Phòng Thương mại Lyon và Đông Dương trong thời Đệ tam Cộng hòa Pháp (Kỳ 2)

Ngô Bắc dịch

NguồnJohn F. Laffey, The Lyon Chamber of Commerce and Indochina During The Third Republic, Canadian Journal of History, December 1975, Vol. 10, Issue 3, từ trang 325 đến trang 348.

Xem Kỳ 1

Phòng Thương mại Lyon đã làm những gì nó có thể làm được để khuyến khích sự phát triển ngành tầm tang, đặc biệt tại Bắc Kỳ.105 Nhưng vào năm 1905, hàng lụa của Đông Dương vẫn không thấy được liệt kê trong số lụa từ tất cả các nguồn cung cấp đến được Condition des Soies (Chợ Tơ Lụa) của Lyon, mặc dù một số lượng nhỏ của các hàng lụa này chắc chắn có mặt trong số hàng nhập cảng từ Quảng Châu.106 Người Lyon, tuy thế, không nản chí.107 Không thể thắng lợi được nhiều trên mặt trận này, Phòng Thương mại cũng phải vật lộn với các vấn đề Đông Dương khác. Vào năm 1909, nó đã đề nghị chính quyền tăng cường số lính đồn trú Pháp tại vùng biên cương Bắc Kỳ – Trung Hoa.108 Một sự đe dọa nghiêm trọng hơn sự bất ổn được địa phương hóa đã chớm xuất hiện hai năm sau đó khi các cuộc thương thảo về một hiệp ước thương mại Pháp-Nhật mới được khởi động. Người Lyon đã đối diện với một tình trạng nghịch lý: mặc dù chống đối các chính sách trọng thương nội địa nhắm vào việc bóp nghẹt các kỹ nghệ thuộc địa, họ vẫn không muốn sự cạnh tranh của Nhật Bản đến áp đảo các công cuộc kinh doanh công nghiệp của họ tại Đông Dương. Họ đã từ chối theo đuổi chính sách bảo hộ mậu dịch, nhưng Phòng Thương mại đã thúc giục chính phủ Pháp, tại các cuộc thương thảo, nhấn mạnh nhu cầu giả định của Nhật đối với tư bản của Pháp và thị trường to lớn cho hàng lụa của Nhật tại Lyon nhằm bảo toàn các vốn liếng kinh doanh của Lyon tại Đông Dương.109 Tuy thế, sự gạt bỏ Đông Dương ra khỏi các điều khoản của bản thỏa ước thương mại mới đã cứu vớt Phòng Thương mại khỏi việc biến sự đùa giỡn của nó với chính sách bảo hộ mậu dịch thành một cuộc hôn phối thường trực hơn. Tóm lại, mặc cho mối đe dọa nhất thời do người Nhật gây ra và sự thất vọng với ngành tầm tang, Phòng Thương mại Lyon có thể lấy làm hãnh diện về công việc của mình tại Đông Dương, cũng như tại các thuộc địa khác, khi Tổng thống Pháp Raymond Poincaré, tháp tùng bởi Albert Sarraut, khi đó là Toàn Quyền Đông Dương, đã đến thăm thành phố vào mùa xuân năm 1914.110

Sự bùng nổ của Thế Chiến sau đó vào mùa hè xem ra đã đặt mọi thứ vào sự ngờ vực: vào cuối năm, sau một sự sụt giảm khủng khiếp về doanh số, các nhà sản xuất ở Lyon đã cảm thấy an ủi phần nào khi lượng tiêu thụ hàng nhiễu (crêpe) đen gia tăng.111 Tình hình của năm kế tiếp bắt đầu được cải thiện. Mặc dù đối đầu với nhiều khó khăn to lớn, ngành công nghiệp tơ lụa đã thực sự thịnh đạt trong thời kỳ chiến tranh. Cuộc chiến còn làm chuyển hướng sự chú ý của Phòng Thương mại ra khỏi Đông Dương. Song nó đã không hoàn toàn lãng quên thuộc địa. Nó đã phản đối sự tổn hại mà các chính sách thời chiến gây ra cho các mối liên kết hàng hải với vùng Đông Á.112 Mặc dù không đại diện cho Phòng Thương mại, song Auguste Isaac và Henri Brenier đã phục vụ cho các quyền lợi của nó khi tố cáo ý tưởng bán Đông Dương cho Nhật Bản để đổi lấy sự gia tăng ủng hộ quân sự cho nỗ lực chiến tranh của Pháp.113 Và nếu các tình huống khác, bên cạnh sự thiếu vắng mối quan tâm, tạo ra sự lơ là đối với Đông Dương trong các năm chiến tranh, Phòng Thương mại đã bất chấp sức nặng của các tình huống như thế khi buộc phải đối đầu một lần nữa với vấn đề thị trường Đông Dương.

Vào năm 1916, người Nhật đề nghị mở rộng phạm vi các điều khoản của hiệp ước thương mại năm 1911 để áp dụng cho cả Đông Dương. Đề nghị này đã khơi dậy sự chống đối của các Phòng Thương mại Paris, Rouen, Nantes, Marseille và Beauvais, Liên hiệp Thuộc địa Pháp (Union colonial franҫaise), Ủy Ban Comité des forges (Ủy Ban Ngành Rèn Kim Loại), Chambre syndicale des contructeurs d’automobiles (Ngành Các Nhà Xây Dựng Xe Hơi thuộc Phòng Thương Mại), Chambre syndicale des fabricants de bonneterie de Troyes [Ngành Các Nhà Chế Tạo Hàng May Mặc tại Troyes thuộc Phòng Thương Mại] và, tại Đông Dương, là sự chống đối của các Phòng Thương Mại của Sài Gòn và Hà Nội cùng các nhà chức trách thuộc địa, kể cả Brenier, lúc này đứng đầu Sở Sự Vụ Kinh Tế của thuộc địa.114 Trong một sự từ bỏ rõ rệt khỏi cam kết trước đây của nó với các nguyên tắc kinh tế tự vận hành (laissez-faire), Phòng Thương Mại Lyon đã góp chung tiếng nói vào bản hợp xướng chống đối này. Từ quan điểm của Phòng Thương Mại, Nhật Bản sở hữu bốn lợi thế – vị trị địa lý, lao động rẻ, sự hỗ trợ của chính phủ cho kỹ nghệ, và tổ chức nghiệp vụ ngân hàng – cho phép họ chế ngự đời sống kinh tế Đông Dương nếu chính phủ Pháp nhượng bộ yêu cầu của Nhật.115 Vào năm diễn ra trận Verdun, Phòng Thương mại Lyon khẳng định rằng chiến thắng tối hậu sẽ đưa vùng Alsace trở lại với nước Pháp hiện đang cần duy trì các thị trường thuộc địa cho ngành công nghiệp bông vải rất phát triển của tỉnh Alsace bị mất.116 Phòng Thương Mại cũng viện dẫn các yếu tố khác: các thành tựu kinh tế của Nhật Bản tại Đông Dương sẽ dọn đường cho các chiến thắng về chính trị, bởi các dân tộc bản xứ chắc chắn sẽ ghi nhớ sự bất lực của Pháp trong việc đối đầu với thách thức kinh tế của Nhật Bản.117 Phòng Thương Mại Lyon đã chuyển các kết luận này đến Bộ Trưởng Thương Mại và Kỹ Nghệ, Bộ Trưởng Các Thuộc Địa, Bộ Trưởng Tài Chính, Toàn Quyền Đông Dương, và, không lâu sau lại nhắc lại những lời cảnh báo đó khi nó hay biết về các nỗ lực liên tục của Nhật Bản để giành được các nhượng bộ thương mại tại Đông Dương.118

