Sự chuyển giao Kỹ thuật Quân sự Tây phương cho Việt Nam vào cuối thế kỉ 18 và đầu thế kỉ 19: Trường hợp nhà Nguyễn (Kỳ 1)

FRÉDRÉRIC MANTIENNE
NGÔ BẮC dịch

Lời người dịch:
Tài liệu này cho chúng ta thấy sự phát triển trong kỹ thuật xây dựng thành quách và đóng tàu thuyền của Việt Nam trong nửa cuối thế kỉ 18, nửa đầu thế kỉ 19. Chúng ta có thể ghi nhận một số điểm quan trọng, và từ đó là các bài học lịch sử hữu ích, trong bài viết dưới đây:

1. Trong nửa đầu thế kỷ thứ 19, Việt Nam đã có một hệ thống gồm ít nhất 32 thành trì trên khắp nước. Các thành này, xây dựng theo kỹ thuật quân sự Tây Phương, được đánh giá là vững chắc và hiện đại nhất so với bất kỳ quốc gia nào tại Á Châu cùng thời.
2. Với các thành phố quan trọng đều nằm dọc theo bờ biển hay sông lớn, việc xây dựng một hải lực hùng mạnh là điều thiết yếu cả về mặt quân sự lẫn thương mại cho bất kỳ một chính quyền Việt Nam nào. Trong nửa đầu thế kỷ thứ 19, Việt Nam đã có một hải quân hùng mạnh nhất Đông Nam Á, đã có một vị vua Gia Long tự mình học nghề mộc và xuống xưởng đóng tàu làm việc hàng ngày, đã gửi sứ bộ sang Trung Hoa lần đầu tiên bằng thuyền đi biển do chính Việt Nam đóng lấy, đã sử dụng và nỗ lực đóng tàu chạy bằng hơi nước tân tiến nhất thời bấy giờ tuy không thành công, và đã có một hải quân có thể đối đầu với bất kỳ quốc gia nào, theo các quan sát viên đương thời.
3. Ba vị vua đầu tiên của triều Nguyễn không phải là những người đã theo đuổi chính sách bế quan tỏa cảng, mà ngược lại, là những nhà lãnh đạo đã thực hành chính sách mở cửa để tiếp thu và thích nghi các khoa hoc, kỹ nghệ mới lạ từ bên ngoài có lợi cho quyền lợi của quốc gia./-

Các nhà lãnh đạo triều Nguyễn đã biểu lộ sự quan tâm lớn lao về kỹ thuật quân sự của nước ngoài. Sự chấp nhận và thích nghi kỹ thuật này của họ tạo thành một chương quan trọng trong các quan hệ với khối phương Tây trong lịch sử Việt Nam.

Cuộc hành quân quân sự đầu tiên của Pháp đánh Việt Nam có nhật kỳ vào tháng Tư 1847 khi một cuộc hải chiến giữa các chiến thuyền Việt Nam và hải quân nước Pháp đã xảy ra ngoài khơi thành phố Tourane (Đà Nẵng). Trong các báo cáo của họ, các sĩ quan phía Pháp có đề cập đến năm chiếc hộ tống hạm (corvettes) có thiết kế điển hình của Âu Châu, cũng như các thuyền buồm quân sự cổ truyền (1). Sau này, trong giai đoạn chinh phục thuộc địa giữa năm 1858-84, các sĩ quan Pháp đều nhất mực lấy làm khâm phục về sự kiên cố và cách thiết kế các ngôi thành mà họ đã đột kích để chiếm đóng ở nhiều nơi khác nhau trên xứ sở. Trong cả hai trường hợp, các chuyên viên thuộc hải quân và lục quân Pháp đã nhấn mạnh đến sự thích ứng tuyệt hảo của Việt Nam các kỹ thuật của Âu Châu vào các điều kiện ở địa phương. Bài nghiên cứu này nhắm vào sự thông thạo của Việt Nam trong việc xây thành lũy và các khoa học hải quân từ khoảng cuối thế kỷ thứ 18 cho đến nửa đầu thế kỷ thứ 19.

                 http://www.vietnamboats.org/Photos/1807annamboat.jpg

VIỆT NAM TRONG THẾ KỶ THỨ MƯỜI TÁM: SỰ CHUYỂN GIAO KỸ THUẬT QUÂN SỰ CỦA ÂU CHÂU

BỐI CẢNH:
Vào khoảng từ năm 1600 trở về sau, phần đất vốn từng được biết là Vương quốc Đại Việt đã bị chia đôi thành hai phần. Tại miền Bắc, thường được người Âu Châu biết đến là Tonkin [tức Đông Kinh, sử Việt gọi là Đàng Ngoài, chú của người dịch], nhà Lê trị vì nhưng quyền hành thực sự thuộc vào tay một loạt các Chúa (Lords) trong gia đình họ Trịnh. Tại miền Nam, Chúa Nguyễn cai trị từ vùng nay là Huế; trên danh nghĩa họ nằm dưới quyền chủ tể của nhà Lê nhưng được hưởng sự độc lập trên thực tế. Vương quốc của họ, được người phương Tây gọi là Cochinchina [sử Việt gọi là Đàng Trong, chú của người dịch], dần dần bành trướng đến đáy của Đồng Bằng sông Cửu Long. Sau nhiều thập kỉ chiến tranh từng đợt kéo dài cho đến nửa đầu thế kỷ thứ 17, hai bên đã đạt được một sự hưu chiến (ngừng chiến) tồn tại cho đến khi bùng nổ cuộc tranh chấp với Tây Sơn năm 1771. Ba anh em nhà Tây Sơn, những người đã lấy tên gọi từ ngôi làng của họ tại vùng thượng du tỉnh Bình Định, đã thành công trong việc lật đổ cả hai nhà cai trị họ Nguyễn và vua Lê/Chúa Trịnh, nhưng chưa bao giờ hoàn tất việc củng cố quyền hành của họ. Sau ba thập kỷ chiến tranh, nhà Nguyễn đã đánh bại họ và thành lập một đế triều cai trị một vương quốc Việt Nam thống nhất.

Mặc dù cả Chúa Trịnh lẫn Chúa Nguyễn đều quan tâm đến việc thu mua súng ống do Âu Châu sản xuất trong thế kỷ 17, nhưng các kỹ thuật liên quan đến việc xây dựng thành lũy và đóng tàu xem ra không được họ quan tâm mấy (2). Sự “nhập cảng” kỹ thuật quân sự đặc biệt trở nên quan trọng tại Việt Nam trong thời nội chiến với Tây Sơn. Sau một chiến thắng then chốt của Tây Sơn hồi năm 1773, và sự từ trần kế tiếp của hầu như tất cả các hoàng tử gia tộc Chúa Nguyễn, vị hoàng tử cuối cùng kháng cự — Nguyễn Ánh, tức Gia Long Hoàng Đế sau này (trị vì từ 1802 – 20), buộc chạy trốn xuống tận vùng Đồng Bằng sông Cửu Long. Trong năm 1776 hay 1777, ông hoàng trẻ quen biết với một giáo sĩ truyền đạo người Pháp, Pigneaux de Béhaine, Giám Mục địa phận Adran, khi đó đang sống tại Hà Tiên. Nguyễn Ánh nhiều lần tìm cách gia tăng quân số để chiến đấu chống trả Tây Sơn, nhưng hàng năm trong khoảng từ 1775 đến 1788, các đội quân và hạm đội hùng mạnh của Tây Sơn đã đánh đuổi lực lượng của ông và chiếm giữ nhiều nơi hơn nữa trong vùng Đồng Bằng, buộc ông phải lui về vùng đầm lầy và sau đó ra khỏi đất liền để trú ở các đảo trong vịnh Thái Lan.

