
Trong suốt chiều dài của lịch sử cách mạng Việt Nam, công tác thông tin đối ngoại (TTĐN) luôn giữ một vị trí xứng đáng. 80 năm qua, bằng nhiều biện pháp và phương thức linh hoạt, chủ động và sáng tạo, phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của đất nước, các lực lượng làm công tác TTĐN đã nỗ lực không ngừng nghỉ để góp phần làm cho dư luận quốc tế biết đến Việt Nam, hiểu Việt Nam, hiểu Việt Nam đúng hơn và theo cách tích cực hơn để từ đó dần dần thay đổi cách nhìn về Việt Nam, đồng tình, ủng hộ sự nghiệp chính nghĩa của chúng ta.
Trong bài viết này, tôi muốn chia sẻ một số suy nghĩ về công tác TTĐN cũng như việc chúng ta đã phối hợp với truyền thông quốc tế trong việc truyền tải lập trường, quan điểm chính thức cũng như những thông tin, quảng bá hình ảnh về Việt Nam ra thế giới.
Mối quan hệ hai chiều
Trên thực tế, mối quan hệ giữa các cơ quan chính phủ với phóng viên nước ngoài (PVNN) là một mối quan hệ hai chiều, nếu quan hệ tốt thì sẽ đem lại lợi ích cho cả hai bên, giữa người cung cấp thông tin và người được cung cấp thông tin.
Với PVNN khi được cung cấp thông tin chính thống, họ sẽ có được cơ hội so sánh, phân tích các nguồn tin để tác nghiệp, bảo đảm tính khách quan và độ chính xác của bài viết, qua đó giữ được uy tín của chính hãng tin. Mặt khác, chính những bài viết của các PVNN sẽ giúp chính phủ tiếp cận nhanh hơn với công luận quốc tế, cung cấp cho chính phủ những phản hồi của dư luận quốc tế, đồng thời cũng có thể là những gợi ý giúp cải thiện chính sách, quản trị truyền thông, sớm phát hiện các rủi ro trong thông tin và truyền thông nếu có.
Báo chí nước ngoài, đặc biệt báo chí phương Tây có ưu thế cả về mặt kỹ thuật, tốc độ và ngôn ngữ. Các PVNN được cử đến làm phóng viên thường trú thường được coi là những người am hiểu tình hình Việt Nam và có trình độ nghiệp vụ cao. Các chủ đề mà họ quan tâm và phản ánh rất phong phú, trên mọi lĩnh vực từ chính trị, đối ngoại, kinh tế, nội bộ đến thiên tai, lũ lụt cũng như những hoạt động văn hóa xã hội. Số lượng tin bài mà mỗi hãng tin truyền tải về Việt Nam ra thế giới hàng năm là một con số rất cao, chia trung bình có thể cao hơn hàng nghìn.
Các tin tức bài vở của PVNN thường trú tại Việt Nam thường được coi là nguồn tin độc lập, khách quan, có khả năng thu hút sự quan tâm chú ý, tác động đến nhận thức, lòng tin của công chúng đối với Việt Nam theo hướng hoặc khách quan, tích cực hoặc thiếu khách quan, tiêu cực.
Hà Nội cũng là một trong các thủ đô trên thế giới thường xuyên có số lượng các văn phòng thường trú báo chí nước ngoài tương đối cao. Trước những năm 1990, đa số là văn phòng báo chí của các nước xã hội chủ nghĩa cũ, nhưng từ năm 2000 đã có rất nhiều hãng tin phương Tây được mở Văn phòng thường trú tại Việt Nam. Hiện chúng ta có gần 30 Văn phòng thường trú báo chí nước ngoài, trong đó có những hãng tin quốc tế rất tầm cỡ như Hãng thông tấn Associated Press – AP (Hoa Kỳ) cung cấp tin ảnh cho 6.000 đài phát thanh và truyền hình, 1.700 tờ báo ở Mỹ, cũng như cung cấp tin cho 8.500 tờ báo, đài phát thanh, truyền hình của 112 quốc gia. Hãng thông tấn Reuters (Vương quốc Anh) cung cấp hơn 2 triệu tin tức độc quyền mỗi năm và hơn 100 phóng sự điều tra bằng 11 ngôn ngữ. Hãng Thông tấn xã Pháp (AFP) thuộc một trong 03 hãng thông tấn lớn nhất thế giới, đưa tin với 6 ngôn ngữ Pháp, Anh, Đức, Tây Ban Nha, Thổ Nhĩ Kỳ và Ả-rập. Đài Truyền hình trung ương Trung Quốc (CCTV) ngoài phát sóng tại Trung Quốc còn có mạng lưới 50 kênh chương trình và tiếp cận được khoảng hơn một tỷ người xem, phát sóng bằng 5 ngôn ngữ. Tập đoàn truyền thông NHK (Nhật Bản) phát sóng 24/7 bằng tiếng Anh, phục vụ khán giả Nhật và nước ngoài trên toàn cầu.