Người Nhật đã không giành được một sự mở cửa hơn nữa vào thị trường Đông Dương trong năm 1916, nhưng, họ đã buộc người Lyon phải thực hiện một bước tiến quan trọng đầu tiên tới một vị trí khó xử được phát biểu rõ ràng sau này trong thập niên 1930: “Phòng Thương mại Lyon có các nguyên tắc cấp tiến, nhưng bổn phận đòi hỏi nó phải hy sinh các nguyên tắc này, đôi khi với sự hối tiếc, vì các quyền lợi trực tiếp của người dân Lyon”.119  Tuy nhiên, Phòng Thương mại Lyon vẫn từ chối rút ra các kết luận hoàn toàn mang tính chất trọng thương khi vận động cho chính sách bảo hộ mậu dịch tại thuộc địa. Lệ thuộc vào các nguồn cung cấp tơ lụa sống từ bên ngoài nước Pháp và đế quốc Pháp, người Lyon chống lại các ý đồ được thiết kế nhằm ưu đãi các sản phẩm thuộc địa Pháp tại thị trường nội địa gây phương hại đến sản phẩm cùng loại đến từ các nguồn cung cấp ngoại quốc. Phòng Thương mại đã hậu thuẫn cho quan điểm được Công ty MM Michelin et Cie  đưa ra ngay sau chiến tranh chống lại các đặc quyền dành cho cao su Nam Kỳ tiến vào nước Pháp.120 Nhưng Phòng Thương mại Lyon đã không cho phép quan điểm này che khuất mối quan tâm của nó đối với các sản vật của thuộc địa. Nó ủng hộ các kế hoạch hậu chiến nhiều tham vọng của Albert Sarraut [làm Toàn Quyền Đông Dương lần thứ nhất từ tháng Mười Một, 1911 đến tháng Một 1914, và lần thứ nhì từ Tháng Một 1917 đến Tháng Năm 1919, chú của người dịch] cho sự phát triển đế quốc.121 Và trong suốt thời kỳ giữa các cuộc chiến, nó tiếp tục quan tâm đến sự phát triển ngành tầm tang Đông Dương cũng như sự phát triển và bảo vệ các vốn liếng đầu tư khác của Lyon tại thuộc địa. Nó không chỉ ghi nhận các nỗ lực để cải thiện ngành tầm tang Đông Dương mà còn tìm cách thúc đẩy sự cổ vũ của chính phủ cho các nỗ lực như thế trong suốt thập niên 1920.122 Tại đây các kết quả đã không tương xứng với kỳ vọng.123 Vun đắp các quyền lợi tổng quát hơn, nó đã hậu thuẫn cho sự mở rộng các đặc ưu quyền của Ngân hàng Đông Dương (Banque de l’Indochine), tiếp đãi vị Hoàng đế Việt Nam, và du nhập một khóa học ngôn ngữ Việt Nam vào trong giáo trình của ngôi trường mới của nó, École de preparation colonial.124

Thị trường Đông Dương lôi cuốn nhiều sự quan tâm hơn nữa, bởi, mặc dù sự thịnh vượng của ngành công nghiệp tơ lụa đã đạt tới các đỉnh cao mới vào thập niên 1920, các vấn đề mới, đặc biệt là sự trồi sụt tiền tệ và việc dựng lên các hàng rào bảo hộ mậu dịch hầu như ở khắp mọi nơi, đã quấy rầy các nhà sản xuất tại Lyon. Tất cả các thị trường thuộc địa, bất kể các hạn chế nội tại của chúng, đều trở nên quan trọng hơn đối với người Lyon. Phòng Thương mại theo dõi sát sao cơ cấu thuế quan của Đông Dương.125 Nó lo ngại về nạn buôn lậu.126 Và một lần nữa nó chạm trán với thách thức của Nhật Bản. Vào năm 1921, khi nó nhận được các tin đồn rằng người Nhật có chủ định lợi dụng Hội Nghị tại Washington để đạt được sự nới rộng các tỷ suất tối thiểu của thỏa hiệp năm 1911 đến vùng Đông Dương, nó đã phản ứng bằng việc thông báo với Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao, Bộ trưởng Thương mại và Kỹ nghệ, và Bộ trưởng các thuộc địa rằng không có gì thay đổi từ năm 1916 hay, nói chính xác hơn, rằng tình hình đã xấu đi.127 Nếu các tin đồn được chứng minh là vô căn cứ, chính phủ vẫn phải đối mặt với việc thương thảo một hiệp ước thương mại mới với Nhật Bản. Khó chịu hơn nữa khi Nhật bản áp dụng thuế phụ thu theo giá trị (ad valorem surtax) ở mức 100% trên việc nhập cảng các xa xỉ phẩm, nghĩa là với các mặt hàng như vải loại tốt của Lyon, vào năm 1924, Phòng Thương mại Lyon tái khẳng định lập trường của nó trong năm 1916.128 Như lời giải thích vào năm 1925 với Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao và Bộ trưởng Thương mại, nó mong muốn “một sự bảo hộ hữu hiệu” cho các sản phẩm mẫu quốc chống lại sự cạnh tranh của Nhật Bản tại Đông Dương.129 Sau này trong cùng năm đó, nó ủng hộ lập trường được đưa ra bởi Nghiệp Đoàn Các Nhà Sản Xuất Hàng Tơ Lụa (Syndicat des fabricants de soieries) địa phương. Nghiệp đoàn này, sau khi xem xét nhiều lợi thế khác nhau của Nhật Bản đối với Đông Dương, đã đề nghị rằng chỉ có thể nhượng bộ đối với các món hàng không thể nào sản xuất được tại Pháp và rằng kể cả khi đó, để đổi lại cho việc nhượng bộ, Nhật Bản sẽ phải bãi bỏ thuế phụ thu một trăm phần trăm.130 Vẫn còn đang dò dẫm tiến tới lập trường bảo hộ cực đoan trong các năm Suy Thoái, Phòng Thương Mại cho rằng cần phải bảo vệ các quan điểm của nó bằng lập luận rằng giờ đây, cũng giống y như trong quá khứ, các quan điểm đó đã xuất phát từ sự quan tâm đến quyền lợi của các thực dân định cư và các dân tộc bản xứ chứ không chỉ từ một ước muốn hoàn toàn vị kỷ để bảo vệ các nhà sản xuất ở mẫu quốc.131 Các cuộc thương thảo sẽ cần đến thời gian để hoàn tất và trong khi đó, người Lyon tiếp tục đẩy mạnh các đòi hỏi của họ tới các nhà chức trách có thẩm quyền.132

Phòng Thương Mại Lyon đã thảo luận về thị trường Đông Dương, cũng như các vấn đề khác, với Toàn Quyền của thuộc địa vào nhiều dịp khác nhau trong suốt thập niên đầu tiên sau khi chiến tranh kết thúc. Nó đã tiếp đãi ông Maurice Long [làm Toàn Quyền Đông Dương từ Tháng Hai, 1920 đến Tháng Tư, 1922, chú của người dịch] hôm 7 Tháng Một năm 1921. Chủ tịch Phòng Thương Mại, Jean Coignet, một thượng nghị sĩ và một đại gia ngành công nghiệp hóa học, đã chào đón ông Long và, khấn nguyện sự tưởng niệm đến Ulysse Pila giờ đây đã được thánh hóa, đã phác họa tầm quan trọng của thuộc địa đối với Lyon.133 Ủng hộ các nỗ lực để mở ra một kỹ nghệ hóa học tại Đông Dương, Coignet nêu ý kiến rằng các nhà hóa học của Lyon có thể được phái sang thuộc địa và người Việt Nam có thể được huấn luyện tại trường hóa học do Phòng Thương mại đỡ đầu.134 Ông Long, để hồi đáp, quay trở lại với sự tiếp xúc trước đây của ông với ngành tầm tang tại vùng Lyon và cuộc tiếp xúc gần đây hơn với người con trai của ông Pila, Fernand, là người giờ đây đang phục vụ với tư cách Sứ Thần Pháp tại Xiêm La, trước khi xem xét các vấn đề nghiêm trọng hơn.135 Ông nhấn mạnh đến tầm quan trọng của nền sản xuất lúa gạo của Đông Dương và ghi nhận sự thúc đẩy bởi chiến tranh đến sự chú ý từ lâu của Lyon, sự sản xuất than đá.136 Nói về thái độ của người Việt Nam, ông Long nhấn mạnh các đóng góp của họ tại các chiến hào và nhà máy của Pháp trong thời chiến tranh khi họ được cho là đã phát hiện ra rằng người dân Pháp không kỳ thị và còn sẵn lòng đón tiếp họ như anh em.137 Viên Toàn Quyền, nhận thức được các thay đổi do chiến tranh đem lại, tiếp tục chúc mừng đồng bào của ông về nền hòa bình ngự trị tại Đông Dương vào lúc mà “tình trạng vô chính phủ” thâm nhập khắp nước Nga, và Nhật Bản đang phải đối diện với các khó khăn tại Triều Tiên.138 Sau khi thể hiện sự sẵn lòng của mình để giữ mối liên lạc với người Lyon, ông Long đã nhấn mạnh tầm quan trọng mới của vùng Thái Bình Dương trong thế giới thời hậu chiến.139 Auguste Isaac, cựu chủ tịch Phòng Thương Mại Lyon và giờ đây là Bộ Trưởng Thương Mại và Kỹ Nghệ, đồng ý với ông Long về tầm quan trọng của vùng Thái Bình Dương và, phù hợp với sự cảnh giác cao độ về tầm quan trọng của các nguồn tiếp liệu thuộc địa được nảy sinh bởi chiến tranh, đã hướng sự chú ý của ông Long đến nhu cầu khuyến khích sự phát triển ngành trồng bông vải tại thuộc địa.140 Như một biểu tượng cho sự tin tưởng của chính mình nơi Đông Dương, ông nhắc lại cuộc phản đối, được tổ chức vào năm 1916, để chống lại sự nhường lại thuộc địa cho Nhật Bản để đánh đổi lấy sự đổ bộ của một số sư đoàn Nhật Bản tại Salonica [? *e].141