Trung tâm quyền lực của Tây Sơn được đặt tại vùng đã từng là các tỉnh trọng tâm của vương quốc nhà Nguyễn; nhờ thế, họ có thể dựa vào các tỉnh đông dân cư nhất để gia tăng số lính. Các đội quân của họ thường được nói có quân số lên tới cả 200.000 người và đôi khi còn hơn thế. Ngược lại, Nguyễn Ánh chỉ có thể dựa vào dân số gốc người Việt thưa thớt tại phần phía nam Đồng Bằng, cùng với các dân định cư gốc Trung Hoa và Mã Lai trong khu vực. Về mặt quân số, các lực lượng đa chủng tộc này không thực sự cân xứng với các đội quân đông đảo của Tây Sơn, bên còn có một hải lực hùng mạnh bao gồm hàng trăm chiến thuyền buồm và chèo [galleys: thuyền buồm sàn thấp, chạy vừa cả bằng buồm lẫn tay chèo, chú của người dịch] và các thuyền nhỏ hơn, được tăng cường bởi các hải tặc Trung Hoa được tuyển mộ để điều khiển các thuyền buồm của họ. Các chiến dịch hành quân hỗn hợp của hải và lục quân Tây Sơn đưa đến nhiều cuộc thất trận nặng nề của lực lượng của Nguyễn Ánh. Họ không thể nào kháng cự các cuộc xâm nhập hàng năm của các lực lượng Tây Sơn vào phương Nam nhằm thu vét số thu hoạch lúa gạo, hay không thể phòng thủ được Sàigòn. Pigneaux đã thuyết phục ông hoàng trẻ tuổi rằng ông chỉ có thể đương đầu được ưu thế quân sự của Tây Sơn bằng cách áp dụng các trang thiết bị và các chiến thuật của Âu Châu (3).

http://www.vietnamboats.org/Photos/PCvnpcardjunshanoi.jpg

Khúc quanh đã trùng hợp với chuyến du hành của Pigneaux sang Pondicherry và sau đó về Pháp trong thời khoảng giữa 1785 đến 1789, khi ông ký kết một hiệp ước quân sự với triều đình Pháp nhân danh Nguyễn Ánh. Vào lúc cuối cùng ông đã không thể thuyết phục được triều đình Pháp thực thi bản hiệp ước, nhưng ông đã thành công trong việc gây quỹ đủ tài chính và khuấy động đủ sự quan tâm của người Pháp về tương lai của Nguyễn Ánh, giúp thu gom được nhiều kiện vũ khí và đạn dược xuất phát từ Pondicherry và đảo Mauritius. Nhiều chiến thuyền đã ở lại Cochinchina và được thuê mướn bởi Nguyễn Ánh và thủy thủ đoàn của chúng, cùng với một nhóm nhỏ các sĩ quan người Pháp mà ông giám mục đã thuyết phục gia nhập hàng ngũ. Họ chủ yếu là các sĩ quan hải quân, nhưng hai người là các chuyên viên lục quân rất thông thạo về pháo binh và các kỹ thuật xây dựng công sự phòng thủ. Điều thường được xác định là đã có tới 400 người Pháp phục vụ trong quân đội của Nguyễn Ánh, nhưng con số này đã được phóng đại quá lố (4). Dựa theo các nguồn tư liệu đương đại của Pháp, chúng ta có thể ấn định rằng nhiều nhất chưa có tới 100 người Pháp tại Cochinchina trước năm 1792, và chỉ có ít người ở lại sau thời điểm đó – có lẽ khoảng mười hai sĩ quan và một vài người lính. Trong thời khoảng từ 1799 đến 1802, khi mà sự giao tranh mãnh liệt nhất đã xảy ra trước khi Nguyễn Ánh chinh phục Việt Nam, chỉ có bốn sĩ quan hải quân còn có mặt tại Cochinchina (Đàng Trong)(5). Vì thế không thể nào nói rằng cá nhân họ đã làm thay đổi diễn biến của các sự việc. Tuy nhiên, họ đã huấn luyện quân đội của Nguyễn Ánh về các kỹ thuật mới và chia sẻ các kỹ thuật chiến đấu giúp cho quân lính và thủy thủ của ông cân bằng được ưu thế của quân đội Tây Sơn.

Các kỹ thuật Âu Châu đã được sử dụng trong việc xây dựng thành lũy và đóng thuyền trong suốt các thập niên sau cùng của thế kỷ thứ 18, kéo dài trong một giai đoạn lâu dài trong lịch sử Việt Nam. Chúng vẫn còn được phát triển và cải tiến trong suốt các thời trị vì của các vua Gia Long, Minh Mạng (1820-40), và Thiệu Trị (1841-7). Bài viết này vì thế sẽ tập trung chủ yếu vào ba nhà lãnh đạo này.

Thành Bắc Ninh (hinhxua .free.fr)

VIỆC XÂY DỰNG THÀNH LŨY

Nghệ thuật xây dựng các công trình phòng thủ đã có từ rất lâu đời tại Việt Nam. Công trình phòng thủ to lớn cổ xưa nhất là kinh đô của An Dương Vương tại thành Cổ Loa, cách Hà Nội 15km. Có nhật kỳ từ thế kỷ thứ ba trước Công nguyên, thành lũy này gồm ba phòng tuyến khác nhau có hình vòng cung, phòng tuyến thứ nhất và rộng nhất đo được 3km x 2km. Phòng tuyến thứ nhì dài 6,5 km và phòng tuyến thứ ba dài 1,6 km, bao quanh tòa thành và hoàng cung. Các tường thành, ở một số nơi cao tới 10 – 12 mét, được đắp bằng đất và vẫn còn được trông thấy. Cần phải ghi nhớ rằng họa đồ của tòa thành này được phỏng theo một kiểu mẫu của Trung Hoa, đặc biệt là có hình chữ nhật cho tường thành phòng thủ trong cùng.

Vào cuối thế kỷ thứ mười bốn, Hồ Quý Ly, kẻ thoán ngôi sau này bị Trung Hoa bắt giữ, đã dựng một tòa thành tại tỉnh Thanh Hóa. Thành này hình vuông, 500m x 500m, xây bằng đá có trát đất ngoài mặt. Nhiều viên đá này đo được 7 mét theo chiều dài và cao 1,5 mét, cân nặng 16 tấn. Trong thế kỷ thứ mười lăm, nhiều thành trì khác được xây dựng theo lệnh của vua Lê Thánh Tôn (trị vì từ 1459 đến 1497): tại Hà Nôi, Thanh Hóa, Đồng Hới và Ải An Nam [Port d’Annam: Ải Nam Quan (?), chú của người dịch]. Một vài thành (Hà Nội và Thanh Hóa) được xây theo mẫu hình vuông của Trung Hoa, trong khi các thành tọa lạc tại các vùng núi non được xây cất theo hình thể các ngọn núi tương tự như Vạn Lý Trường Thành tại Trung Hoa (6). Trong những năm 1600, các Chúa Nguyễn đã xây dựng một hệ thống thành trì phức tạp nơi biên giới phía bắc nhằm đẩy lui các cuộc viễn chinh của những kẻ địch của họ từ Tonkin (Đàng Ngoài). Hệ thống này bao gồm nhiều bức tường lũy (như ở Trường Đức [đúng ra là Trường Dục (?), chú của người dịch] và Đồng Hới), một số chạy dài cả 10 kilômét, với một tòa thành tại Dinh Muôi [?], nơi tọa lạc của bộ chỉ huy, các kho lúa gạo và cơ quan hành chính tỉnh Quảng Bình. Trường lũy ở Đồng Hới đánh dấu biên giới giữa hai vương quốc Việt Nam. Biên giới được đắp tường thành kiên cố này, tương tự như Trường Thành hay các bức tường thành được gia cố khác (bằng đá vôi) được thiết lập bởi người La Mã tại các biên giới đế quốc của họ, thì rất hữu hiệu. Một vài cuộc tấn công quan trọng của các lực lượng nhà Trịnh đã bị đẩy lui bởi quân đội nhà Nguyễn trong thế kỷ thứ mười bẩy, đưa đến một sự đình chiến giữa hai “vương quốc” kéo dài đến hàng trăm năm (7).