Những cố gắng không ngừng nghỉ
Khi nói về TTĐN chúng ta không thể không đề cập đến tầm nhìn, nhận thức và tư duy luôn theo sát thời đại của các vị lãnh đạo của đất nước về vai trò quan trọng của báo chí quốc tế. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho đến những năm tháng gần cuối đời vẫn dành thời gian và sức khỏe để trả lời phỏng vấn báo chí quốc tế.
Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, khi các phương tiện thông tin của Việt Nam còn thô sơ, thông tin bị bưng bít, Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đi đầu trong việc tranh thủ báo chí quốc tế để chuyển các thông điệp về Việt Nam ra thế giới. Cuối năm 1953, khi cuộc chiến tranh xâm lược của Pháp đang lâm vào tình trạng sa lầy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chủ động trả lời phỏng vấn cho phóng viên của tờ báo Expressen của Thụy Điển để nêu lên thiện chí của Việt Nam sẵn sàng đàm phán với Pháp để chấm dứt chiến tranh, mở đường đi đến Hội nghị Giơ-ne-vơ năm 1954 về Việt Nam. Hình ảnh “Việt Nam – Hồ Chí Minh của Việt Nam” đã trở thành biểu tượng và niềm cảm hứng toàn cầu cho phong trào giải phóng dân tộc khi Việt Nam giành độc lập.
Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, trong bối cảnh các phương tiện của chúng ta vô cùng thiếu thốn, thì một trong những thành tựu nổi bật về TTĐN của chúng ta chính là đã tranh thủ sự ủng hộ của các nước xã hội chủ nghĩa (XHCN), của phong trào không liên kết, báo chí cánh tả, phong trào phản chiến ở Mỹ, Pháp, Đức, Nhật… đối với sự nghiệp chính nghĩa của Việt Nam và phản bác truyền thông phương Tây vu cáo ta. Chiến lược “ngoại giao báo chí” đã thu được những kết quả to lớn khi chúng ta mời các nhà báo phương Tây có thiện cảm với Việt Nam như: Wilfred Burchett (Úc), Madeleine Riffaud (Pháp) cùng những nhà báo của một số nước XHCN cũ đến thăm miền Bắc, đi thăm vùng giải phóng và đưa tin chân thực về cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta ra thế giới, tạo hiệu ứng mạnh mẽ.
Bên cạnh đó, thì chính việc chúng ta chủ động tổ chức cho những phóng viên có tên tuổi của những tờ báo lớn của phương Tây, có quan điểm hoàn toàn khác ta vào Việt Nam là những quyết định dũng cảm. Năm 1966, hơn 20 bài viết và phóng sự của phóng viên H. Salisbury của New York Times được đưa trực tiếp từ Việt Nam cùng với những hình ảnh đổ nát hoang tàn tại các khu vực dân cư đã gây xúc động mạnh, được ví như những quả bom tấn gây chấn động lớn không chỉ dư luận Mỹ mà trên khắp thế giới. Tất cả các hãng tin, vô tuyến truyền hình lớn ở phương Tây, kể cả báo đài của Tòa thánh Vatican cũng đều trích đăng lại loạt bài này. Phóng viên sau đó đã đoạt giải báo chí Pulitzer.