Martial Henri Merlin [làm Toàn quyền Đông Dương từ Tháng Tám 1922 đến Tháng Tư 1925, chú của người dịch] đã đến Lyon hai năm sau. Phòng Thương Mại trong dịp này ở vào vị thế phân chia sự chú ý của nó giữa ba vị Toàn Quyền, của Đông Dương, Madagascar và Tây Phi thuộc Pháp. Phát biểu với quan khách của Phòng Thương Mại ở buổi ăn trưa, chủ tịch của nó, ông Louis Pradel, trước tiên hướng các nhận xét của ông đến các đề tài về quyền lợi tổng quát của đế quốc. Ông thừa nhận rằng các cội rễ của sự cam kết của Lyon cho sự bành trướng nằm nơi các đối khoản kinh tế, nhưng ông cũng rút ra mỹ từ của phe Cấp Tiến thân thiết với Albert Sarraut trong việc phủ nhận rằng nước Pháp đã theo đuổi các mục tiêu có tính cách đế quốc chủ nghĩa.142 Nước Pháp, xem ra, đã nhìn xa hơn “sự chinh phục các thị trường mới”, hướng đến mục tiêu cao cả hơn nhằm mang phúc lợi đến các kẻ thần phục dưới sự cai trị của Pháp và giờ đây đang nhắm vào việc phát triển các thuộc địa, không phải chỉ cho các quyền lợi riêng của Pháp, mà còn vì tình nhân loại.143 Tuy nhiên, ông đã ghi nhận rằng nước Pháp cần thu về nhiều sản phẩm từ các thuộc địa của nó và, khi thảo luận về Đông Dương, đã mau chóng quay lại các vốn liếng đầu tư của Lyon tại thuộc địa.144  Merlin, giống như ông Long hai năm trước, hứa hẹn sẽ ủng hộ các nỗ lực của Lyon tại Đông Dương.145

Vào Tháng Mười năm 1925, Phòng Thương Mại đã tổ chức một cuộc đón tiếp dành cho Toàn Quyền của vùng Phi Châu Xích Đạo thuộc Pháp và người kế nhiệm Merlin tại Đông Dương, ông Alexandre Varenne [làm Toàn quyền Đông Dương từ ngày 18 Tháng Mười Một, 1925 đến Tháng Một, 1928, chú của người dịch]. Ông Eduard Herriot, thị trưởng Lyon, thủ tướng Pháp hồi đầu năm và giờ là chủ tịch của Viện Dân Biểu, đã tham dự buổi họp mặt cùng với các thân hào địa phương khác. Ông Pradel liệt kê các khoản vốn liếng đầu tư của Lyon tại Đông Dương, nhấn mạnh đến nhu cầu phát triển các nguồn tài nguyên thuộc địa, và ghi nhận sự sẵn lòng của người Lyon để hậu thuẫn cho các sự khởi công ngành công nghiệp tại thuộc địa.146 Hay biết rất rõ về sự cam kết của ông Varenne với sự cải tổ thuộc địa, ông đề nghị rằng sự phát triển kỹ nghệ như thế sẽ trợ giúp vào sự giáo dục người bản xứ.147 Viên Toàn Quyền đưa ra lời hứa hẹn theo nghi thức sẽ tự mình quan tâm đến các quyền lợi của Lyon.148 Sau đó ông đã phác thảo một số vấn đề đối diện với ông. Tình trạng ở Đông Dương có vẻ “không nguy hiểm, nhưng tế nhị”149 Thế Chiến [Thứ Nhất], “một cuộc nội chiến của Âu Châu”, sau hết đưa đến sự tham dự, như chứng nhân hay tác nhân, người Phi Châu và Á Châu.150 Người Việt Nam, hãnh diện một cách chính đáng nền văn minh cổ xưa của họ nhưng cũng nhận thức được các ý tưởng phương Tây, bày tỏ các dấu hiệu của sự hiếu động mặc dù họ vẫn không muốn vứt bỏ ách thống trị của người Pháp.151 Người Pháp sẽ phải “gia tăng các phúc lợi của nền văn minh (và) chú ý đến các vấn đề vệ sinh, cứu trợ và giáo dục”.152 Công tác sẽ đưa đến trong lãnh vực kinh tế, sự đầu tư nhiều tư bản hơn vào các công trình công chánh, canh nông và khai thác hầm mỏ. 153  Người Pháp cũng sẽ phải đóng một vai trò đạo đức, và nơi đây câu hỏi về “liều lượng” (dosage) xem ra “đặc biệt tế nhị”.154  Họ không nên tạo ra các hy vọng không thể thỏa mãn được.155 Các sự cải cách một cách lý tưởng phải xảy ra mười lăm phút trước khi đòi hỏi về chúng được đề ra.156 Varenne, dự liệu hành vi giữ thăng bằng sẽ khiến cho chương trình cải cách ôn hòa của ông đến chỗ thảm họa tại Đông Dương, đã nhấn mạnh đrến nhu cầu của “sự mạnh dạn” (audacity) và “lòng quảng đại” (generosity), nhưng, hiểu biết về khối thính giả của mình, ông cũng nhấn mạnh đến nhu cầu của sự “khéo léo”, “thận trọng” và một cảm thức về sự cân nhắc.157 Không thành viên nào của khối thính giả đó có thể hiểu được thông điệp của ông cho bằng ông Herriot, kẻ trong nhiều năm đã điều hòa sự táo bạo của mình bằng sự thận trọng được yêu cầu bởi cộng đồng kinh doanh Lyon.