Cửa Thành Bắc Ninh (hinhxua .free .fr)

Nghệ thuật xây dựng thành trì mà người Việt Nam hay biết khi đó chủ yếu dựa trên tiêu chuẩn Trung Hoa, có hình vuông hay hình chữ nhật. Sau khi chiến tranh giữa Đàng Ngoài (Tonkin) và Đàng Trong (Cochinchina) thực sự chấm dứt vào năm 1672, ít có bằng chứng về bất kỳ sự xây dựng quân sự mới nào. Tuy nhiên trong thế kỷ thứ mười tám, chiến tranh Tây Sơn đã châm ngòi cho sự phục hồi tầm quan trọng của các thành trì phòng thủ tại Việt Nam, bởi có nhiều cuộc bao vây và nhiều thành trì mới đã được xây dựng ở cả hai bên. Tây Sơn đã củng cố kinh đô của họ tại Chà bàn, gần Thị Nại (cũng là một quân cảng quan trọng, phía bắc Qui Nhơn) với các tường thành bao quanh thành phố và một tòa thành sẽ chứng kiến nhiều cuộc vây hãm. Chúng ta chỉ có thể giả định rằng các thành trì này được xây bằng những bức tường đất có cắm tre trên bờ tường, sử dụng các bức tường thành cổ xưa hơn của người Chàm được xây bằng gạch.

Trong khi đó, Nguyễn Ánh phát triển Sàigòn thành kinh đô của ông; thành phố và khu vực bao quanh được gọi chung là Gia Định. Từ căn cứ này ông đã kháng cự Tây Sơn và sau cùng đã khởi sự công cuộc tái chinh phục toàn thể xứ sở. Tuy nhiên, ông đã phải mất nhiều năm để đạt được điều đó. Như đã ghi nhận, cứ vào mùa xuân Tây Sơn lại phái các đội quân và hạm đội đông đảo vào để thu đoạt số thu hoạch lúa gạo tại khu vực Gia Định. Các lực lượng mỏng manh của Nguyễn Ánh nhiều lần bị rượt đuổi, và ông hoàng buộc phải rời khỏi thành phố và, trong thực tế, phải xa xứ sở trong một thời kỳ để sống lưu vong. Sau đó ông tìm cách quay về, và trong tháng Bẩy năm 1789 Giám Mục Adran đã trở lại Sàigòn từ Pháp qua Pondicherry. Một trong những bước tiến đầu tiên của Nguyễn Ánh là đã tận dụng kiến thức quân sự của các sĩ quan Pháp bằng cách yêu cầu họ vẽ các họa đồ, và trông nom việc xây dựng một tòa thành tân tiến tại Sàigòn theo thiết kế của Âu Châu. Họa đồ được vẽ bởi Theodore Lebrun và Victor Olivier de Puymanel; 30.000 người đã được huy động để xây dựng tòa thành. Cư dân Sàigòn và quan chức của họ bị đánh thuế nặng nề để xây thành, và các công nhân bị thúc ép mạnh mẽ đến nỗi một cuộc nổi loạn đã bùng nổ (8).

Tòa thành được xây bằng đá; chu vi đo được 4.176 mét. Mặc dù được xây theo một mô thức Vauban điển hình, thành Sàigòn dù thế thường được mô tả là theo kiểu “Trung Hoa”, được thiết kế như một thành phố gồm tám hào, với hình bát giác của một đóa hoa sen, có tám cổng (9). (Sébastien Le Prestre [1633-1707], Lãnh Chúa vùng Vauban và là Thống Chế của nước Pháp, đã tổ chức phòng thủ các biên giới nước Pháp bằng việc xây dựng hay tái chỉnh trang hơn 300 tòa thành và các thành phố có công sự phòng thủ được kiên cố hóa. Tập khảo luận về sự tấn công và phòng thủ các tòa thành (Treatise on the attack and defence of citadels) của ông đã được ấn hành sau khi ông từ trần năm 1737, và các ý nghĩ của ông về việc xây dựng các công sự phòng thủ đã được thực hành tại Âu Châu trong hơn một thế kỷ. Các thành trì được xây dựng theo các mẫu thiết kế của ông có thể được tìm thấy trong các thành phố thuộc địa như Pondicherry, Madras và Calcutta.

Thành Sơn Tây, 1884 (hinhxua.free.fr)

Điểm mâu thuẫn này có thể được khảo sát chi tiết hơn, bởi nó sẽ giúp nhấn mạnh một số đặc điểm của tòa thành được xây dựng tại Sàigòn trong năm 1790. Các tư liệu Việt Nam cùng thời liên quan đến hoạt động của những người lính đánh thuê Âu Châu đến trợ giúp Nguyễn Ánh thì khá hiếm, và về tòa thành cũng chịu chung một sự im lặng như thế. Hoàng Việt nhất thống dư địa chí, một quyển từ điển địa lý biên soạn bởi ông Lê Quang Định vào năm 1806 theo lệnh của vua Gia Long, không đề cập bất kỳ điều gì về tòa thành này. Gia Định thành thống chí, một quyển sách mô tả về Gia Định được viết trong thời trị vì của vua Minh Mạng bởi ông Trịnh Hoài Đức, xem ra đã loại bỏ một cách cẩn thận bất kỳ sự đề cập nào về người nước ngoài hay các thành quả của họ. Đại Nam liệt truyện, một tập tóm tắt tiểu sử các nhân vật triều Nguyễn cũng được viết dưới thời vua Minh Mạng, có chưa đầy hai trang dành cho Giám Mục Adran và các sĩ quan theo ông sang Cochinchina, nhưng vẫn không có gì nói về tòa thành (10).