Trong khi Hội nghị Paris đang được tiến hành, chúng ta cũng sẵn sàng tạo điều kiện cho Hãng tin AP Mỹ cử người vào Việt Nam (1970) để đưa tin “khách quan”. 47 tin, bài báo của Daniel de Luce với nhiều cách tiếp cận khác nhau, theo quan điểm riêng, nhưng đã được coi như một sự “thức tỉnh dư luận Mỹ” về một dân tộc Việt Nam không chỉ anh hùng mà mến khách và đặc biệt là giàu lòng vị tha. Nội dung quan trọng trong các tin bài đó chính là thông điệp “Việt Nam không cuồng tín và có quan điểm rất thực tế” trong các cuộc thương lượng với Mỹ, giải tỏa phần nào cho câu hỏi đang được dư luận Mỹ và Tây Âu đặt ra khi đó là ”liệu Việt Nam có thực sự đàm phán hòa bình hay không, có tạo điều kiện cho Mỹ rút quân hay không và ý định của Việt Nam trong việc giải quyết vấn đề tù bình Mỹ như thế nào”.
Công tác truyền thông kết nối với báo chí quốc tế tại Hội nghị Paris 5 năm là ví dụ điển hình khi phái đoàn ta duy trì quan hệ và phối hợp chặt chẽ với hàng trăm phóng viên Pháp và nước ngoài để truyền tải kịp thời lập trường của Việt Nam cũng như chủ động tấn công trên mặt trận dư luận, tập trung vào những vấn đề cấp bách như ngừng bắn, tự do dân chủ, tù chính trị và yêu cầu Mỹ chấm dứt can thiệp, dính líu về quân sự, tạo dư luận thuận lợi cho Việt Nam trong đàm phán.
Phá cấm vận, đổi mới và hội nhập sâu rộng
Một trong những giai đoạn có thể nói là khó khăn nhất của đất nước là những năm sau giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước đến đầu những năm 1990 khi đất nước vừa phải giải quyết những hậu quả sau chiến tranh, khủng hoảng kinh tế, vừa phải đương đầu với hai cuộc chiến tranh ở biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc, bị bao vây cấm vận và bị cô lập. Hình ảnh bao trùm về Việt Nam thời kỳ này là đói nghèo, cô lập, chiến tranh liên miên và điều đó ảnh hưởng mạnh mẽ đến việc triển khai chính sách đối ngoại của Việt Nam.
Trong bối cảnh đó, công tác thông tin, tuyên truyền đối ngoại chủ yếu tập trung vào việc nêu cao sự nghiệp chính nghĩa của nhân dân ta, tranh thủ sự đồng tình và ủng hộ của cộng đồng quốc tế với công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, góp phần vào việc thực hiện mục tiêu đối ngoại là đưa đất nước thoát khỏi bao vây cấm vận và từng bước hội nhập với cộng đồng quốc tế trong khi các thế lực thù địch luôn tìm mọi cách vu cáo và bôi xấu Việt Nam.
Với quyết tâm phá vỡ thế bao vây cấm vận và tạo dựng hình ảnh tích cực về Việt Nam, công tác truyền thông đối ngoại được tăng cường và thúc đẩy mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Trong giai đoạn cam go này của đất nước, cùng với các vị lãnh đạo khác, có thể khẳng định rằng cố Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch là một trong số các vị lãnh đạo đã có công sức rất lớn trong việc tranh thủ báo chí quốc tế tại Việt Nam, cũng như tại các diễn đàn quốc tế để truyền tải mạnh mẽ lập trường, quan điểm đúng đắn của Việt Nam ra thế giới, cũng như góp phần để giải tỏa các luồng dư luận thù địch với Việt Nam thời kỳ này. Theo con số tập hợp còn chưa đầy đủ, trong một thời gian ngắn, ông đã trả lời 227 buổi phỏng vấn báo chí với gần 800 trang giấy viết được lưu lại bằng văn bản (Vụ Thông tin Báo chí Bộ Ngoại giao, tháng 12/2020). Mặt khác ông cũng là người đã đưa ra nhiều quyết sách rất quan trọng để tạo thuận lợi cho hoạt động báo chí nước ngoài ở Việt Nam. Mặt khác, chúng ta cũng tổ chức hàng trăm chuyến đi biên giới, đến các trại tị nạn, cho hàng nghìn phóng viên nước ngoài sang Cămpuchia để chứng kiến cảnh quân đội Việt Nam rút quân, gặp gỡ các nhân chứng thật. Riêng năm 1989 số lượt phóng viên ra, vào Việt Nam, Campuchia là hơn 900 lần.