Ba năm sau đó Phòng Thương Mại còn chào mừng một vị Toàn Quyền khác, ông Pierre Pasquier [làm Toàn Quyền Đông Dương từ 28 Tháng Tám năm 1928 đến 15 Tháng Một 1934, chú của người dịch]. Tại một phiên họp nghiên cứu được tham dự bởi các đại diện của các thương nghiệp địa phương để ý tới thuộc địa, kể cả ông Georges Pila của dòng tộc Pila và Công Ty Pila et Cie, Phòng Thương Mại đã trình bày với ông Pasquier các yêu cầu chi tiết liên quan đến các vấn đề như sự mở rộng để gồm Đông Dương vào các khoản trợ cấp cho ngành tầm tang Pháp, bảo hộ mậu dịch chống lại sự cạnh tranh của Nhật Bản, các biện pháp cương quyết hơn nhằm chống lại nạn buôn lậu các sản phẩm của Trung Hoa và Nhật Bản vào thuộc địa, các sự thay đổi trong cấu trúc của quan thuế biểu, và lệnh đặt hàng tại Pháp nhiều vật liệu hơn, cần thiết cho một chương trình công chánh mở rộng.158 Tại một buổi ăn trưa, có tham dự bởi ông Herriot, các đại biểu quốc hội khác và các thành viên của cộng đồng kinh doanh đặc biệt quan tâm đến Đông Dương, ông Pradel đã quay trở lại với các chủ đề quen thuộc, các ràng buộc giữa thành phố và thuộc địa, các nhu cầu kinh tế của Pháp mà thuộc địa có thể thỏa mãn được, và các mục tiêu của sứ mệnh khai hóa.159 “Công tác khai hóa” bao hàm các chiều kích đạo đức và xã hội, với một nước Pháp kiềm chế các thành kiến và trợ giúp các dân tộc bị trị.160 Ở đây chủ tịch Phòng Thương Mại tán thành ước muốn của Pasquier “để liên kết càng nhiều càng tôt các phần tử lành mạnh của dân bản xứ với chính quyền và để dẫn dắt họ đến việc hợp tác với các thực dân định cư.161 Pasquier, kế đó, đã nhìn nhận các món nợ còn thiếu bởi thuộc địa đối với Lyon và Phòng Thương Mại của nó và đã cám ơn Phòng Thương Mại về những gì nó đã thực hiện trong quá khứ và cho những gì mà nó sẽ thực hiện trong tương lai cho Đông Dương.162 Ông đã hứa hẹn rằng, một khi ông cần đến các sự chỉ dẫn, ông ta sẽ hướng đến người Lyon, đến chủ tịch Phòng Thương Mại, và nếu cần thiết, đến ông thị trưởng của thành phố, Edouard Herriot.163

Tai họa đã đổ xuống Lyon trong năm 1929.  Nếu sự thiếu vắng tương đối ngành kỹ nghệ của Pháp đã tránh cho phần lớn xứ sở các sự tàn phá tức thời của Cuộc Suy Thoái, sự lệ thuộc của Lyon vào ngoại thương, cả về các số nhập cảng tơ lụa sống lẫn số xuất cảng hàng may dệt đã hoàn tất, khiến cho thành phố đặc biệt bị tổn thương vào lúc xẩy ra cuộc khủng hoảng. Vào năm 1935 các con số sản xuất trên các sản phẩm tơ lụa sản xuất tại địa phương chỉ bằng một phần năm tổng số năm 1929 hay, với một sự so sánh nhiều ý nghĩa hơn, chỉ bằng một nửa của tổng số năm 1913.164  Năm kế đó các nỗi lo sợ xã hội tệ hại nhất mà Phòng Thương Mại xem ra sẽ được hiện thực với việc lên nắm quyền hành của chính phủ Mặt Trận Bình Dân của ông Léon Blum. Các sự khảo sát xã hội, cũng như về cuộc khủng hoảng kinh tế, sớm dẫn dắt Phòng Thương Mại đến việc phát huy đường lối nhân nhượng. Nhưng không có phương cách vượt thoát dễ dàng khỏi tai họa đã xuất hiện. Tất nhiên, một thảm họa ở tầm mức này đã ảnh hưởng đến chủ nghĩa đế quốc của Lyon và, đối với Đông Dương, đã mang lại tính cấp bách mới cho nhiều trong số các đòi hỏi đã sẵn được nêu lên bởi cộng đồng kinh doanh địa phương trong suốt thập niên trước đó.165

Ngay từ năm 1929, các thương gia tơ lụa Lyon đã phàn nàn về sự thừa mứa hàng lụa trên thị trường quốc tế.166 Nhưng tình trạng của thị trường đã không ngăn cản họ khỏi việc tiếp tục thúc đẩy cho sự phát triển ngành tầm tang tại Đông Dương.  Trong năm 1929, họ đã thành công trong việc xô đẩy chính quyền thuộc địa vào một sự trợ cấp cho các tơ lụa được xe bởi các cơ xưởng ở Âu Châu và xuất cảng từ Đông Dương sang Pháp hay đến các thuộc địa khác của Pháp.167 Phí tổn của chương trình này được ước định lên tới 1.360.000 franc mỗi năm.168 Tuy nhiên, biện pháp này đã không làm thỏa mãn người Lyon một cách hoàn toàn. Tin tưởng rằng sự sản xuất của Đông Dương có thể gấp đôi hay gấp ba và hay biết rằng lụa Đông Dương, ngay dù với khoản trợ cấp, cũng không thể cạnh tranh với hàng lụa của Trung Hoa, họ đòi hỏi sự ủng hộ hơn nữa từ chính quyền.169

Cùng lúc các thị trường thuộc địa đều trở nên quan trọng hơn. Chúng đã chỉ tiêu thụ sáu phần trăm tổng số xuất cảng các sản phẩm tơ lụa trong năm 1930, nhưng với việc các nhà sản xuất Lyon gặp phải nhiều khó khăn hơn tại các thị trường phát triển hơn, chúng phải đảm đương tới hai mươi phần trăm các số xuất cảng này trong năm 1933 và hai mươi ba phần trăm trong năm 1934.170 Dĩ nhiên, thị trường Đông Dương giờ đây trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Nơi đây khối lượng hàng buôn lậu vẫn gây bực dọc cho người Lyon.171 Cũng thế, là các khía cạnh khác nhau của quan thuế biểu của thuộc địa.172 Sự cạnh tranh của Nhật Bản vẫn còn là mối đe dọa chính yếu. Người Lyon lo sợ về kích thuớc toàn cầu của mối nguy hiểm này.173 Và trong trường hợp của Đông Dương, tất cả họ còn chống đối một cách mãnh liệt hơn ý tưởng về các sự nhượng bộ của Pháp trong cuộc thương thảo một hiệp ước thương mại mới.174 Trong quan hệ này họ rõ ràng đã dành được một thắng lợi, bởi thỏa ước được ký kết trong Tháng Năm 1932 chứa đựng các điều khoản bảo vệ cho vị thế của họ tại thị trường Đông Dương.175 Sự rỗng tuếch của chiến thắng này đã được phát hiện trong vòng chưa tới một năm. Phòng Thương Mại khiếu nại với Bộ Trưởng Các Thuộc Địa và Bộ Trưởng Thương Mại và Kỹ Nghệ năm 1933 rằng trong khi các số xuất cảng các hàng dệt pha lụa và lụa nguyên chất của Pháp sụt giảm từ 34 phần trăm thị phần của thị trường Đông Dương trong năm 1930 xuống còn 8.1 phần trăm trong năm 1932, thị phần của Nhật Bản đã tăng trong cùng thời kỳ từ 9,45 phầm trăm lên 55 phần trăm.176 Các thống kê cho Tháng Mười Hai, 1932 cho thấy tầm mức của tai họa: phía Pháp, có nghĩa, các người Lyon, chiếm giữ 54 phần trăm của tổng số trong tháng trong khi người Nhật chiếm tới 83,60 phần trăm của tổng số.177 Hậu quả, Phòng Thương Mại đòi hỏi một sự áp dụng một khoản phụ thu 50 phần trăm, trên các số nhập cảng các sản phẩm này của  Nhật Bản vào thuộc địa.178 Khi Bộ Trưởng Thương Mại vạch ra rằng sự áp dụng một biện pháp như thế sẽ tạo ra nhiều khó khăn, Phòng Thương Mại lùi lại để vận động cho sự thiết lập một hạn ngạch cho các sản phẩm của Nhật Bản.179