Sự đề cập duy nhất về tòa thành xây trong năm 1790 được tìm thấy trong quyển Đại Nam nhất thống chí, một toàn thư về địa lý của Việt Nam; nó đã được sử dụng như một sự tham khảo để mô tả về thiết kế của tòa thành đầu tiên – hình bát giác – có hình hoa sen với tám cổng – và để kết luận rằng mẫu thiết kế là theo kiểu “Trung Hoa”. Quyển sách này được viết dưới thời trị vì của vua Tự Đức (1848-83), tuy nhiên, đã có một thời gian dài qua đi sau khi có sự triệt hủy tòa thành. Các chi tiết về thiết kế của tòa thành có vẻ mang tính thơ văn hay mỹ từ nhiều hơn là dựa vào thực tế (11). May mắn thay, chúng ta có thể tham khảo các tường thuật đương thời. Trước tiên, có hai bản đồ đương đại về Sàigòn, lần lượt được vẽ trong các năm 1799 và 1815, với một cảnh quan rất rõ về tòa thành. Trên cả hai bản đồ, tòa thành rõ ràng xuất hiện như được xây cất trên một họa đồ hình vuông, với bốn tháp canh chính ở các góc thành, và sáu tháp canh thấp hơn phân nửa và các pháo đài nhô ra ngoài tường thành cùng các mô đất, theo kiểu thiết kế của Vauban. Không thể nào nhìn thấy bất kỳ thiết kế hình bát giác nào nơi hình vẽ này (12).

Hơn nữa, các du khách ngoại quốc đầu tiên thăm viếng tòa thành hồi đầu thập niên 1820 không có gì hồ nghi về thiết kế của nó. John Crawfurd đã viết rằng “Thành Sàigòn, hay đúng hơn Pingeh [Bến Nghe’?, chú của người dịch] có hình dạng một hình bình hành … Tôi phỏng đoán, theo bên ngoài, rằng chiều dài nhất của tứ giác có thể vào khoảng ba phần tư dặm”. George Finlayson đã mô tả kiến trúc có “hình tứ giác, và mỗi chiều kéo dài khoảng nửa dặm” (13). Một du khách thứ ba, John White, chỉ nhìn thấy bốn trong số tám cổng, nhưng Crawfurd thì nói rõ hơn về điểm này: “Ngoại trừ bốn lối ra vào chính … các cổng bao gồm bốn cổng lớn và nhiều cổng nhỏ” (14). Bốn cổng nhỏ được quan sát bởi Crawfurd phù hợp với các nguyên tắc của Vauban: đôi khi mở trực tiếp vào các hào giao thông, nhằm giúp cho đội quân xông ra ngoài một cách mau lẹ và tấn công các lực lương bao vây. Cách giải thích này cho tám cổng nghe ra có vẻ hợp lý hơn, đặc biệt khi ta cứu xét thấy họa đồ không có hình bát giác.

Về vấn đề không rõ tòa thành có theo thiết kế kiểu “Trung Hoa” hay không, chúng ta sẽ lại tham khảo hai bản đồ, rõ ràng cho thấy một mô thức “Vauban” hoàn hảo, và về lời chứng thực của ba vị du khách. Theo Crawfurd, “họa đồ nguyên thủy có mang tính chất Âu Châu, nhưng bị bỏ ngang chưa hoàn tất. Nó có một bờ dốc thường lệ quanh pháo đài, bãi đất trống quanh thành, một hào khô ráo có chiều ngang khá rộng, và các tường lũy và pháo đài thông thường … Bên trong thành được sắp xếp ngay ngắn và sạch sẽ, và phơi bày một dáng vẻ của trật tự và cách sắp xếp kiểu Âu Châu.” Finlayson mô tả nó như “một thành mới được xây cất trong các năm gần đó, theo những nguyên tắc của công sự phòng thủ Âu Châu. Nó có xây đắp một bờ dốc thông thường quanh pháo đài [để nâng kẻ địch vào đúng tầm bắn của quân phòng thủ sau pháo đài, chú của người dịch], hào ướt nước, và một tường lũy cao, để khống chế vùng đất bao quanh” (15). Để có đủ các yếu tố này trong thiết kế Âu Châu của tòa thành đầu tiên tại Sàigòn được xây cất bởi Nguyễn Ánh, chúng ta có thể tham khảo cuộc khảo cứu của Louis Malleret về nền móng tòa thành, vốn được khám phá ra hồi thập niên 1920 (16).

Liệu chúng ta có thể nói tòa thành xây theo “kiểu Trung Hoa” chỉ vì nó có thiết kế theo hình tứ giác hay chăng? Cần phải nhấn mạnh rằng các kỹ sư người Pháp, Lebrun và Olivier, đã không lựa chọn địa điểm, bởi họ đã sử dụng tường thành của tòa thành cũ. Cho dù thế, địa điểm này vẫn hoàn hảo để xây dựng một tòa thành, bất kể theo kiểu gì: một nền đất cao gần sông, với ba mặt được bao bọc bởi dòng nước tự nhiên (Sông Sàigòn, Kinh Tàu [?] (Arroyo Chinois) và Kinh Arroyo de l’Avalanche [?]). (Cần phải vạch ra rằng địa điểm xây thành thích hợp một cách tuyệt hảo với các điều kiện về phong thủy, chạy theo hướng tây bắc/đông nam – được chỉ một cách rõ ràng bởi địa bàn đặt trên bản đồ vẽ năm 1815 – và ba dòng nước mang lại năng lực sinh động, cùng với một sự phòng thủ tự nhiên mạnh mẽ). Cơ cấu hình tứ giác có vẻ như thích hợp nhất với các điều kiện thiên nhiên của địa điểm, bất kể có theo kiểu truyền thống Trung Hoa hay không. Một thí dụ tuyệt hảo – hãy còn tồn tại – là tòa thành Vauban tương tự như thành Sàigòn là tòa thành được xây dựng trên đảo Ré, gần vùng La Rochelle trên bờ biển nước Pháp.

Thực ra bằng chứng rõ rệt duy nhất của thiết kế “Trung Hoa” là phần trang trí các cổng, mà Finlayson đã mô tả là “đẹp đẽ và được trang hoàng theo kiểu Trung Hoa”. Crawfurd ghi nhận rằng “các cổng ra vào lớn được xây bằng đá và vôi, và được xây cất rất công phu, mặc dù một tháp canh kiểu Trung Hoa với hai tầng mái che làm cho chúng có một vẻ kỳ cục và phi quân sự”. White cũng ghi nhận rằng các cổng được gia cố bởi cấu trúc bằng sắt như ở Âu Châu (17).

Thành Sàigòn bị mời gọi để chứng tỏ sức mạnh của nó một lần duy nhất, và không phải là để chống lại quân Tây Sơn. Trong năm 1832, một cuộc nổi loạn dưới sự lãnh đạo của Lê Văn Khôi bùng nổ tại miền Nam chống lại vua Minh Mạng, và những kẻ nổi dậy sau cùng đã bị bao vây trong thành bởi quân đội hoàng gia. Cuộc bao vây kéo dài trong hai năm (1884-5). Và nhiều cuộc tấn công đã bị đẩy lui một cách hữu hiệu trước khi tòa thành bị thất thủ. Cũng cần phải ghi nhận rằng quân đội triều đình đã áp dụng các chiến thuật do Vauban đề nghị để hướng dẫn một cuộc bao vây như thế, và đã đào các hào để tiến tới tường thành (18).