Trong giai đoạn đầu của thời kỳ đổi mới 1986, công tác tuyên tuyền đối ngoại và đấu tranh dư luận chuyển sang một giai đoạn khá phức tạp, đòi hỏi sự nhanh nhạy để thích ứng với bối cảnh cạnh tranh quyết liệt, nội dung tuyên truyền nhạy cảm khi Việt Nam bắt đầu công cuộc đổi mới về kinh tế. Trong giai đoạn chuyển mình này của đất nước, yêu cầu đặt ra là muốn tiến hành đổi mới, phát triển kinh tế, kêu gọi đầu tư nước ngoài, cần làm cho dư luận thế giới hiểu hơn về Việt Nam, có lòng tin đối với Việt Nam và thay đổi cách thế giới nhìn nhận về Việt Nam như một quốc gia cầu thị, dám thay đổi, năng động và sẵn sàng bứt phá, hội nhập.
Bằng mọi khả năng, chúng ta tranh thủ từng cơ hội có được để làm cho dư luận thế giới hiểu đúng hơn về quyết tâm và ý chí chính trị cũng như thiện chí của Việt Nam. Không có gì thuyết phục hơn với dư luận quốc tế bằng chính những thông tin khách quan được chuyển đi từ chính các hãng tin có uy tín của họ. Từ đầu thập niên 1990, chúng ta mời nhiều nhà báo, học giả quốc tế, bạn bè từ Mỹ, phương Tây đến Việt Nam để giúp họ hiểu một cách đầy đủ hơn về Việt Nam, góp phần tạo tiền đề bình thường hóa quan hệ Việt – Mỹ năm 1995 cũng như quá trình hội nhập của Việt Nam ra quốc tế.
Một vài sự kiện được coi là những dấu mốc minh họa cho sự “chuyển mình” này được báo chí quốc tế đánh giá cao:
Tại Đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986, lần đầu tiên chúng ta cho phép các phóng viên nước ngoài được tham gia trực tiếp vào việc đưa tin về Đại hội Đảng, phỏng vấn trực tiếp các đại biểu.
Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh cùng nhiều đồng chí Lãnh đạo Đảng và Nhà nước trong những giai đoạn sau đó luôn dành sự quan tâm cho báo chí, trong đó có báo chí quốc tế, sẵn sàng tiếp và trả lời phỏng vấn, cho PVNN thường trú khi đó như các hãng tin của Liên Xô, Tiệp Khắc, CHDC Đức, Hungary, Ba Lan, Cuba, phóng viên UNITA của Đảng cộng sản Italia và HUMANITE của Pháp cũng như hãng tin AFP của Pháp (hãng tin phương Tây duy nhất thường trú ở Việt Nam khi đó) cùng một số lượng đông đảo hàng trăm các phóng viên Mỹ và phương Tây vào hoạt động ngắn ngày ở Việt Nam. Tất cả những hoạt động trên đã gây tiếng vang lớn trong dư luận quốc tế, bởi lẽ bản thân vị trí đáng kính trọng của người trả lời phỏng vấn đã đủ sức nặng, tạo hình ảnh một Việt Nam cởi mở và đổi mới.
Năm 1997, lần đầu tiên Việt Nam đăng cai tổ chức Hội nghị cấp cao, đó là Hội nghị Cấp cao Pháp ngữ với sự tham dự của hơn 40 Nguyên thủ quốc gia và hơn 800 phóng viên. Tất cả đều rất mới mẻ và đầy bỡ ngỡ, đây cũng là lần đầu tiên chúng ta thành lập Trung tâm báo chí của một Hội nghị quốc tế lớn. Có thể ví Cấp cao Pháp ngữ năm 1997 như một phép thử cho năng lực tổ chức Hội nghị quốc tế lớn với Việt Nam và các lực lượng làm TTDN nói riêng.