Vấn đề này đã nhận được một sự chú ý cặn kẽ hơn khi vào ngày 24 Tháng Tư năm 1934 Phòng Thương Mại Lyon tiếp đãi một Toàn Quyền khác, ông Eugène-Louis-René Robin [làm Toàn quyền Đông Dương từ ngày 15 Tháng Một 1934 đến Tháng Chín 1936, chú của người dịch]. Tại một phiên họp nghiên cứu sáng hôm đó, Phòng Thương Mại và ông Robin đã thảo luận về các vấn đề như sự cạnh tranh của Trung Hoa và Nhật Bản, sự phát triển ngành tầm tang, sự mở rộng các công trình công chánh và sự phá giá tiền đồng [piastre, tiếng Pháp trong nguyên bản, chỉ đồng tiền Việt Nam (?), chú của người dịch] [180?, không thấy đánh số cước chú này, người dịch phỏng đoán nơi đây]. Vào bữa ăn trưa, chủ tịch Phòng Thương Mại duyệt lại sự cam kết của Lyon với chính sách đế quốc và bày tỏ sự tưởng nhớ theo thông lệ đến ông Pila, một trong số các con trai của ông hiện đang trông coi các sự kinh doanh của gia đình trong khi người con trai khác đang phục vụ với tư cách đại sứ tại Nhật Bản.181 Nhưng phát ngôn viên Phòng Thương Mại không thể né tránh các sự ám chỉ đến các vấn đề mà Robin và Phòng Thương Mại phải đối đầu tại thuộc địa vùng Viễn Đông của Pháp:

Chúng ta mong ước sự yên tĩnh và thịnh vượng cho Đông Dương, cả cho danh dự của nước Pháp lẫn cho các quan hệ của chúng ta với nó. Chúng ta ao ước rằng các quan hệ với các nước láng giềng không dẫn dắt nó đến việc phủ nhận các quan hệ gia đình của nó với mẫu quốc, không có điều đó, nó sẽ không như bây giờ. Chúng ta hy vọng rằng nó tự phòng vệ chống lại cả tình trạng vô chính phủ của Trung Hoa lẫn sự xâm lăng của các sản phẩm của Nhật. Ngược lại, chúng ta sẽ bị dối gạt và sẽ không có cả sự an ủi để nhìn thấy Đông Dương được hạnh phúc.182

Robin, né tránh phát biểu, hứa hẹn sẽ thắt chặt các ràng buộc giữa thuộc địa và Lyon.183 Ít nhất từ quan điểm của Phòng Thương Mại Lyon, một điều gì đó của một khoảng trống luôn luôn nằm giữa các lời hứa hẹn như thế với các kết quả cụ thể. Trong suốt các năm khó khăn của cuộc Suy Thoái, khoảng cách đó trở thành một vực thẳm, bởi cả các nhà quản trị thuộc địa lẫn Phòng Thương Mại đều không có thể làm gì nhiều để sửa chữa các khó khăn nảy sinh bởi cuộc khủng hoảng thế giới.

Không thực tế trong thời khoảng thuận lợi nhất, các giấc mơ về ngành tầm tang Đông Dương không đi đến đâu. Condition des Soies (Chợ hàng Tơ Lụa) của Lyon đã nhận được năm mươi ba ký lô tơ lụa sống từ Đông Dương trong năm 1937 và không có gì trong năm kế tiếp.184 Nhưng trong năm 1938 Nhật Bản cung cấp cho Chợ Condition 1.057.166 kí-lô.185 Sự lệ thuộc của Lyon vào Nhật Bản về sản vật này khiến cho sự thách đố thương mại của Nhật Bản càng đáng căm giận hơn. Đối diện với sự cạnh tranh của Nhật Bản tại các thuộc địa gần sát nội địa hơn nhiều, có nghĩa, tại Morocco và Syria nơi mà người Lyon cũng sở đắc nhiều quyền lợi sâu rộng, Phòng Thương Mại đã làm những gì nó có thể làm được để đương đầu với mối đe dọa này tại Đông Dương.186 Nó đạt được sự triển hoàn và sau cùng sự bãi bỏ các nỗ lực của chính phủ Mặt Trận Bình Dân để hạ thấp các thuế suất quan thuế biểu Đông Dương trên các số nhập cảng hàng dệt may bằng hàng tổng hợp và bằng tơ lụa.187 Nó đi xa hơn chiến thắng nhỏ bé này để tán trợ một lần nữa một lập trường trọng thương trong năm 1938 khi nó hô hào sự phát triển tại thuộc địa chỉ những ngành kỹ nghệ không cạnh tranh với các công nghiệp tại mẫu quốc.188

Được ngụy trang một cách sơ sài bởi các sự viện dẫn đến “tình hữu nghị” và “sự liên kết”, quan điểm này cấu thành một sự phủ nhận các quan điểm kinh tế tự vận hành (Laisser-faire) được tán thành bởi Phòng Thương Mại vào lúc khởi đầu của Đệ Tam Cộng Hòa. Bước chuyển động đầu tiên tách ra khỏi các quan điểm này diễn ra trong Thế Chiến I và, một cách đáng kể, liên can đến một sự thay đổi sang một lập trường bảo hộ mậu dịch đối với Đông Dương. Cuộc khủng hoảng của thời Suy Thoái dẫn đến sự biến thể của chính sách bảo vệ mậu dịch thành một lập trường trọng thương trọn vẹn hơn. Các đại gia kinh doanh Lyon, tại quê nhà và hải ngoại, đối đầu với các vấn đề mới bao la trong suốt thập niên 1930 và đã không đối phó được với chúng một cách tốt đẹp. Trong suốt các năm Suy Thoái thê lương, các hoạt động của họ tại Đông Dương mang tất cả sức đè nặng của các hy vọng bị tan tành và các mơ ước bị bể vỡ. Cuộc Suy Thoái xem ra đã tạo ra một sự chế nhạo đối với các nỗ lực trước đây của họ tại thuộc địa. Nhưng có các sự nguy hiểm trong việc lưu ý thái quá đến các năm khó khăn đó. Giống y như trường hợp của lịch sử tổng quát hơn của nền Đệ Tam Cộng Hòa, nơi mà sự chú ý chặt chẽ đến thập niên trước Thế Chiến II có thể hữu ích vô cùng trong việc giải thích sự sụp đổ của năm 1940, nhưng cùng một lúc bóp méo các thành quả và các sự thất bại trước đó của nền cộng hòa sống lâu nhất của nước Pháp, một sự tập trung tương tự vào các vấn đề đối đầu bởi người Lyon tại Đông Dương trong thập niên đó có thể làm chuyển hướng sự chú ý khỏi sự vun đắp các vốn liếng đầu tư của Lyon tại thuộc địa xa xôi của nước Pháp trong suốt các năm nằm giữa sự thất trận trong Chiến Tranh Pháp-Phổ (Franco-Prussian War) với sự xuất hiện của cuộc Suy Thoái.

