỷ niệm 80 năm Cách mạng Tháng Tám thành công và Quốc khánh 2/9, thể hiện lòng yêu nước làm cho bạn bè quốc tế ngưỡng mộ. Ảnh: TTXVN

Việt Nam là hình mẫu của việc biến kẻ thù thành bạn bè và Việt Nam ngày nay không chỉ là một phần của thế giới đang thay đổi nhanh chóng, mà còn là một nhân tố góp phần tích cực vào việc định hình tương lai của thế giới với tinh thần đầy quả cảm, đầy trách nhiệm vì lợi ích chung của cộng đồng quốc tế, thể hiện cam kết mạnh mẽ trong việc thúc đẩy hòa bình và ổn định toàn cầu…

Đã có nhiều câu hỏi đặt ra là, tại sao Việt Nam, một đất nước từng bị tổn thương và đau khổ tận cùng bởi chiến tranh và nghèo đói, bị bao vây cấm vận, không những đã không sụp đổ mà lại có thể vững vàng vươn lên đầy tự hào và kiêu hãnh và đang trở thành biểu tượng của sự bao dung, cởi mở, thủy chung và đoàn kết trong một thế giới mà bối cảnh địa chính trị đầy phức tạp, bất ổn và đầy nghi kỵ. Bí mật của Việt Nam nằm ở đâu?

Trong lịch sử quan hệ quốc tế, ít có dân tộc nào đã phải trải qua quá nhiều hy sinh và mất mát bởi chiến tranh, chia cắt, hy sinh như dân tộc Việt Nam. Hơn ai hết, người Việt Nam chúng ta trân trọng, nâng niu từng giây phút của hòa bình cũng như giá trị của hòa bình, hợp tác, đoàn kết và phát triển. Và cũng hơn ai hết chúng ta thấu hiểu rằng một đất nước muốn vươn lên mạnh mẽ, có cơ đồ và tương lai tươi sáng, đem lại ấm no và hạnh phúc cho nhân dân thì trước hết phải có ổn định chính trị, kinh tế phát triển và duy trì cân bằng được các mối quan hệ quốc tế.

Chính vì thế, trong suốt 80 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ kính yêu, Việt Nam đã kiên trì thực hiện đường lối đối ngoại đúng đắn, nhất quán, độc lập, tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa với tầm nhìn chiến lược. Việc vận dụng nhuần nhuyễn và linh hoạt tư tưởng, phong cách và nghệ thuật ngoại giao Hồ Chí Minh theo phương châm “Dĩ bất biến, ứng vạn biến”, với nghệ thuật ”ngũ tri” (biết mình, biết người, biết thời thế, biết dừng và biết biến) đã giúp đối ngoại Việt Nam vững vàng, chủ động và sáng tạo, nhạy bén và linh hoạt trong việc vừa kiên định nguyên tắc bảo vệ lợi ích tối thượng của quốc gia, đồng thời xử lý đúng đắn những mối quan hệ quốc tế, tế nhị và phức tạp để phụng sự quốc gia.

Nhân dân Việt Nam đã nỗ lực không ngừng nghỉ, nén lại đau thương để có thể “gác lại quá khứ, vượt qua khác biệt, phát huy tương đồng, hướng đến tương lai”, “biến thù thành bạn, chuyển đối đầu thành đối thoại, vừa hợp tác, vừa đấu tranh, đưa đối thủ thành đối tác”. Và đây cũng là một trong các yếu tố tạo nên sức mạnh tinh thần để Việt Nam vượt qua quá khứ, tranh thủ đối thủ, bạn bè.