Bây giờ chúng ta hãy trở lại với cuộc tranh chấp với Tây Sơn. Thành Sàigòn mang tầm quan trọng sinh tử cho Nguyễn Ánh: một khi nó được hoàn tất, ông có được một đồn lũy thực sự tại miền Nam, và từ thời điểm đó trở về sau, Tây Sơn không bao giờ còn mưu toan đánh chiếm Sàigòn nữa. Việc xây dựng tòa thành là một bước ngoặt, cho phép ông sau hết suy tính về việc tái chinh phục chứ không chỉ cho việc đề kháng; như chúng ta sẽ thấy, sự chế ngự được đặt nền trên đá, nhưng cũng trên sức gió, có nghĩa là hải quân. Ít năm sau đó, việc kiểm soát các đồn trại đã giúp Nguyễn Ánh trong công cuộc chinh phục Việt Nam. Hàng năm chiến hạm của ông thường rời Gia Định và giương buồm bắc tiến trong tháng Sáu-tháng Bẩy – khi gió nồm thổi từ hướng tây nam lên trên – để phối hợp với lục quân của ông xâm nhập vào đất Tây Sơn và triển khai các chiến dịch hỗn hợp. Khi gió mùa đảo ngược, hạm đội phải quay hướng xuôi nam, nhờ sức gió thổi từ hướng đông bắc xuống.

Trong năm 1794, sau một chiến dịch thành công tại khu vực Nha Trang, thay vì rút về miền nam trước khi gió mùa đổi chiều, Nguyễn Ánh đã tạo lập một tòa thành tại Duyên Khánh [sách Việt Nam gọi là Diên Khánh (?), chú của người dịch], gần thành phố. Được xây dựng bởi de Puymanel năm 1793, tòa thành được đóng quân dưới sự chỉ huy của người con trai cả và thừa kế Nguyễn Ánh, Hoàng Tử Cảnh, với sự trợ giúp của Giám Mục và ông de Puymanel. Quân Tây Sơn bao vây thành trong tháng Năm 1794, nhưng không lấy được thành (19). Không lâu sau khi cuộc bao vây chấm dứt, các lực lượng chúa Nguyễn từ Sàigòn quay ra Nha Trang và tái lập các chiến dịch quân sự tại khu vực sau khi quân đồn trú được giải vây. Lần đầu tiên kể từ khi khởi sự cuộc chiến, các lực lượng của Nguyễn Ánh đã tìm cách ở lại trong mùa thời tiết bất lợi tại một khu vực từ lâu nằm dưới sự kiểm soát của Tây Sơn. Vì thế các thành Sàigòn và Duyên Khánh đã đóng một vai trò rất quan trọng trong sự thành công của ông, không phải về mặt quân sự — mặc dù sự vây hãm thành Duyên Khánh là một cuộc giao chiến thực sự — cho dù bằng khía cạnh tâm lý. Sàigòn tác động như một sự phòng ngự mạnh mẽ, và Duyên Khánh như một cái gai đâm vào da thịt của Tây Sơn.

Vào lúc mà cuộc chiến tranh đã qua và Việt Nam được thống nhất dưới triều Hoàng Đế Gia Long năm 1802, chỉ có hai tòa thành được xây cất, dưới sự điều khiển của các sĩ quan người Pháp. Tuy nhiên, rõ ràng là vua Gia Long và vua Minh Mạng đã bị thuyết phục bởi hiệu quả của chúng, vì trong thời bình chúng ta sẽ chứng kiến việc xây cất đến 32 tòa thành mới được xây theo thiết kế Vauban trong giai đoạn từ 1802 đến 1844: mười một thành dưới thời Gia Long, hai mươi thành dưới thời Minh Mạng, và một thành dưới thời vua Thiệu Trị. Các tòa thành mới này đã tạo thành một mạng lưới đáng nể sợ trên khắp vương quốc, trải dài từ bắc xuống nam, từ Cao Bằng tới Hà Tiên. Bảng 1 là một danh sách các thành này, với nhật kỳ khởi đầu xây cất (nếu có được nhật kỳ) và hình dạng cấu trúc của chúng (20).

BẢNG 1:
Các Thành Được Xây Dưới Triều Nguyễn
_________________________________________________________________
Địa điểm của thành                                            Mẫu thiết kế

Sàigòn (1790)                                                         Tứ giác
Duyên Khánh (1793)                                              Không rõ
Vinh (1803?), Thanh Hóa (1804)                           Lục giác
Huế (1805)                                                              Tứ giác
Bắc Ninh (1805 bằng đất, 1825 đá ong, 1845 gạch) Lục giác
Quảng Ngãi (1807)                                                 Ngũ giác
Hải Dương (1807)                                                   Ngũ giác
Hà Tĩnh (đất, 1810?), Thái Nguyên (1813)             Tứ giác
Vĩnh Long (1813)                                                     Lục giác
Khánh Hòa (1814)                                                    Không rõ
Bình Định (1817)                                                      Không rõ
Hưng Hóa (1821)                                                     Tứ giác
Sơn Tây (1822)                                                        Tứ giác
Quảng Bình và Cao Bằng (1824)                             Không rõ
Định Tường (1824)                                                   Không rõ
Quảng yên (1827)                                                     Không rõ
Nghệ An (1831)                                                        Không rõ
Hưng Yên (1832)                                                     Tứ giác
Nam Định (1833)                                                     Tứ giác
Hà Tĩnh (1833)                                                        Tứ giác
Quảng Nam (1833)                                                  Không rõ
An Giang (Châu Đốc), Hà Tiên, Lạng Sơn (1834)   Không rõ
Hà Nội (1835)                                                          Tứ giác
Gia Định (Sàigòn, xây lại) (1836)                            Tứ giác
Phú Yên, Bình Thuận, Quảng Trị (1837)                 Không rõ
Biên Hòa (1838)                                                      Không rõ
Tuyên Quang (1844)                                               Không rõ

Sự quan sát trước tiên được ghi nhận về các thành lũy được xây theo kiểu Vauban trong thế kỷ thứ mười chín này là hình thể của chúng, hoặc là hình lục giác hay ngũ giác (với một vài ngoại lệ có hình tứ giác). Thiết kế Vauban thường có nghĩa là chúng sẽ được bố trí với càng nhiều tháp canh càng tốt nhằm đối chọi với kẻ thù bằng sức mạnh phòng thủ tối đa, trái với thiết kế Trung Hoa cổ truyền với hình vuông hay chữ nhật. Các thiết kế đa giác được sử dụng dưới thời Nguyễn Ánh/Gia Long trong thời khoảng từ 1790 đến 1820; các thí dụ rõ nhất là thành ở Bắc Ninh, Vinh và Sàigòn. Đến mức độ mà chúng ta có thể xác định được, trong thời trị vì của vua Minh Mạng hình thể các thành mới được xây cất đã thay đổi thành hình vuông hay hình chữ nhật, chỉ có bốn tháp canh ở bốn góc. Thành Sàigòn cung cấp một thí dụ tuyệt hảo về sự thay đổi này. Được xây cất trong năm 1790 theo mô thức Vauban trên một thiết kế hình tứ giác với mười tháp canh (bốn tháp bên trong và sáu tháp ở vòng ngoài), nó đã bị gỡ bỏ năm 1835 theo mệnh lệnh của vua Minh Mạng tiếp theo sau cuộc nổi loạn của Lê Văn Khôi. Ngay sau đó, vua Minh Mạng đã khởi sự cho xây một thành mới, lần này với một thiết kế đơn giản hơn nhiều, theo hình tứ giác và chỉ có bốn tháp canh.