Thời kỳ quan trọng nhất trong tiến trình lâu dài này bao gồm các năm giữa 1885 và 1900 khi Đông Dương, hay ít nhất Bắc Kỳ, trở thành không chỉ một thuộc địa của Pháp mà còn là một thuộc địa cá biệt của Lyon. Trong những năm này, một loạt các sự khởi sự kinh doanh của Lyon, nhiều cuộc kinh doanh trong chúng được khởi sự hay tham dự bởi ông Ulysse Pila, đã diễn ra. Một số trong chúng, nổi bật là Công Ty Xi Măng Hải Phòng (Société des ciments de Portland artificiels de l’Indochine), sẽ thụ hưởng một tương lai phát đạt tại thuộc địa. Nhưng ông Pila không bao giờ đơn độc trong các cuộc kinh doanh như thế: các hội đồng giám đốc của nhiều công ty khác nhau của ông đã bao gồm các người Lyon khác, giống như ông, cũng sở đắc các sản nghiệp vững chắc và tận tụy cho mục đích của phe đế quốc chủ nghĩa. Một số trong các người này phục vụ với ông Pila trong tư cách thành viên của Phòng Thương Mại, các kẻ khác đơn giản tìm thấy tại Phòng Thương Mái đó một bộ phận đại điện hữu hiệu nhất cho các quyền lợi của họ. Điều chỉnh các quan điểm của nó theo các sự thay đổi tại thuộc địa, cũng như theo các sự thay đổi to lớn hơn trên khung cảnh thế giới, Phòng Thương Mại Lyon đã làm việc để mở rộng và bảo vệ các quyền lợi của người Lyon tại Đông Dương. Các Toàn Quyền của thuộc địa, cho dù họ có thể mong muốn né tránh các cam kết cụ thể với nó đến đâu đi nữa, đã phải xem xét đến các quan điểm của Phòng Thương Mại.  Nó đã không chỉ phát ngôn cho một cộng đồng kinh doanh đã đóng giữ một vai trò sinh tử trong đời sống kinh tế của Đông Dương, mà nó còn có thể thu hút được ảnh hưởng chính trị đáng kể của các nhân vật như các ông Edouard Aynard, Auguste Isaac và Edouard Herriot hầu tạo áp lực phải chịu đựng lên các toàn quyền ở thuộc địa. Có lẽ quan trọng hơn, Phòng Thương Mại cũng đã cung cấp một thành tố của sự liên tục thường thiếu vắng trong các sự đối phó của Pháp với Đông Dương. Nó đã chú ý đến miền này trước những ngày có đường xe hỏa và cao su, trước những ngày mà Ủy Ban Á Châu thuộc Pháp (Comité de l’Asie franҫaise) thường xuyên được tường trình về các lời yêu cầu, ý kiến đề nghị và các khiếu nại của nó, các Toàn Quyền đến rồi đi. Phòng Thương Mại Lyon vẫn trụ tại chỗ. Trong thực tế, nó rõ ràng là một định chế của mẫu quốc quan tâm nhất đến Đông Dương trong suốt thời Đệ Tam Cộng Hòa. Bất kể sự phát triển các quyền lợi khác bởi các người Pháp khác, rất có thể, ngay cả trong các năm sau Thế Chiến I, cộng đồng kinh doanh địa phương được đại diện bởi Phòng Thương Mại Lyon đã tiếp tục đóng vai trò hàng đầu về kinh tế, nếu không phải về tinh thần, tại Đông Dương./-