Việt Nam đã nén lại đau thương, gác lại quá khứ, “biến thù thành bạn, chuyển đối đầu thành đối thoại, vừa hợp tác, vừa đấu tranh, đưa đối thủ thành đối tác”. Hình ảnh Thủ tướng Phạm Minh Chính tiếp Tổng thống Hoa Kỳ Joe Biden tại Hà Nội, tháng 9/2023. Ảnh: Trí Dũng – TTXVN

Quan điểm chủ đạo trong việc thúc đẩy các mối quan hệ quốc tế của Việt Nam chính là “Lòng tin, sự chân thành và đoàn kết” bởi lẽ “Lòng tin xóa đi hận thù và sự khác biệt – lòng tin là điều kiện tiền đề bảo đảm mọi quan hệ hợp tác bền chặt, hiệu quả, thực chất” và cũng bởi sự chân thành sẽ giúp các bên “có sự chia sẻ, cảm thông, tăng hy vọng, niềm tin”. Bên cạnh đó chính “Sự đoàn kết trong nước sẽ tạo ra sức mạnh – sức mạnh của mỗi quốc gia, dân tộc, của toàn dân” và “Sự đoàn kết quốc tế, đề cao chủ nghĩa đa phương tạo ra sức mạnh toàn cầu”.

Những điều đó đã được thể hiện qua những minh chứng cụ thể trong suốt chiều dài lịch sử của cách mạng Việt Nam:

1. Việt Nam luôn kiên trì chính sách đối ngoại hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, không sử dụng vũ lực theo nguyên tắc 4 không (không tham gia liên minh quân sự, không cho phép nước ngoài đặt căn cứ quân sự trên lãnh thổ, không sử dụng hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế, và không liên kết với nước này để chống lại nước khác).

Ngay trong những giờ phút cam go nhất của lịch sử, dù chỉ còn một tia hy vọng mà không phải hoặc chưa phải sử dụng đến vũ lực, Việt Nam cũng sẽ lựa chọn phương án đàm phán hòa bình. Việc Việt Nam quyết định ký Hiệp định sơ bộ 6/3/1946 là minh họa rõ rệt cho ý nguyện hòa bình, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh.

2. Tập trung và nhấn mạnh vào việc xây dựng “niềm tin chiến lược” như nền tảng quan hệ và thúc đẩy hợp tác giữa các quốc gia. Điều đó được thể hiện rõ rệt trước hết trong việc củng cố và xây dựng mối quan hệ hữu nghị với ba nước láng giềng có chung biên giới là Lào, Campuchia và Trung Quốc.

Đây là những mối quan hệ đã trải qua thử thách khắc nghiệt, được củng cố và nuôi dưỡng bởi truyền thống giúp đỡ, ủng hộ nhau qua từng giai đoạn lịch sử cụ thể, và đóng vai trò vô cùng quan trọng với an ninh và phát triển của Việt Nam cũng như của cả ba nước Lào, Campuchia và Trung Quốc.

Theo tinh thần đó, chúng ta đặc biệt chú trọng duy trì mối quan hệ hữu nghị vĩ đại, đoàn kết đặc biệt và hợp tác toàn diện với Lào, cũng như mối quan hệ láng giềng tốt đẹp, hữu nghị truyền thống, hợp tác toàn diện, bền vững lâu dài với Campuchia. Chính sách này được đặt ở vị trí ưu tiên hàng đầu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam.

Với Trung Quốc, chúng ta chủ trương duy trì quan hệ chặt chẽ về chính trị và kinh tế, đồng thời xử lý các bất đồng (như tranh chấp Biển Đông) thông qua đối thoại, tôn trọng lợi ích của nhau, tránh xung đột vũ trang. Phát triển quan hệ với Trung Quốc là yêu cầu khách quan, là lựa chọn chiến lược và ưu tiên hàng đầu trong tổng thể đường lối, chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa và chính sách quốc phòng “4 không” của Việt Nam.

Việt Nam xây dựng “niềm tin chiến lược” trong các quan hệ, hợp tác giữa các quốc gia. Hình ảnh Tổng Bí thư Tô Lâm hội đàm với Tổng Bí thư, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình tại Đại lễ đường Nhân dân, Thủ đô Bắc Kinh, ngày 19/8/2024. Ảnh: TTXVN

Năm 2023, hai bên đã ra Tuyên bố chung về việc tăng cường hơn nữa quan hệ Đối tác hợp tác chiến lược – toàn diện, thúc đẩy xây dựng Cộng đồng chia sẻ tương lai Việt Nam – Trung Quốc có ý nghĩa chiến lược trong việc thúc đẩy hợp tác kinh tế, thương mại và kết nối biên giới giữa hai quốc gia.