Trong thời gian ngắn, hàng nghìn tin bài về Việt Nam đã liên tục được chuyển ra thế giới, khen ngợi vai trò của nước chủ nhà, miêu tả về hình ảnh của một Việt Nam đổi mới, đang vươn lên và đặc biệt là những đánh giá cao về việc Việt Nam có đủ năng lực để tổ chức tốt những Hội nghị cấp cao, mở đường cho việc Việt Nam liên tục đăng cai tổ chức các Hội nghị cấp cao của thế giới và khu vực sau này.
Chủ động xây dựng hình ảnh quốc gia
Trong suốt mười năm qua, mặc dù tình hình thế giới có nhiều biến động sâu sắc, phức tạp và khó lường, tác động đến tất cả mọi mặt đời sống chính trị, kinh tế, xã hội, nhưng Việt Nam tiếp tục đẩy mạnh hội nhập kinh tế toàn cầu, nổi lên như một điểm sáng, hòa bình, ổn định, có mức tăng trưởng cao, có vai trò địa chính trị nổi bật khi nâng tầm, nâng cấp quan hệ chiến lược với các đối tác chủ chốt và đưa quan hệ với nhiều đối tác đi vào chiều sâu, hiệu quả.
Trong TTĐN, chúng ta đã chủ động trong chiến lược xây dựng thương hiệu quốc gia, chuyển mạnh từ thế phòng thủ sang dẫn dắt hình ảnh, đóng vai trò người kiến tạo hình ảnh về một Việt Nam có trách nhiệm, đóng góp tích cực vào hòa bình, an ninh toàn cầu.
Năm 2019, Việt Nam được lựa chọn là nơi đăng cai tổ chức Hội nghị Thượng đỉnh Hoa Kỳ – Triều Tiên lần thứ 2 tại Hà Nội, một sự kiện quốc tế đặc biệt, thu hút hơn 3.000 phóng viên quốc tế của hầu hết tất cả các hãng tin quốc tế lớn. Đây là cơ hội hiếm có để tranh thủ quảng bá, giới thiệu hình ảnh đất nước, con người Việt Nam đến cộng đồng quốc tế. Một Trung tâm báo chí với hạ tầng kỹ thuật hiện đại nhất, đáp ứng đầy đủ nhu cầu tác nghiệp của cùng một lúc hơn 3.000 PVNN đã được hoàn tất trong một thời gian ngắn, song song đó một loạt các hoạt động thăm quan du lịch miễn phí cho PVNN tại Hà Nội đã được tổ chức, cùng nhiều hoạt động giới thiệu ẩm thực văn hóa, thời trang ngay tại Trung tâm Báo chí.
Sự đón tiếp tận tình, chu đáo, tính chuyên nghiệp trong tổ chức sự kiện của Việt Nam đã để lại những dấu ấn sâu sắc. Hàng nghìn tin bài và hình ảnh, phóng sự giới thiệu về một Việt Nam tươi đẹp, thân thiện, an toàn, mến khách, có nhiều tiềm năng hợp tác và đầu tư đã tràn ngập trên thế giới, thu hút hàng triệu người xem.
Trong nhiệm kỳ 2020–2021 khi Việt Nam đảm nhận vai trò Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, chiến lược TTĐN khi đó là sử dụng tổng hợp nhiều công cụ và phương tiện truyền thông như Họp báo quốc tế online và offline tại trụ sở Bộ Ngoại giao và tại Phái đoàn Việt Nam tại LHQ (New York); tranh thủ phối hợp với các PVNN để thông tin liên tục và khách quan về các sự kiện do Việt Nam chủ trì tại Hội đồng Bảo an; xuất bản bài viết trên các kênh quốc tế như: UN News, Al Jazeera, South China Morning Post và báo chí khu vực ASEAN.