Chú thích 
105. “Développement de la sericulture au Tonkin”, CRTCCL, 1901, các trang 121-122; “La situation économique du Tonkin et les enterprises lyonnaises”, CRTCCL, 1903, các trang 245-254.
106. “Mouvement de la Condition des Soies”, CRTCCL, 1905, trang 1xx.
107. “La sericulture aux colonies”, CRTCCL, 1908, trang 99; “Primes à l’exportation des soies grèges du Tonkin”, CRTCCL, 1911, các trang 107-108.
108. “La Situation en Indo-Chine”, CRTCCL, 1909, các trang 386-387.
109. M. Dietrichs, Rapport, “Convention de commerce entre la France et le Japan”, CRTCCL, 1911, các trang 277-282.
110. “Réception de M. Poincaré, President de la République”, CRTCCL, 1914, các trang 472-482.
111. “Exposé de la situation industrielle et commercial de la circonscription de la Chambre de commerce de Lyon pendant l’année 1914”, cùng nơi dẫn trên, các trang 1-51.
112. “Difficulté des relations maritimes avec l’Indo-Chine”, CRTCCL, 1916, trang 119; ‘Transport des soies d’Extrême-Orient, — Suppression des transports maritimes d’Extrême-Orient”, CRTCCL, 1918, các trang 119-124.
113. Auguste Isaac, Discours, “Réception de M. Maurice Long, Gouverneur Général de l’Indochine, le 7 janvier 1921”, CRTCCL, 1921, các trang 697-771, 706-711, trang 710.
114. “Régime douanier applicable en Indo-Chine aux produits japonaises”, CRTCCL, 1916, các trang 232-237, 234.
115. Cùng nơi dẫn trên, trang 235.
116. Cùng nơi dẫn trên, trang 236.
117. Cùng nơi dẫn trên.
118. Cùng nơi dẫn trên, các trang 237-238.
119. Notes sur la Chambre de commerce de Lyon à l’usage de ses members (Lyon, 1937), trang 10.
120. “Régime douanier du caoutchouc de provenance étrangère”, CRTCCL, 1919, các trang 254-255; “Régime douanier du caoutchouc”, CRTCCL, 1922, các trang 408-412. Với tầm quan trọng của kỹ nghệ xe hơi tại Lyon, sự tương đối lãng quên của Phòng Thương Mại về cao su là điều nổi bật. Hai yếu tố có thể giải thích cho sự kiện này: sự chế ngự liên tục của Phòng Thương Mại bởi các đại gia ngành tơ lụa kéo dài sau khi các kỹ nghệ xe hơi và hóa học mới hơn xuất hiện trong khung cảnh địa phương, và sự tập trung các quyền lợi của Lyon tại Bắc Kỳ hơn là tại Nam Kỳ.
121. “Projet de loi relarif à la mise en valeur des colonies franҫaises”, CRTCCL, 1922, các trang 606-613.
122. “Exposé sur la sericulture en Indo-Chine”, CRTCCL, 1920, các trang 153-154; “Développement de la sériculture en Indochine”, CRTCCL, 1922, các trang 194-195; “Développement de la sériculture en Indochine”, CRTCCL, 1923, trang 49; “Développement de la sériculture en Indochine”, CRTCCL, 1924, các trang 29-30; “Demande d’application aux colonies de la loi du 31 mars 1928 concernant l’allocation de primes à la sericulture et à la filature”, CRTCCL, 1928, các trang 19-25.
123. “Développement de la sériculture en France et à l’étranger”, CRTCCL, 1923, các trang 17-26, 23-24.
124. “Renouvellement du privilege de la Banque de l’Indochine”, CRTCCL, 1922, các trang 572-573; “Visite de l’Empereur d’Annam au Musée des tissus”, cùng nơi dẫn trên, trang 805; “École de preparation coloniale et Musée colonial”, CRTCCL, 1925, các trang 553-570.
125. “Statistique commercial des importations d’Indochine en France”, CRTCCL, 1921, các trang 381-383; “Application à l’Indochine des coefficients de majoration des droits de douane”, cùng nơi dẫn trên, trang 385; “Application à l’Indochine des coefficients de majoration des droits de douane à l’Indochine”, CRTCCL, 1922, các trang 425-428; “Protection des filets en cheveux en Indochine”, CRTCCL, 1924, các trang 192-194; “Établissement d’une taxe générale d’importation en Indochine”, CRTCCL, 1926, các trang 258-261; “Établissement d’une taxe générale d’importation en Indochine”, CRTCCL, 1927, trang 278.
126. “Contrebande chinoise et japonaise en Indochine”, cùng nơi dẫn trên, các trang 278-280; “Contrebande sur les tissus de soie en Indochine”, CRTCCL, 1928, các trang 227-231.
127. “ Régime douanier applicable en Indochine aux produits japonais”, CRTCCL, 1921, các trang 384-385.
128. “Eventualité du renouvellement de la convention de commerce entre la France et le Japon”, CRTCCL, 1924, các trang 205-208; “Institution d’une taxe de 100% ‘ad valorem’ sur les marchandises de luxe importees au Japon”, cùng nơi dẫn trên, các trang 229-231.
129. Eventualité du renouvellement de la convention de commerce entre la France et le Japon”, CRTCCL, 1924, các trang 198-204.
130. Cùng nơi dẫn trên, trang 203.
131. Cùng nơi dẫn trên.
132. “Régime douanier de l’Indochine”, CRTCCL, 1926, các trang 256-257; “Concessions desires par le Japon pour les importations de soieries en Indochine”, CRTCCL, 1927, các trang 280-281; “Concessions desires par le Japon pour les importations de soieries en Indochine”, CRTCCL, 1928, các trang 222-227.
133. Jean Coignet, Discours, “Réception de M. Maurice Long, Gouverneur general de l’Indochine, le 7 janvier 1921”, CRTCCL, 1921, các trang 697-711, 698-701, 698-699.
134. Cùng nơi dẫn trên, trang 700.
135. Maurice Long, Discours, cùng nơi dẫn trên, các trang 701-706.
136. Cùng nơi dẫn trên, các trang 703-704.
137. Cùng nơi dẫn trên, trang 705.
138. Cùng nơi dẫn trên.
139. Cùng nơi dẫn trên, trang 706.
140. Auguste Isaac, Discours, cùng nơi dẫn trên, các trang 706-711.
141. Cùng nơi dẫn trên, trang 710.
142. Louis Pradel, Discours, “Réception de M. Merlin, gouverneur general de l’Indochine, de M. Garbit, gouverneur general de Madagascar, et de M. Carde, gouverneur general de l’Afrique occidentale franҫaise”, CRTCCL, các trang 558-572, 559-565, 560.
143. Cùng nơi dẫn trên, các trang 560-561.
144. Cùng nơi dẫn trên, trang 562.
145. Martial Henri Merlin, Discours, cùng nơi dẫn trên, các trang 570-572.
146. Louis Pradel, Discours, “Réception de M. Alexandre Varenne, gouverneur general de l’Indochine, et de M. Antonetti, gouveneur general de l’Afrique Equatoriale franҫaise”, CRTCCL, 1925, các trang 368-380, 369-374, 369-371.
147. Cùng nơi dẫn trên, trang 372.
148. Alexandre Varenne, Discours, cùng nơi dẫn trên, các trang 276-280, 376-377.
149. Cùng nơi dẫn trên, trang 377.
150. Cùng nơi dẫn trên.
151. Cùng nơi dẫn trên, các trang 377-378.
152. Cùng nơi dẫn trên, trang 378.
153. Cùng nơi dẫn trên.
154. Cùng nơi dẫn trên.
155. Cùng nơi dẫn trên.
156. Cùng nơi dẫn trên, trang 379.
157. Cùng nơi dẫn trên.
158. “Réception de M. Pasquier, gouverneur general de l’Indochine”, CRTCCL, 1928, các trang 379-391, 379-386.
159. Louis Pradel, Discours, cùng nơi dẫn trên, các trang 387-390.
160. Cùng nơi dẫn trên, trang 389.
161. Cùng nơi dẫn trên.
162, Pierre Pasquier, Discours, cùng nơi dẫn trên, các trang 390-391.
163. Cùng nơi dẫn trên.
164. “Exposé de la situation industrielle et commerciale de la circonscription de la Chambre de commerce de Lyon pendant l’année 1935”, CRTCCL, 1935, các trang 359-412, 366.
165. Muốn có một sự thảo luận chi tiết hơn về tác động của Cuộc Suy Thoái, xem John F. Laffey, “Municipal Imperialsim in Decline: The Lyon Chamber de Commerce, 1925-1938”, được đăng tải trong tạp chí French Historical Studies (Fall, 1975). Cuộc Suy Thoái gây ra một sự giảm bớt kích thước của tập CRTCCL hàng năm, và bất hạnh hơn, một sự sút giảm về phẩm chất các thông tin thống kê trình bày trong bộ tài liệu này.
166. “Exposé de la situation industrielle et commerciale de la circonscription de la Chambre de commerce de Lyon pendant l’année 1929”, CRTCCL, 1929, các trang 559-743, 599-600.
167. “La sériculture en Indochine – Allocation d’une prime pour les soies grèges exportées d’Indochine en France et aux colonies”, cùng nơi dẫn trên, các trang 14-16, 15.
168. Cùng nơi dẫn trên.
169. “La soie dans les colonies franҫaises”, CRTCCL, 1931, các trang 17-33, 22-30.
170. “Exposé de la situation industrielle et commerciale de la circonscription de la Chambre de commerce de Lyon pendant l’année 1934”, CRTCCL, 1934, các trang 367-422, 373.
171. “Tariff douanier indochinois et contrebande en Indochine”, CRTCCL, 1929, các trang 211-220; “Tariff douanier indochinois et contrebande en Indochine”, CRTCCL, 1930, các trang 206-212.
172. “Tariff douanier indochinois”, CRTCCL, 1931, trang 149.
173. “Concurrence japonaise par l’industrie textile”, CRTCCL, 1932, các trang 178-180; “La concurrence japonaise”, CRTCCL, 1934, các trang 203-207.
174. “Protection contre la concurrence japonaise des tissus de soie franҫais importés en Indochine”, CRTCCL, 1932, các trang 186-187.
175. Cùng nơi dẫn trên, trang 187.
176. “Protection contre les concurrences japonaises et chinoise pour les tissus de soie franҫais importés en Indochine”, CRTCCL, 1933, các trang 204-206, 205.
177. Cùng nơi dẫn trên.
178. Cùng nơi dẫn trên.
179. Cùng nơi dẫn trên.
180. “Réception de M. Robin, gouverneur general de l’Indochine”, CRTCCL, 1934, các trang 30-34.
181. Henry Morel Journel, Discours, cùng nơi dẫn trên, các trang 31-34.
182. Cùng nơi dẫn trên, trang 34.
183. Eugène-Louis-René Robin, cùng nơi dẫn trên.
184. “Mouvement de la Condition des Soies”, CRTCCL, 1937, trang 356; “Mouvement de la Condition des Soies”, CRTCCL, 138, trang 266.
185. “Grèges asiatiques: Chine, Canton, Japon”, cùng nơi dẫn trên, trang 270.
186. “Régime douanier marocain”, CRTCCL, 1934, các trang 223-224; “Régime douanier marocain”, CRTCCL, 1935, các trang 240-243; “Importation des soieries japonaises en Syrie et au Liban”, cùng nơi dẫn trên, các trang 250-251.
187. “Incidence des lois douanières du mois d’october 1936 sur les exportations de soieries en Indochine”, CRTCCL, 1936, các trang 139-141, “Incidence des nouvelles lois douanières sur les exportations de soieries en Indochine”, CRTCCL, 1937, các trang 122-123.
188. “L’industrialisation des colonies”, CRTCCL, 1938, các trang 217-220.

*****

PHỤ CHÚ CỦA NGÔ BẮC:

Trừ ý kiến của cá nhân người dịch nơi phụ chú *f, các dữ kiện của các phụ chú khác đều được rút ra từ Wikipedia.

*a Ulysse Pila  *b Joseph Chailey-Bert & Union Colonial Franҫaise: Liên Đoàn Thuộc Địa Pháp là một nhóm nhiều ảnh hướng của các thương gia Pháp được thành lập với mục đích bảo đảm cho chính sách thực dân Pháp liên tục, cũng như để củng cố các quyền lợi thương mại của chính họ.  Nó được thành lập trong năm 1893 và ấn hành tạp chí The Colonial Fortnightly (La Quinzaine colonial).  Liên Đoàn Thuộc Địa Pháp phục vụ như một tổ chức thực dân then chốt đã trợ lực lớn lao trong các công tác ngoại giao và thương mại của Pháp.  Mặc dù ngay từ sự thành lập ban đầu, Liên Đoàn Thuộc Địa Pháp chưa bao giờ trở nên to lớn, các hội viên của nó đã khởi sự với một khuynh hướng muốn bày tỏ các ý tưởng của mình, một cách lớn tiếng, và rồi đặt các ý tưởng này vào thực tế.  Các căn bản của Liên Đoàn Thuộc Địa Pháp phơi bày một tổ chức nhắm vào sự thay đổi và thăng tiến.  Sự thành công của Liên Đoàn Thuộc Địa Pháp sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến các thuộc địa của Pháp, và cách thức theo đó nước Pháp đối xử với các thuộc địa.