Quan hệ giữa Việt Nam và Mỹ là minh chứng sống động của chính sách gác lại quá khứ, phát huy tương đồng, hướng đến tương lai, biến thù thành bạn, chuyển đối đầu thành đối thoại, vừa hợp tác, vừa đấu tranh, đưa đối thủ thành đối tác của Việt Nam khi hai quốc gia đã nâng cấp lên quan hệ Đối tác Chiến lược Toàn diện vào năm 2023.

Ngay cả trước khi bình thường hóa quan hệ với Mỹ, Việt Nam đã chủ động bắt đầu mối quan hệ song phương thông qua những dự án nhân đạo, hợp tác tìm kiếm hài cốt lính Mỹ mất tích (MIA), chuơng trình xuất cảnh ra đi có trật tự (ODP, HO, AC)… giúp Mỹ giải quyết vấn đề nội bộ. Điều này thể hiện sự chân thành, cân nhắc lợi ích nhân đạo và quá khứ lịch sử của cả hai bên, dẫn đến dỡ bỏ cấm vận, bình thường hóa quan hệ năm 1995, tăng cường quan hệ kinh tế, chính trị giữa hai nước.

Quan hệ thương mại Việt Nam – Mỹ đã tăng trưởng mạnh mẽ gần 300 lần từ 450 triệu USD năm 1995 đến khoảng 155 tỷ USD vào năm 2025. Hiện Mỹ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam, trong khi Việt Nam là một trong những đối tác thương mại quan trọng của Mỹ, ký kết Hiệp định Thương mại song phương (BTA) năm 2000. Hai bên cũng thường xuyên đối thoại về quốc phòng, năng lượng và khoa học công nghệ, nhân quyền, đảm bảo tôn trọng lợi ích kinh tế lẫn nhau.

Cùng với đó, với chính sách tăng cường việc xây dựng lòng tin chiến lược, Việt Nam đã tích cực thiết lập và nâng cấp các quan hệ đối tác chiến lược toàn diện (CSP) và chiến lược (SP) với các cường quốc và đối tác lớn. Đến năm 2025, Việt Nam có 12 CSP (bao gồm Mỹ, Trung Quốc, Nga, Nhật Bản, Ấn Độ, Hàn Quốc, Pháp, Anh, Đức, Ý, Tây Ban Nha, UAE) và 30 SP, cùng nhiều quan hệ đối tác toàn diện khác.

Những kết quả này không chỉ giúp Việt Nam nâng tầm ảnh hưởng trong khu vực châu Á, Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương, mà còn tạo dựng niềm tin với các đối tác và cho thấy sự linh hoạt trong việc cân bằng quan hệ với các cường quốc của Việt Nam.Việt Nam đã tăng cường vị thế địa chính trị, thu hút đầu tư, công nghệ và được nhiều quốc gia đánh giá là trụ cột ổn định ở Đông Nam Á.

3. Phát triển kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng đã giúp Việt Nam vươn lên và được xếp vào nhóm một trong 20 quốc gia có nền kinh tế năng động, tăng trưởng cao, bền vững, với quy mô thương mại và thu hút đầu tư nước ngoài hàng đầu thế giới. Bên cạnh đó Việt Nam hiện là một trong các quốc gia có nền kinh tế mở, hội nhập cao trên thế giới khi đã ký 17 hiệp định thương mại tự do (FTA) có tiêu chuẩn cao; có quan hệ kinh tế – thương mại với 230 nước và vùng lãnh thổ;

Thông qua các hiệp định thương mại tự do (FTA) như EVFTA (với EU, 2020), CPTPP (2018), RCEP (2022) và UKVFTA (2021), ngoại giao Việt Nam đã mở rộng thị trường xuất khẩu, thu hút FDI (đạt hơn 400 tỷ USD lũy kế đến 2024) và thúc đẩy tăng trưởng GDP trung bình 6-7%/năm và tổng kim ngạch xuất nhập khẩu đạt khoảng 600 tỉ USD, tăng gấp khoảng 120 lần so với những năm đầu của thời kỳ đổi mới.