Liệu ta có thể kết luận, khi đó, rằng kiểu Âu Châu của Vauban đã bị vứt bỏ để theo các mô thức Trung Hoa cổ truyền hay chăng. Chắc hẳn do không có sự trợ giúp của các cố vấn Âu Châu, các kỹ sư Việt Nam không thể xây dựng các cấu trúc theo thiết kế Âu Châu được nữa và điều này giải thích cho việc quay về mô thức hình vuông hay hình chữ nhật Trung Hoa cổ truyền sau thời trị vì của vua Gia Long. Tuy nhiên, trong thực tế, các thành mới xây sau năm 1822 thực sự được thiết kế với những sự sửa đổi mới nhất trong việc xây cất công sự phòng thủ được phát triển tại Âu Châu vào lúc đó. Thí dụ, thành Sàigòn được xây lại năm 1836 có hình chữ nhật, với bốn tháp canh lớn ở bốn góc. Các tháp canh vòng ngoài và các pháo đài chìa ra ngoài như cái sừng (horn works), nét đặc thù gắn liền với mẫu thiết kế Vauban được họa ra khi pháo binh còn có tầm tác xạ ngắn, nay không còn được áp dụng nữa. Sự bố trí của nó rất giống với các đồn lũy được xây tại Pháp trong thời đệ nhất Đế Chính (1804-14). Ta co thể đặc biệt nghĩ đến Đồn Liédot trên bờ biển Đại Tây Dương và phần lớn các đồn lũy được xây dựng sau đó, kể cả các đồn lũy chung quanh Paris được dựng lên sau năm 1840 (22). Trong các thập niên 1830 và 1840, cùng các loại đồn và thành đã được xây cất ở cả Việt Nam lẫn Âu Châu. Thay vì đơn giản hóa các họa đồ kiểu Vauban bởi có giả định là khi đó họ không có khả năng xây cất công trình phức tạp như thế, các kỹ sư Việt Nam, ngược lại, đã thực hành theo những kỹ thuật mới nhất của Âu Châu.

Một thí dụ khác về sự thích nghi này đối với các phát minh mới nhất của Âu Châu được cung cấp bởi Finlayson, người đã đến thăm Huế vào năm 1822 và lấy làm kinh ngạc về tòa thành của nó, dù vẫn đang được kiến thiết. Như ông đã viết:

Phần này của bức tường thành mới được hoàn tất trong năm nay, có một tình trạng rất hoàn chỉnh. Tuy thế, nhà vua hiện nay [Minh Mạng] không hoàn toàn hài lòng, như vị vua tiền nhiệm, với các nguyên tắc của thiết kế kiểu Vauban. Theo đó ông cho xây các ổ đặt súng đại bác theo họa đồ do chính ông phát minh ra. Thứ tự của chúng bị đảo ngược, có nghĩa là chúng có kích thước thu hẹp theo chiều hướng chiếu xuống dưới hào [tức chiều dưới đáy, chú của người dịch], và kích thước rộng hơn bên trên hướng lên phía bờ thành!

Finlayson nói thêm rằng các ổ đặt súng này tạo thành “phần duy nhất có thể chỉ trích được về công trình”. Tuy nhiên, một chú thích từ nhà biên tập đã đính chính tác giả, xác nhận rằng kiểu xây dựng các lỗ đặt súng này đã được khuyến cáo từ lâu và trong thực tế đã được áp dụng tại Âu Châu trong vài thập kỷ (22).

Cả hai trường hợp – thành mới ở Sàigòn và việc sửa đổi các thành ở Huế — chứng tỏ rằng các kỹ sư của vua Minh Mạng đã am hiểu tường tận những sự phát triển và cải tiến mới nhất trong nghệ thuật xây dựng công sự phòng thủ tại Âu Châu và đã tức thời áp dụng chúng vào các công trình của họ. Chúng ta có thể giả thiết rằng thông tin này đã được cung cấp bởi Jean-Baptiste Chaigneau, một trong hai sĩ quan hải quân đã ở lại Huế sau khi chiến tranh kết thúc, vì ông đã về Pháp vào năm 1819 và sau đó quay trở lại Việt Nam hai năm sau đó. Ông được biết có mang về nhiều sách vở được vua Gia Long đặt mua, bao gồm các nghiên cứu khoa học và kỹ thuật mới nhất (23). Vai trò của Chaigneau như là người cung cấp những sách vở Âu Châu mới nhất về các bộ môn này được suy luận là vì có sự kiện rằng các tòa thành được dựng bởi vua Gia Long (trước khi có sự khởi hành của Chaigneau năm 1819) đã được xây theo họa đồ kiểu Vauban, trong khi sau khi ông trở lại Việt Nam vào đầu thời trị vì của vua Minh mạng, tất cả những gì mà chúng ta có được là một họa đồ hay một sự mô tả theo thiết kế hình tứ giác (xem Bảng 1).

Như đề cập ở trên, thành Sàigòn được xây cất dưới sự chỉ đạo của Puymanel và Lebrun, và thành Duyên Khánh bởi Puymanel; hai sĩ quan này đã rời xứ sở rất lâu trước khi chiến tranh chấm dứt. Khi vua Gia Long bắt đầu xây các thành khác sau năm 1802, chỉ có bốn người Pháp hãy còn sống ở Việt Nam — một bác sĩ y khoa và ba sĩ quan hải quân – và không có bằng cớ cho thấy họ có thể đã dính líu đến việc xây dựng các thành lũy. Mà ngược lại, mọi tài liệu cung ứng xác nhận rằng các kỹ sư Việt Nam độc lực vẽ họa đồ và giám sát những việc xây cất này (24). Họ đã được Lebrun và Puymanel huấn luyện trong nghệ thuật xây dựng công sự phòng thủ kiểu Vauban, và họ cũng có một vài sách vở và bản vẽ được phiên dịch bởi Giám Mục Adran. Thí dụ, có một bản đồ đề năm 1773 nhan đề “Một bản đồ quân sự [bao gồm] mọi phần chính [để phòng thủ hay tấn công] ở một địa điểm được xây dựng theo sự ghi nhớ của Thống Chế vùng Vauban của J. E. Duhamel, kỹ sư hoàng gia”. Tác phẩm này, hãy còn được cung cấp tại Việt nam hồi năm 1921, bao gồm các nội dung phiên dịch sang tiếng Việt Nam các tên gọi và sự mô tả khác nhau cho nhiều loại bộ phận của công sự phòng thủ được Vauban nghiền ngẫm; chắc chắn là nó đã được dùng để huấn luyện các kỹ sư Việt Nam (25). Một toán đặc nhiệm cũng đã được thành lập để phụ trách việc xây dựng và bảo trì các thành lũy này; việc tạo lập văn phòng Giám Thành (Citadel supervision) thuộc Bộ Binh nhấn mạnh tầm quan trọng mà vua Gia Long đã đặt lên vấn đề này (26).

Các tòa thành này là những bản sao toàn hảo của các thiết kế kiểu Vauban, nhưng dù thế chúng cũng thích nghi với những nét đặc thù của Việt Nam. Trước tiên, và quan trọng nhất trong nhãn quan Việt Nam, là tất cả những cấu trúc này phù hợp với các yều cầu của thuật địa lý phong thủy cổ truyền: chúng được xây tại những địa điểm thuận lợi nơi mà các đường nét khác thường của thiên nhiên trong phong thủy chẳng hạn như các sông ngòi và núi đồi hàm xúc sự hiện diện của các lực tích cực và ngăn cản các lực tiêu cực khỏi phạm đến chúng. Theo đó, Linh Mục Léopold Cadière, người có sự hiểu biết thâm sâu về nhân chủng học trong văn hóa miền Trung Việt Nam, đã nghĩ rằng kiến trúc to lớn đằng trước thành Huế bao gồm một vọng gác và cột cờ không có tầm quan trọng thực sự về quân sự, mà thực ra là một bức “bình phong” thứ nhì về phong thủy – bình phong thứ nhất là một quả đồi phía nam Huế — ngăn cản lối tiến vào thành và hoàng cung để tăng cường sự bảo vệ thần linh. Tất cả các thành lũy đều được xây theo trục bắc-tây bắc/nam-tây nam, theo đó bảo đảm được sức mạnh và sự thịnh vượng (27).