Các PVNN tại Hà Nội cũng đã góp phần đưa tin tích cực về sự kiện này khi liên tục viết bài phỏng vấn các nhà ngoại giao Việt Nam. Mặt khác, một chiến dịch truyền thông số sử dụng nền tảng Twitter, Facebook, YouTube, đặc biệt qua tài khoản của Bộ Ngoại giao và phái đoàn Việt Nam tại LHQ để chia sẻ các phiên họp, thông điệp của Việt Nam được thúc đẩy và duy trì. Những cố gắng của Việt Nam đã để lại ấn tượng mạnh mẽ như một thành viên tích cực và hiệu quả của Hội đồng Bảo an.
Trong thời gian khó khăn của đại dịch Covid-19, cùng với báo chí Việt Nam, các PVNN tại Hà Nội cũng là những người đã rất tích cực để truyền tải ra thế giới về Chiến dịch Ngoại giao Vaccine, những hoạt động viện trợ nhân đạo, tặng khẩu trang, vật tư y tế cho các nước dù Việt Nam còn khó khăn. Hiệu ứng truyền thông của những tin bài này rất mạnh mẽ khi thúc đẩy hình ảnh “Việt Nam trách nhiệm, nhân đạo và hiệu quả” qua đó củng cố uy tín quốc tế của Việt Nam.
Cũng trong bối cảnh dịch bệnh Covid-19, sự chủ động và linh hoạt trong TTĐN được thể hiện rõ rệt qua sáng kiến nổi bật triển khai hình thức đưa tin trực tuyến và thành lập Trung tâm Báo chí trực tuyến Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII năm 2021, vừa duy trì sự quan tâm của dư luận, tạo điều kiện cho báo chí ở nước ngoài tiếp cận trực tiếp thông tin về một sự kiện trọng đại của Việt Nam vừa lan tỏa sự thành công của Hội nghị một cách tối đa trên cơ sở ứng dụng tiến bộ của công nghệ, phát huy thế mạnh của truyền thông mới, tạo ra sự khác biệt quan trọng trong công tác báo chí nước ngoài và dư luận quốc tế.
Một trong những sáng kiến điển hình của TTĐN thời gian qua phải kể đến, đó là nhân dịp kỷ niệm 50 năm ngày giải phóng miền Nam, chúng ta đã mời những phóng viên chiến trường nước ngoài, gắn bó với Việt Nam như một sự tri ân. Trong đó có những phóng viên như Peter Arnett (CNN) nổi tiếng không chỉ ở Việt nam mà ở các chiến trường khác như Iraq và khắp Trung Đông. Nick Ut – tác giả bức ảnh “Em bé Napalm” và có hàng triệu người theo dõi, người từng được trao giải Pulitzer. Nayan Chanda (Kinh tế Viễn Đông), Jim Laurie (ABC TV Mỹ); Tom Vogel (UPI); Tom Fox (Time Magazine và AP), Edie Lederer (AP), Jean Claude Pomonti (Le Monde), Jean Claude Labbe Nhiếp ảnh gia Pháp…
Việc mời lại các phóng viên chiến trường nước ngoài, những người hầu như đã dành cả tuổi thanh xuân cho Việt Nam được coi như một điểm sáng, một ý tưởng sáng tạo khi gợi lại ký ức lịch sử chân thực từ góc nhìn của bên ngoài, đặc biệt của phương Tây, tạo cầu nối cảm xúc giữa hiện tại – quá khứ qua chính những người đã từng chứng kiến chiến tranh và đã gây hiệu ứng truyền thông quốc tế tích cực và đầy thiện chí. “Cái ôm nồng hậu của Việt Nam dành cho các phóng viên chiến trường năm xưa nhấn mạnh thông điệp hòa giải và ngoại giao hướng tới tương lai” – BBC News (Trở lại Việt Nam), những nhà báo này thấy một đất nước đổi thay – hòa bình, thịnh vượng và đầy tự hào về sức sống mạnh mẽ. Phóng viên Le Monde miêu tả những cuộc gặp gỡ này như “Một ký ức sống động, được sẻ chia giữa những người từng là kẻ thù: đó là một bài học ngoại giao”.