Cũng cần phải nói thêm rằng một trong các yếu tố kích thích và thu hút các nhà đầu tư của các tập đoàn công nghệ hàng đầu thế giới đến Việt Nam, đó chính là quyết tâm tiếp tục đổi mới, sửa đổi và hoàn thiện chính sách thu hút đầu tư, đơn giản hóa thủ tục, là việc Việt Nam sẵn sàng tuân thủ các quy tắc quốc tế và cũng chính từ sự cởi mở và thẳng thắn của tinh thần “Lợi ích hài hòa và rủi ro chia sẻ” của lãnh đạo và nhà nước Việt Nam đối với các hoạt động kinh doanh

Sự có mặt của các nhà đầu tư công nghệ cao chính là đòn bẩy để Việt Nam tạo đột phá trong công cuộc chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, phát triển công nghiệp bán dẫn, thiết kế chíp, đổi mới sáng tạo về AI cũng như tạo dựng các dự án về Đổi mới sáng tạo, Trung Tâm tài chính và Trung Tâm công nghệ 4.0 tại Việt Nam chuẩn bị bước vào Kỷ Nguyên mới.

4. Tham gia tích cực, chủ động vào các tổ chức đa phương: Việc Việt Nam chủ động tham gia vào các tổ chức đa phương không chỉ mang ý nghĩa về con số mà đó là cả một quá trình từ học hỏi để hội nhập đến tích cực, chủ động tiến tới tham gia dẫn dắt, tạo dựng lòng tin và tăng cường vị thế.

Cùng với việc tham gia tích cực vào các cơ chế đa phương như Liên hợp quốc, Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á – Thái Bình Dương (APEC), Nhóm các nước công nghiệp phát triển (G7) mở rộng, Nhóm các nền kinh tế lớn (G20) mở rộng, Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD)… Tháng 6 vừa qua, Việt Nam trở thành nước đối tác Nhóm các nền kinh tế mới nổi (BRICS) với mong muốn nỗ lực đóng góp, nâng cao tiếng nói và vai trò của các nước đang phát triển, thúc đẩy đoàn kết quốc tế, chủ nghĩa đa phương bao trùm, toàn diện trên tinh thần tôn trọng luật pháp quốc tế Việt Nam không chỉ tham gia mà còn đảm nhận vai trò lãnh đạo tại nhiều vị trí quan trọng trong các diễn đàn quốc tế. Việt Nam đã hai lần làm Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc hai nhiệm kỳ (2008-2009 và 2020-2021), tại đây Việt Nam đã gây ấn tượng mạnh mẽ và đã thúc đẩy các nghị quyết về hòa bình, chống khủng bố và hỗ trợ phát triển. Việt Nam cũng được bầu là Ủy viên của Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc 2 nhiệm kỳ (2014-2016, 2023-2025), việc trúng cử trở thành thành viên Hội đồng Nhân quyền, cơ quan có vai trò, quyền lực quan trọng hàng đầu trong hệ thống Liên hợp quốc trong bảo vệ và thúc đẩy quyền con người, thể hiện sự ghi nhận của cộng đồng quốc tế đối với những chính sách, nỗ lực và thành tựu của Việt Nam trong việc bảo đảm ngày càng tốt hơn quyền của người dân trên tất cả các lĩnh vực.

Năm năm 2020 với tư cách Chủ tịch ASEAN Việt Nam đã rất thành công tổ chức các hội nghị trực tuyến giữa đại dịch Covid-19, đưa ra nhiều sáng kiến kết nối và thúc đẩy hoạt động của cả khối trong Đại dịch. Năm 2024-2025, Việt Nam tiếp tục dẫn dắt các sáng kiến ASEAN về kinh tế số và ứng phó biến đổi khí hậu, củng cố vị thế lãnh đạo khu vực.

Những đóng góp này đã khẳng định sự chân thành, đoàn kết, luôn thể hiện Việt Nam là một thành viên có trách nhiệm, góp phần vào an ninh và phát triển toàn cầu, từ đó nâng cao uy tín quốc tế.

5. Sức mạnh mềm Việt Nam

Một trong những yếu tố quan trọng giúp Việt Nam gây ấn tượng với bạn bè thế giới chính là sự giao thoa văn hóa với bề dày lịch sử cùng những giá trị nhân văn trong lối sống nghĩa tình, trọng đạo lý, hiếu khách, cởi mở, chân thành và thủy chung, đoàn kết của con người Việt Nam.