Điều đã được ghi nhận là tất cả thành được xây dưới thời Gia Long đều có hình đa giác, thường là lục giác hay ngũ giác. Có ba ngoại lệ quan trọng: Sàigòn, Huế và Hà Nội. Tại những nơi này, mẫu thiết kế là hình vuông hay hình chữ nhật, và vì thế, ít hữu hiệu hơn — về mặt quân sự — mô thức đặt ra bởi Vauban và được áp dụng vào lúc bấy giờ (ngoại trừ Sàigòn, bởi ba bên được bảo vệ bởi các giòng nước thiên nhiên). Chúng ta chỉ có thể ước đoán rằng vua Gia Long tôn trọng mẫu thiết kế Việt-Hoa cổ truyền cho hai thành phố kinh đô của Việt nam, cũng như cho kinh đô hiện đại của ông tại Sàigòn. Cần phải lưu ý rằng các cổng của tất cả các thành lũy đều có cơi lầu kiểu Trung Hoa bên trên, là nét không thường có nơi các đồn lũy Vauban tại Pháp. Các vọng tháp trên cao ngự trị trên tòa thành, cũng là các đường nét Trung Hoa và không phải là phần trong mẫu thiết kế Vauban.

Sự du nhập các giảng giải của Vauban vào Việt Nam hồi cuối thế kỷ thứ mười tám đã kích thích sự thay đổi đáng kể — trong thực tế, một cuộc cách mạng – trong nghệ thuật xây dựng thành lũy của Việt Nam. Trong khi các kỹ sư Việt nam được giáo dục bởi các sĩ quan Pháp, sau đó họ có thể tự mình đảm nhận việc xây cất các tòa thành mà không cần đến sự trợ giúp của ngoại quốc. Vào thời điểm đó, các thành lũy này được thừa nhận là độc đáo tại Á Châu, kể cả đối với các thuộc địa của Âu Châu. Các kỹ sư Việt Nam đã thích ứng các kỹ thuật nhập nội với các truyền thống địa phương và vẫn cập nhật hóa các cải cách về kỹ thuật. Từ cuối thế kỷ thứ mười tám cho đến giữa thế kỷ thứ mười chín, họ đã đồng hóa và thích ứng theo những đường lối đặc sắc những kỹ thuật của Âu Châu trong lĩnh vực này. Nếu so sánh, tùy viên người Pháp trong đoàn viễn chinh Anh-Pháp đánh Trung Hoa hồi năm 1860, là người đã nghiên cứu các thành trì của cả thành phố có tường thành bao quanh và các đồn lũy phòng thủ thành phố Thiên Tân, nhận định rằng Trung Hoa hãy còn ở ngưỡng cửa khi xét về mặt xây dựng công sự phòng thủ, mới chỉ ở mức Âu Châu thời Trung Cổ về mặt phòng thủ và tấn công các công sự được kiên cố hóa (28).

Theo sau cuộc chiến tranh với Tây Sơn, các thành trì kiểu Âu Châu được xây cất trong thời bình đã trở thành các biểu tượng, và nơi cư trú, của quyền lực vương triều, khi mà các đại biểu cấp tỉnh của Hoàng Đế sống trong các thành trì đó. Chắc chắn, hệ thống các thành trì trên toàn quốc đã trợ giúp nhà Nguyễn trong việc củng cố chế độ mới của mình, bởi nó là một sự trợ lực đáng sợ để đẩy lui nhiều cuộc nổi dậy ở địa phương đã bùng nổ trong những năm đầu tiên của triều đại. Rõ ràng nhà Nguyễn đã hiểu rất rõ rằng các thành trì này hữu dụng ra sao cho việc xây dựng một quốc gia tập quyền và hùng mạnh, một bài học mà các đối tác Âu Châu của họ đã thấu hiểu từ lâu.

(Hết kỳ 1)

 

NguồnJournal of Southeast Asian Studies, 34 (3), các trang 519-534 October 2003, @2003 The National University of Singapore

CHÚ THÍCH:

Frédéric Mantienne là Phụ Khảo tại Phòng Khảo Cứu Bán Đảo Đông Dương (Laboratoire Péninsule Indochinoise), thuộc trường École Pratique des Hautes Études và trường École Francaise d’Extrême-Orient tại Paris. Địa chỉ email của ông là [email protected]

 