Nhiều nhận xét của truyền thông quốc tế cho rằng, Việt Nam tổ chức ăn mừng chiến thắng một cách rất văn minh, đầy hòa giải và không hề cực đoan như tại một số quốc gia mà họ đã có dịp chứng kiến, mặt khác Việt Nam đã tận dụng tốt “chất liệu cảm xúc quốc tế” để xây dựng câu chuyện mềm, nhân văn, gây được tiếng vang trong báo chí quốc tế và phương Tây .
Trong công tác TTĐN cũng cần phải nói thêm rằng, trong cuộc đấu tranh dư luận để bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, đặc biệt khi có sự cố xảy ra, chúng ta luôn rất kiên quyết, nhưng bình tĩnh, kiềm chế, cung cấp tư liệu trực quan: video, ảnh vệ tinh, sơ đồ để gửi cho báo chí quốc tế và đăng tải trên website chính thức của Bộ Ngoại giao bằng tiếng Anh, Pháp, Trung, Tây Ban Nha. Mời phóng viên nước ngoài đi thực địa để chứng kiến thực tế hiện trường, tăng tính xác thực cho bản tin. Bên cạnh đó, nhiều báo của Việt Nam có phiên bản tiếng Anh đã kịp thời cung cấp nội dung chính xác cho PVNN thường trú tại Việt Nam bằng tiếng nước ngoài để thông tin về lập trường của Việt Nam, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ từ cộng đồng quốc tế.
80 năm qua là một chặng đường dài của công tác TTĐN, những đóng góp của các lực lượng làm công tác này vào thành tựu chung của đất nước là không nhỏ và không thể kể hết trong một vài trang giấy. Từ hình ảnh một đất nước bị gắn liền với chiến tranh, tàn phá, đói nghèo, kém phát triển, đóng cửa, khép kín… Việt Nam của ngày hôm nay là hình ảnh của một quốc gia hòa bình, ổn định, kiên cường trong chiến tranh, kiên định trong đổi mới, quyết tâm chủ động hội nhập toàn diện, sâu rộng và có trách nhiệm trong các vấn đề toàn cầu.
Việt Nam đã tạo được lòng tin với thế giới, xây dựng được lòng tin chiến lược, trở thành đối tác chiến lược toàn diện với hầu hết các cường quốc toàn cầu – một điều rất khó có thể tìm thấy ở các nước đang phát triển.
Sự chỉ đạo nhất quán và tầm nhìn chiến lược
Những thành tựu mà chúng ta có được là cộng hưởng của nhiều yếu tố:
Trước hết, đó là sự chỉ đạo nhất quán, tầm nhìn chiến lược của Đảng và Nhà nước, coi trọng vai trò không thể thiếu của TTĐN, trong đó có vai trò của báo chí quốc tế, coi TTĐN như một đòn bẩy, một mặt trận của công tác ngoại giao. Sự phối hợp chặt chẽ, định hướng rõ ràng và nhất quán giữa các cơ quan như Ban Tuyên giáo Trung ương, Bộ Ngoại giao, Ban Đối ngoại Trung ương, cùng các cơ quan thông tấn, báo chí.
Việc các cơ quan chính phủ cung cấp thông tin chính thống một cách đều đặn, minh bạch đã giúp xây dựng niềm tin và tạo kênh liên lạc hiệu quả với báo chí nước ngoài, chủ động định hướng thông tin và giúp cho PVNN không bị phụ thuộc hoàn toàn vào các nguồn tin “ngoại vi”, từ đó giảm thiểu nguy cơ sai lệch do thiếu thông tin và bị hiểu sai. Hơn nữa điều này đã tạo dựng được mối quan hệ báo chí tích cực.
Hai là, chúng ta đã xây dựng và tạo được hành lang pháp lý đầy đủ cho công tác TTĐN thông qua việc sửa đổi, ra nhiều quyết định, nghị quyết, chỉ thị kịp thời, phù hợp với sự phát triển của tình hình qua đó tạo sự thống nhất về nhận thức để có thể huy động được toàn bộ sức mạnh tổng hợp của cả bộ máy chính trị trong việc triển khai TTĐN, đầu tư nguồn lực, kinh phí, đào tạo nhân lực.
