Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương: Từ cội nguồn đến Bản sắc Việt

Khởi nguồn từ tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, người Việt đã tôn vinh vua Hùng là Thủy tổ khai sinh dân tộc, đất nước. Ý thức tín ngưỡng thờ cúng vua Hùng đã thấm sâu vào máu thịt của cộng đồng người Việt, được trao truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Hình tượng vua Hùng đã gắn chặt với hồn thiêng sông núi đất Việt. Vua Hùng gắn với người Việt không chỉ bởi ánh hào quang của lịch sử, mà còn là sự phản chiếu hình ảnh của ông vua mở nước, gắn kết lòng người bằng huyết tộc – đồng bào.

Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương là một loại hình tín ngưỡng thể hiện tâm thức và triết lý “con người có tổ có tông” của người Việt Nam. Đây là tín ngưỡng có từ xa xưa và đã trở thành một trong những thành tố tạo nên bản sắc độc đáo của dân tộc Việt Nam. Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương vẫn trường tồn và luôn chiếm giữ một vị trí thiêng liêng trong đời sống tinh thần dân tộc.

Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương là hình thức phát triển cao của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt Nam và được định danh là thờ cúng Quốc tổ. Trên thế giới, nhiều dân tộc có thờ cúng tổ tiên, nhưng “chưa có quốc gia nào thờ Tổ như ở Việt Nam”(1) – đó là cả một quốc gia, một dân tộc tự coi mình có chung nguồn gốc và tôn vinh vị “Cha chung” là Quốc Tổ Hùng Vương.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và các đồng chí lãnh đạo Trung ương dự lễ dâng hương tưởng niệm các Vua Hùng trước Điện Kính Thiên trên đỉnh núi Nghĩa Lĩnh.

Truyền thuyết tại Đền Hùng đã ghi lại: Sau khi được Vua Hùng thứ 18 nhường ngôi, Thục Phán đã dựng Cột đá thề trên đỉnh núi Nghĩa Lĩnh, thề nguyện sẽ trọn đời bảo vệ giang sơn, gấm vóc mà Vua Hùng trao lại và đời đời hương khói trông nom lăng miếu Tổ tiên. Sang những năm đầu Công nguyên (40 – 43), Hai Bà Trưng phát động cuộc khởi nghĩa chống quân Hán đã đọc lời thề trên cửa sông Hát:

“Một xin rửa sạch nước thù

Hai xin đem lại nghiệp xưa họ Hùng”

Các tài liệu sử sách sớm nhất ghi chép về thời đại Hùng Vương là “Đại Việt sử lược” và “Đại Việt sử ký toàn thư” đã khẳng định và lý giải về nguồn gốc, nguồn cội chung của dân tộc Việt Nam – các Vua Hùng. Thời Hậu Lê, năm Hồng Đức thứ nhất đã cho soạn “Ngọc phả Hùng Vương” đã chép “Từ đời Nhà Đinh, Nhà Lê, Nhà Lý, Nhà Trần rồi đến triều đại ta bây giờ là Hồng Đức Hậu Lê vẫn cùng hương khói trong ngôi đền ở làng Trung Nghĩa (Cổ Tích)”, ở đây, nhân dân toàn quốc đều đến lễ bái để tưởng nhớ công lao của đấng Thánh Tổ xưa”…

Thời Nhà Nguyễn kinh đô đặt tại Huế, năm 1823 Vua Minh Mạng đã cho rước bài vị thờ Hùng Vương vào thờ ở miếu Lịch đại Đế Vương, còn tại Đền Hùng thì cấp sắc để phụng thờ.

Từ khi nước nhà được độc lập, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đặc biệt quan tâm tới việc thờ tự các Vua Hùng – Tổ tiên chung của dân tộc và huy động kinh phí từ nhiều nguồn nhằm tu bổ, tôn tạo Di tích Lịch sử Đền Hùng ngày càng khang trang hơn, xứng tầm là nơi thờ tự Tổ tiên chung của dân tộc.  Ngày 18 tháng 2 năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ban hành Sắc lệnh số 22C NV/CC quy định về những ngày lễ lớn hàng năm, trong đó có ghi Giỗ Tổ Hùng Vương được nghỉ 1 ngày.

Ngày 2 tháng 4 năm 2007, Quốc hội nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đã phê chuẩn sửa đổi, bổ sung điều 73 của Luật Lao động cho người lao động được nghỉ làm việc, hưởng nguyên lương ngày Giỗ Tổ Hùng Vương (mồng 10 tháng 3 Âm lịch).