Hình ảnh các chiến sĩ mũ nồi xanh của Việt Nam tận tụy giúp đỡ trẻ em và phụ nữ tại các nước châu Phi xa xôi cũng như hình ảnh các kỹ sư nông nghiệp Việt Nam miệt mài trên những cánh đồng lúa ở Cuba cũng như Phong trào ủng hộ giúp đỡ Cuba trong lúc khó khăn đã lay động trái tim hàng triệu người dân trên thế giới.

Việt Nam đã cử các quân nhân tham gia đội quân gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc tại một số quốc gia châu Phi. Hình minh họa

Sức mạnh mềm của Việt Nam không chỉ đến từ các hoạt động chính thức của nhà nước mà còn đến từ chính cách cư xử nhân văn của con người Việt Nam ở Việt Nam và hơn sáu triệu người Việt Nam sống ở nước ngoài ở cách chúng ta đối đãi với khách nước ngoài, từ các di sản văn hóa, ẩm thực phong phú, từ chính những hoạt động đối ngoại nhân dân, từ những tuần lễ văn hóa, chương trình biểu diễn tại nhiều quốc gia. Những sự kiện lớn như sự kiện A50, A80, Vesak của riêng năm 2025 đã lan tỏa hình ảnh Việt Nam rộng rãi và thu hút hàng triệu triệu người xem.

Văn hóa chính là cội nguồn làm nên sức sống và sức hút của Việt Nam trong kỷ nguyên mới, hội nhập sâu rộng và vững chắc. Đây chính là điều đã chính phục và lan tỏa giá trị Việt ra bên ngoài và đây cũng chính là điều làm nên sức mạnh và sự chính phục của Việt Nam.

Sự đoàn kết, gắn bó của cả một dân tộc đã thể hiện rõ rệt qua sự kiện mừng Quốc khánh 2-9 năm nay. Cả thế giới kinh ngạc khi chứng kiến một Lễ diễu binh, diễu hành, mà ở đó hàng vạn người dân sẵn sàng dầm mưa dãi nắng để hồ hởi tham gia cổ vũ đón chào các chiến sĩ trong đoàn quân diễu hành (duy nhất có ở Việt Nam). Chỉ trong bốn ngày nghỉ dịp Quốc khánh 2-9 đã có 2,8 triệu lượt khách du lịch, trong đó có trên 80 nghìn lượt khách quốc tế, riêng khách du lịch đến Hà Nội và ở Hồ Chí Minh là 1,45 triệu lượt, trong đó có trên 45 nghìn lượt khách quốc tế. Tất cả đã tạo nên hình ảnh một Việt Nam hòa bình và mến khách, đang vươn lên mạnh mẽ.

Bí mật của sức mạnh Việt Nam chính là sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và sự đồng lòng của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng. Trong tổng thể sức mạnh chung đó, Ngoại giao Việt Nam đã kết hợp chặt chẽ với quốc phòng – an ninh – kinh tế – văn hóa thực hiện nhiệm vụ chính trị với đất nước và dân tộc, góp phần nâng cao vị thế Việt Nam. Thông qua các chiến lược linh hoạt, sáng tạo, Ngoại giao Việt Nam đã góp phần vào việc duy trì được độc lập, tự chủ và không để đất nước bị phụ thuộc, rơi vào tình thế bị động trong các mối quan hệ cạnh tranh giữa các cường quốc.

Và ngày hôm nay, Việt Nam không chỉ là thành viên tích cực của cộng đồng quốc tế mà còn là cầu nối quan trọng cho hòa bình, phát triển bền vững, mà một trong các yếu tố góp phần vào thành công đó của Việt Nam cũng chính là Niềm tin mà thế giới đã dành cho sự Chân thành của Việt Nam. Lòng tin này đã và sẽ bền vững bởi được dựng xây trên giá trị phổ quát của toàn nhân loại và truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc Việt Nam – Đoàn kết, Thủy chung – Nhân nghĩa.■

Nguyên Mi

BÌNH LUẬN

BÀI VIẾT LIÊN QUAN