Chính sách của Liên Đoàn Thuộc Địa Pháp về hội viên rằng nó sẽ không chấp nhận các hội viên mới chỉ để tăng số lượng hội viên.  Mục đích của Liên Đoàn Thuộc Địa Pháp không nhằm gia tăng số hội viên, mà là gia tăng ảnh hưởng và tác dụng của nó xuyên qua hành động chứ không phải qua số đông.  Một số ít các hội viên nổi tiếng nhất của nó bao gồm Chủ Tịch đầu tiên của Liên Đoàn Thuộc Địa Pháp, Émile Mercet, và Tổng Thư Ký trong hai mươi năm, Joseph Chailey-Bert, một trong những hội viên nổi bật nhất và cương quyết nhất của Liên Đoàn.  Các hội viên khác gồm Jules Le Cesne, Paul Doumer, Noel Auricoste và Ulysse Pila, trong số nhiều nhân vật nổi tiếng khác qua thời gian.

Mối quan hệ chặt chẽ giữa Liên Đoàn Thuộc Địa Pháp với các thuộc địa đã ràng buộc số phận của nó trực tiếp với bất kỳ hay toàn thể sự việc mà nó tìm cách đạt được.  Việc thiếu vắng sự ủng hộ từ “kỹ nghệ và tư bản to lớn” đòi hỏi một phương cách khác để tìm kiếm sự yểm trợ bởi Liên Đoàn.  Như trong bất kỳ tổ chức mới nào, các hội viên được mến mộ và nổi tiếng sẽ giúp nâng đỡ ảnh hưởng và diện mạo của nó trước quân chúng.  Không có được nhiều các kẻ ủng hộ có thế uy tín to lớn, Liên Đoàn Thuộc Địa Pháp đã không thể thụ tạo được thế lực hay thẩm quyền như nó có thể có được.  Thay vào đó, Liên Đoàn đã phải dựa vào các doanh nghiệp thương mại ít ảnh hưởng hơn để bổ túc cho lý lịch và tạo năng lực cho tác động của nó.  Đây là một khuyết điểm không may của Liên Đoàn Thuộc Địa Pháp, bởi sự kiện này đã cản trở rất nhiều sức mạnh của Liên Đoàn mỗi khi nó cất tiếng đưa ra quan điểm.  Một điểm tích cực rằng nhờ có một nhân vật cứng cỏi như Chailley-Bert tại văn phòng của nó, Liên Đoàn Thuộc Địa Pháp vẫn còn có khả năng như một tác nhân trong các sự cải cách và sự vụ về thuộc địa.

Trong suốt sự hiện hữu ngắn ngủi của nó, Liên Đoàn Thuộc Địa Pháp đã có thể thu đạt được các sự thành công nhỏ tại nhiều lãnh vực khác nhau.  Từ các vấn đề tại Phi Châu đến Algeria và nhiều thắng lợi khác, Liên Đoàn đã có thể thay đổ được quan điểm của đủ số người muốn đòi hỏi sự thay đổi.  Bằng việc kiên trì hướng vào tiêu điểm, đặt mục tiêu và phân tích các tình trạng thuộc địa khác nhau, nó đã có thể thu góp đủ sự chú ý đến vấn đề mà sự thay đổi hay ít nhất khả tính cho sự thay đổi được cứu xét đến. Liên Đoàn không phải là một tổ chức lâu dài nhưng vào lúc nó hoạt động, Liên Đoàn Thuộc Địa Pháp đã là một yếu tố quan trọng trong các công tác thuộc địa của Pháp.

*c: Johannes, count van den Bosch,  (sinh ngày 2 Tháng Hai, 1780, tại Herwijnen, Hòa Lan — mất ngày 28 Tháng Một, 1844, tại The Hague), chính khách Hòa lan, kẻ đã mở rộng hệ thống cứu tế người nghèo và thiết lập Hệ Thống Canh Tác Tại Vùng Đông Ấn Độ thuộc Hòa Lan có tính cách gia trưởng, theo đó khối của cải khổng lồ từ các sản phẩm canh tác xuất cảng được bòn rút từ năm 1830 cho đến khoảng 1860, qua các khoản nộp thuế bằng sản phẩm canh tác theo chỉ định của các nông dân bản xứ.

Trong những năm khi còn trẻ (1798-1810, Bosch đã phục vụ trong quân đội tại Batavia, tức Jakarta ngày nay, tại vùng Đông Ấn Độ thuộc Hòa Lan, và trên kinh nghiệm này ông đã viết ra quyển Nederlandsche bezittingen in Azië, Amerika, en Afrika (1818)  (Các Lãnh Thổ Chiếm Hữu của Hòa Lan tại Á Châu, Mỹ Châu và Phi Châu) trong đó ông lập luận chống lại một hệ thống thuộc địa cởi mở và tán thành một hệ thống có tính cách gia trưởng mạnh mẽ.

*d: Fashoda: là địa điểm được biết chính yếu qua biến cố Fashoda năm 1898 giữa Vương Quốc Thống Nhất Anh Cát Lợi và Pháp.  Người Anh đang toan tính tạo lập một khối ảnh hưởng vững chắc từ nam Phi Châu xuyên qua miền Đông Phi Châu đến Ai cập, vốn đã sẵn nằm dưới sự kiểm soát của Anh Quốc.  Trong khi đó người Pháp đang tìm cách mở rộng từ Tây Phi Châu, dọc theo ranh giới phía nam của Sa Mạc Sahara nhằm kiểm soát toàn thể mậu dịch xuyên qua Sahel. Giao điểm của các tuyến kiểm soát chủ định này đi ngang qua Kodok, và một sự phân cách giữa các lực lương viễn chinh vũ trang dẫn hai nước đến bờ vực chiến tranh.  Kết quả nghiêng về phía Anh Quốc đã góp phần cho sự ổn định hóa các sự tuyên nhận thuộc địa và sự kết thúc chung cuộc của “Cuộc Chen Lấn Giành Châu Phi (Scramble for Africa).  Biến cố làm phát sinh điều được gọi là “hội chứng Fashoda: Fashoda syndrome” trong chính sách ngoại giao của Pháp.  Trong năm 1904, sự phát triển của Hiệp Ước Hữu Nghị: Entente Cordiale” đã thúc đẩy người Anh đổi tên thành phố thành Kodok với hy vọng xóa nhòa ký ức về biến cố.

* e: Georges Jacques Danton, sinh ngày 26 October 1759 – mất ngày 5 April 1794) là một nhân vật hàng đầu trong các giai đoạn ban đầu của cuộc Cách Mạng Pháp và là vị chủ tịch đầu tiên của Ủy Ban An Toàn Công Cộng (Committee of Public Safety).  Vai trò của Danton trong sự khởi động Cuộc Cách Mạng bị tranh luận: nhiều sử gia đã mô tả ông như “động lực chính yếu trong sự lật đổ chế độ quân chủ và sự thiết lập ra Đệ Nhất Cộng Hòa Pháp.  Là một nhân vật ôn hòa trong phe Jacobins, ông bị lên dàn máy chém bởi các phe bênh vực cho sự khủng bố cách mạng sau các lời tố giác về sự trục lợi và sự khoan hồng đối với các kẻ thù của Cách Mạng.

* f: Salonika: Về ý kiến đem bán Đông Dương cho Nhật Bản để đổi lây sự đổ bộ một số sư đoàn quân đôi Nhật lên Salonika là một chi tiết cần được khảo sát kỹ càng hơn.  Đó không chỉ là một ý tưởng lạ lùng trên việc mua bán trao đổi lành thổ của các dân tộc khác, mà còn đáng ngac nhiên về vị trí địa lý của nó.  Salonika có tên chính thức là Thessaloniki, là một hải cảng tại vùng trung nam của Macedonia, thuộc miền đông bắc Hy Lạp, thành phố lớn thứ nhì của Hy Lạp sau thủ đô Athens.  Trong Thế Chiến I, một lực lượng viễn chinh đồng minh đã đổ bộ lên vùng Saloniika này, và phần lớn khu phố cổ của thành phố đã bị hủy hoại bởi một trận hỏa hoạn do binh sĩ Pháp đang đồn trú tại đó vô tình gây ra vào ngày 18 Tháng Tám, 1917.  Nếu đây chính là thành phố mà tác giả muốn đề cập đến, toàn thể câu chuyện đổi chác này thực sự là một điều “khó hiểu được”?

BÌNH LUẬN

BÀI VIẾT LIÊN QUAN