Ba là, trong bất cứ bối cảnh nào, khó khăn hay thuận lợi chúng ta luôn luôn bám sát yêu cầu chính trị của công tác đối ngoại của Đảng và Nhà nước để từ đó đề ra chiến lược, sách lược truyền thông đối ngoại thích hợp, đánh giá đúng về đối phương cũng như về thực lực của ta, về so sánh lực lượng trên mặt trận tuyên truyền đối ngoại.
Công tác phối hợp, tranh thủ PVNN được tiến hành dưới nhiều hình thức phong phú, linh hoạt, kết hợp chặt chẽ giữa đảm bảo yêu cầu chính trị và tranh thủ phóng viên, biết “chọn thời điểm” và kênh tiếp cận phù hợp, cung cấp bằng chứng cụ thể, mời PVNN tham gia thực địa để từ đó tạo được hiệu ứng truyền thông tích cực và dư luận quốc tế đồng tình.
Bốn là, sự trưởng thành vượt bậc về mặt chiến lược trong tư duy truyền thông, TTĐN không chỉ là “người truyền tải” mà còn là người kiến tạo hình ảnh quốc gia, là đòn bẩy thay đổi nhận thức của dư luận và đối tác quốc tế đối với chính sách đối ngoại của Việt Nam. Chúng ta đã đánh giá đúng đắn, kịp thời về cơ hội, thách thức đặt ra, chuyển mạnh từ “thông tin một chiều” sang “tương tác – định hình dư luận”. Xây dựng tư duy “đối ngoại toàn dân” rộng khắp, kết nối doanh nghiệp, kiều bào, người nổi tiếng, trí thức Việt Nam ở nước ngoài với đất nước và tham gia vào TTĐN một cách tự nhiên.
Trên cơ sở đó, những “Câu chuyện về Việt Nam” được báo chí trong nước cũng như quốc tế phản ánh một cách khách quan, nhân văn, tích cực. Đó là câu chuyện về một Việt Nam hòa bình – phát triển – có trách nhiệm, một nền ngoại giao hòa hiếu, nhân văn, “không rơi vào quỹ đạo bất kỳ cường quốc nào”.
Năm là, kết hợp hài hòa giữa đối nội và thông tin đối ngoại, giữa họp báo của Người phát ngôn Bộ Ngoại giao với các hình thức khác; đa dạng hóa phương tiện, chủ thể và kênh truyền thông. Đã đầu tư mạnh cho báo chí đối ngoại đa ngôn ngữ. Việc truyền thông đi kèm với các hoạt động ngoại giao văn hóa, liên hoan ẩm thực, triển lãm ảnh, phim tài liệu… đã tạo hiệu ứng mềm, dễ tiếp cận với công chúng.
Cuối cùng, đó là chúng ta đã xây dựng được một đội ngũ làm công tác TTĐN có chuyên môn hóa cao và quốc tế hóa. Nhiều cán bộ, phóng viên có khả năng làm việc đa ngôn ngữ, hiểu biết sâu về tình hình quốc tế, chuyên trách chuyên sâu về thông tin đối ngoại.
Đất nước Việt Nam đang chuẩn bị hành trang để bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc với vị thế của một quốc gia đã tạo dựng được lòng tin chiến lược với nhiều cường quốc trên thế giới. Bên cạnh những cơ hội và thời cơ mới thì những thách thức đặt ra cũng không hề nhỏ khi cạnh tranh địa chính trị, địa chiến lược ngày càng diễn biến hết sức phức tạp, khó lường và kèm theo đó là sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ.
Trong bối cảnh đó, công tác Thông tin đối ngoại cũng sẽ phải phấn đấu để có thể có một tầm vóc, một sứ mệnh lớn hơn, tăng cường sức mạnh mềm của dân tộc, tương xứng với tầm vóc của đất nước trong kỷ nguyên mới. Thông tin đối ngoại sẽ phải là lĩnh vực đi trước một bước để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, phục vụ cho mục tiêu chiến lược của dân tộc, xác lập vị thế một quốc gia phát triển, có vai trò quan trọng trên trường quốc tế cũng như chuỗi cung ứng toàn cầu.■
Nguyên Mi