Không chỉ có núi Nghĩa Lĩnh, xã Hy Cương, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ mà còn còn có rất nhiều đình, đền, miếu… thờ cúng Hùng Vương, vợ con và các tướng lĩnh thời các Vua Hùng ở Phú Thọ và nhiều tỉnh thành trong cả nước. Năm 2005, theo thống kê của Bộ Văn hóa – Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) có 1.417 di tích thờ Vua Hùng và liên quan đến thời kỳ đấu tranh dựng nước, giữ nước của các Vua Hùng trải dài từ Bắc tới Nam. Trong đó, các di tích thờ cúng Hùng Vương tập trung chủ yếu trên địa bàn tỉnh Phú Thọ (326 di tích), tâm điểm là Di tích lịch sử Đền Hùng, tỉnh Hà Tây cũ (364 di tích), thành phố Hà Nội (161 di tích), tỉnh Bắc Ninh (168 di tích), tỉnh Vĩnh Phúc (62 di tích), thành phố Hồ Chí Minh (14 di tích)… Tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên đã ăn sâu vào tâm thức người Việt, dù ở bất cứ đâu, phương trời nào, dù là già hay trẻ, gái hay trai, theo tôn giáo hay không, người Việt luôn nhớ về cội rễ, dòng tộc của mình và luôn tự hào với bạn bè quốc tế về dòng giống con Rồng cháu Tiên. Vì vậy, cộng đồng người Việt Nam sinh sống ở nước ngoài đã về Đền Hùng xin đất, nước, chân nhang thờ cúng Tổ tiên và lập đền thờ các Vua Hùng như tại thành phố San Jose, bang California (Mỹ).

Năm 1943, Mặt trận Việt Minh đã treo cờ Đảng, cờ Tổ quốc trên gác chuông trước cửa chùa Thiên Quang trên núi Hùng để tuyên truyền cách mạng, kêu gọi toàn dân đánh đổ Nhật – Pháp. Năm 1946, quyền Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, cụ Huỳnh Thúc Kháng được Chủ tịch Hồ Chí Minh ủy quyền, thay mặt Chính phủ về dự lễ hội. Khi lễ Tổ, Cụ đã dâng thanh gươm và một tấm bản đồ Việt Nam cẩn cáo với Vua Hùng, với dụng ý kiên quyết chống giặc ngoại xâm giữ trọn tấc đất thiêng liêng của Tổ quốc và,cầu cho quốc thái, dân an, thiên hạ thái bình.
Ngày 19-9-1954, sau khi kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gặp gỡ cán bộ, chiến sỹ Đại đoàn quân Tiên Phong tại Đền Hùng với câu nói bất hủ:

“Các Vua Hùng đã có công dựng nước
Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”.

 

Trải qua nhiều biến cố thăng trầm của lịch sử dân tộc, nhưng tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương vẫn chiếm được vị trí thiêng liêng nhất trong đời sống tinh thần của người Việt, có sức sống lâu bền và ngày càng lan tỏa mạnh mẽ trong mọi tầng lớp nhân dân. Ngày Giỗ Tổ Hùng Vương (ngày 10 tháng 3 Âm lịch hàng năm) là ngày lễ trọng, mang bản sắc văn hoá sâu sắc, độc đáo của dân tộc Việt Nam. Trong những ngày Giỗ Tổ, triệu triệu lượt đồng bào mang trong mình dòng máu Lạc Hồng dù ở nơi đâu vẫn hướng về đất Tổ, cùng hành hương về Đền Hùng thành kính tri ân công đức các Vua Hùng – Tổ tiên chung của dân tộc Việt Nam thể hiện đức tin về Tổ tiên, thắp nén tâm nhang tại lăng Hùng Vương cầu mong cho đất nước luôn thái bình, thịnh trị và muôn dân được ấm no, hạnh phúc.

Như vậy, tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương trong tiến trình lịch sử luôn là yếu tố nội sinh của văn hóa dân tộc, góp phần hun đúc lòng tự hào và tạo nên tinh thần đoàn kết, yêu nước thương nòi của  dân tộc Việt Nam. Người Việt luôn tự hào vì cùng chung một dòng máu Lạc Hồng, cùng một bọc mẹ sinh ra :

“Con người có Tổ, có Tông

Như cây có cội, như sông có nguồn”

Đền Hùng không phải là thánh địa của một tôn giáo, các Vua Hùng không phải là giáo chủ, người Việt thờ Hùng Vương không có học thuyết và cũng không hề có giáo hội truyền bá, nhưng từ hàng ngàn đời nay, người Việt vẫn hành hương về nơi cội nguồn đất Tổ để tri ân các Vua Hùng – những người đã có công dựng nước, giữ nước. Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương – thờ cúng ông Tổ chung của cả nước, có lẽ hiện nay trên thế giới chỉ có duy nhất dân tộc Việt Nam, đó là bản sắc văn hóa tiêu biểu của dân tộc Việt và cũng là Di sản Văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.

Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương là sự kết tụ từ tín ngưỡng tổ tiên, gia tộc đến tín ngưỡng quốc Tổ. Đây là nguồn sức mạnh đã giúp người Việt vượt qua nhiều biến cố lịch sử để giữ vững độc lập dân tộc, sự sáng tạo độc đáo trong ý thức hệ của người Việt Nam trong gắn kết cộng đồng tiến lên phía trước để hội nhập và phát triển, đã thực sự trở thành niềm tin thiêng liêng và trường tồn của dân tộc. Niềm tin ấy sẽ còn mãi với thời gian, với lịch sử, trong tâm thức của mỗi người Việt Nam từ thế hệ này sang thế hệ khác./.

Minh Thúy

(Theo Tạp chí Phương Đông)

 

BÌNH LUẬN

BÀI VIẾT LIÊN QUAN