  1. Văn Khố Các Hôi Truyền Giáo Hải Ngoai tại Paris (Archives des Missions Étrangères de Paris) (từ đây về sau gọI tắt là AMEP), quyển 568, folio 342, thư của Đức Ông Forcade gửi chủng viện Foreign Missions, ngày 2 tháng Sáu, 1847.
  2. Pierre-Yves Manguin, Les Portugais sur les côtes du Vietnam et du Campa(Paris: EFEO, 1972), các trang 205-7; Léopold Cadière, “Le quartier des Arènes, 1, Jean de la Croix et les premiers Jésuites”, Bulletin des Amis du Vieux Hue [từ giờ trở đi, gọi tắt là BAVH), 11, 4 (1924); Li Tana, Nguyen Cochinchina: Southern Vietnam in the seventeenth and eighteenth centuries (Ithaca: Cornell University Southeast Asia Program, 1998), các trang 43-5; Frédéric Mantienne, “Le recours des États de la Péninsule Indochinoise à l’aide européenne dans leurs relations (XVI ème – XVIII ème siècles), trong Guerre et paix en Asie du Sud-Est, biên tập bởi Nguyễn Thế Anh và Alain Forest (Paris: Harmattan, 1998), các trang 55-84.
  3. Frédéric Mantienne, Les relations politiques et commerciales entre la France et la Péninsule Indochinoise(Paris: Les Indes Savantes, 2002), vol. II, các trang 147-50.
  4. Xem, thí dụ, Alexander Barton Woodside, Vietnam and the Chinese model, A comparative study of Nguyễn and Ch’ing civil government in the first half of the nineteenth century(Cambridge, MA.: Harvard University Press, 1971), trang 16.
  5. Mantienne, Relations politiques et commerciales, các trang 184-8.
  6. Louis, Bezacier, “L’Art et les constructions militaires annamites”, BAVH, 28, 4 (1941): 340-3 và Bezacier, “Conception du plan des anciennes citadelles-capitales du Nord Vietnam”, Journal Asiatique, 240, 2 (1952): 185-95.  Có nhiều hình ảnh đáng để ý trong tập Le vieux An-Tinhcủa Hippolyle Le Breton, (Hanoi: EFEO reprint, 2001).
  7. Léopold Cadière, “Le mur de Đồng-hới, Étude sur l’établissement des Nguyễn en Cochinchine”, Bulletin de l’École Francaise d’Extrême-Orient(từ đây về sau gọi tắt là BEFEO), 6 (*1906): 138-40.
  8. Archives du Ministère des Affaires Étrangères, Paris (từ đây về sau gọi tắt là AMAE), série Asie, vol. 19, folios 376-7, thư từ De Guignes gửi Bộ NgoạI Giao, 29 tháng 12, 1791.
  9. Xem, thí dụ, Woodside, Vietnam and the Chinese model, trang 17 và trang 298, chú thích 20; và Lê Thành Khôi, Histoire du Vietnam des origines à 1858(Paris: Sudeastasie, 1992), trang 337.  Một sự nghiên cứu chi tiết về thành này là bài viết của Louis Malleret, nhan đề “Éléments d’une monographie des anciennes fortifications et citadelles de Sàigòn”, Bulletin de la Société des Études Indochinoises, 4 (1935): 5-108.
  10. Một bản dịch đầy đủ đoạn viết về Giám Mục Pigneaux de Béhaine được tìm thấy trong bài viết của Léon Vandermeersch, nhan đề “Autour des honneurs funèbres décernés à l’Évêque d’Adran au Vietnam”, Vietnamologica, Tập San Phát huy Việt Nam hoc. / Revue d’études vietnamologiques / Journal of Vietnamological Studies, 3 (1998): 121-42.
  11. Bản dịch của sự mô tả này được tìm thấy trong bài viết của Malleret, “Éléments d’une monographie”, các trang 56-7.
  12. “Họa Đồ thành phố Sàigòn.  Thành được xây trong năm 1790.  Vẽ bởi Đại Tá Vict’. Olivier.  Vẽ lại theo họa đồ tổng quát được sắc lập theo lệnh của Quốc Vương năm 1795.  Bởi ông Brun kỹ sư Hoàng Triều.  Bởi Jn Me Dayot 1799”, trong một tài liệu nhan đề “Mémoire sur la côte et les ports de la Cochinchine par Je. ME D’Ayot, quan lại Triều đình Cochinchine”; “Họa đồ Gia Định và các vùng phụ cận” (Plan de Gia Định et des environs) được vẽ bởi Trần Văn Học, ngày mồng 4 tháng 12 âm lịch năm Gia Long thứ mười bốn (1815), được khắc và in trong quyển sách của Jean-Marie Dayot, nhan đề “Pilote Cochinchinois”: Atlas de la Cochinchine(Paris: Dépôt Général de la Marine, 1818).  Hai bản đồ được in lại trong bài viết của Malleret, “Élémentrs d’une monographie”, các ảnh chụp XI và XII.
  13. John Crawfurd, Journal of an embassy from the Governor-general of India to the courts of Siam and Cochin China(London: Henry Colburn, 1828), trang 223; George Finlayson, The mission to Siam and Hue the capital of Cochion China in the years 1821-2 (Singapore and Bangkok: Oxford University Press and the Siam Society sách in lại, 1988), trang 312.
  14. John White, A voyage to Cochin China(London: Longman, Hurst, Rees, Orme, Brown and Green, 1824), các trang 220-6; Crawfurd, Journal of an embassy, trang 224.
  15. Cùng nơi dẫn trên, các trang 223-4; Finlayson, Mission to Siam, trang 312.
  16. Malleret, “Éléments d’une monographie”, các trang 48-52 và các ảnh chụp XVI-XVII.
  17. Finlayson, Mission to Siam, trang 312; Crawfurd, Journal of an embassy, trang 224; White, Voyage to Cochinchina, các trang 220-6.
  18. Jules Silvestre, “L’insurrection de Gia Định, La révolte de Khôi (1832-1835)”, Revue Indochinoise(từ giờ trở đi gọi tắt là RI), 18, 7-8 (1915): 1-37.
  19. AMEP, vol. 746, folio 472, thư của Le labousse gửi Boiret, ngày 13 tháng Năm năm 1795; được trích dẫn trong bài viết của Adrien Launay, Histoire de la Mission de Cochinchine (1658-1823).  Documents historiques(Paris: Les Indes Savantes, 2000 sách in lại), vol. III, trang 288.
  20. Danh sách này được dựa chính yếu theo bài viết của tác giả Léopold Cadière, nhan đề “Notes sur le corps du génie annamite”, BAVH, 8, 4 (1921): 287; Cadière đã biên soạn danh sách các thành theo các nguồn tư liệu Việt Nam.  Thông tin từ các mẫu thiết kế đến từ nhiều nguồn tư liệu khác nhau được sử dụng trong bài viết này và cũng từ ký sự và sổ tay của các sĩ quan người Pháp đã phục vụ tại Việt Nam trong hậu bán thế kỷ thứ mười chín; xem, thí dụ, bài viết của Louis Kreitmann, “Le service du génie au Tonkin(Paris: Berger-Levault & Cie, 1889).  Ba tòa thành đã nhận được sự chú ý đặc biệt của các học giả. Đối với Saigòn, xem Malleret, “Éléments d’une monographie”; đối với thành Huế, xem bài của Trung Tá Ardant du Picq, “Les fortifications de la citadelle de Hue”, BAVH, 11, 3 (1924): 221-45; và về thành Bắc Ninh, xem bài của Tướng Ardant du Picq, “Histoire d’une citadelle annamite: Bac Ninh”, BAVH, 22, 3-4 (1935): 237-421.  Về thành Vinh và Hà Tĩnh, xem Le Breton, Le vieux An Tinh, các trang 248-9, 256, và các ảnh chụp XCV và CIII.
  21. Pierre Rocolle, 2000 ans de fortification francaise(Paris: Ch. Lavauzelle, 1973) và Rémy Desquesnes cùng các tác giả khác, Les Fortifications du littoral.  La Charente Maritime (Chauray: Éditions Patrimoines & Médias, 1993), các trang 24, 189-94.
  22. Finlayson, Mission to Siam, trang 362.  Bản thiết kế nguyên thủy cho Thành Fort Boyard, đề năm 1801, cho thấy các ổ đặt súng trên bờ thành tương tự, nhưng chúng không được áp dụng khi mà thành sau rốt được dựng lên trong thập niên 1840; Duquesnes và các tác giả khác, Fortifications du littoral, các trang 224, 230
  23. A. Salles, “J.B. Chaigneau et sa famille”, BAVH, 10, 1 (1923): 77-8.
  24. John Crawfurd, “Crawfurd’s report on the state of the Annamese Empire”, trong quyển sách biên tập bởi Alistair Lamb, The Mandarin Road to old Hue(London: Archon Books, 1970), trang 268.
  25. Cadière, “Notes sur le corps”, trang 285. Nhan đề nguyên thủy của bản đồ như sau” Carte militaire [comprenant] toutes les principales parties [qui servent à l’attaque et à la défense] d’une place dressée sur les mémoires du Maréchal de Vauban par J.E. Duhamel, ingénieur du Roi, 1773”.
  26. Võ Liêm, “La capitale du Thuan-Hoa (Hue)”, BAVH, 3, 3 (1916): 279.
  27. Léopold Cadière, “La merveilleuse capitale”, BAVH, 3, 2 (1916): 247-72; Gustave Dumoutier, “L’astrologie, considérée plus spécialement dans ses applications à l’art militaire”, RI, 17, 11-12 (1914): 455-75, đặc biệt, trang 457; và Dumoutier, “L’astrologie chez les Annamites.  Ses applications à l’art militaire”, RI, 18, 7-8 (1915): 101-26.  Cũng xem Ardant du Picq, “Fortifications de la citadelle” và Histoire d’une citadelle”.
  28. Bá tước Escatrac de Lauture, Mémoires sur la Chine(Paris: Le Magasin Pittoresque, 1865), các trang 71-4.

BÌNH LUẬN

BÀI VIẾT LIÊN QUAN