Vai trò mờ nhạt của Liên hợp quốc trong trật tự thế giới hỗn loạn hiện nay

Liên hợp quốc (LHQ) ra đời ngay sau Thế chiến II với sứ mệnh cao cả: ngăn ngừa một cuộc chiến tranh thế giới nữa và duy trì hòa bình, ổn định trên phạm vi toàn cầu. Hiến chương LHQ ký năm 1945 đề ra các nguyên tắc nền tảng cho trật tự quốc tế mới, từ cấm sử dụng vũ lực đến tôn trọng chủ quyền và giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa bình. Cấu trúc tổ chức LHQ được thiết kế sao cho các cường quốc đồng minh sau chiến tranh – đặc biệt là Hoa Kỳ, Liên Xô (sau này là Nga), Anh, Pháp và Trung Quốc – giữ vai trò trọng yếu trong Hội đồng Bảo an với quy chế ủy viên thường trực có quyền phủ quyết.

Ngay từ đầu, Hoa Kỳ đã giữ vai trò nổi bật trong việc hình thành LHQ và đặt trụ sở tổ chức này tại New York. Với tiềm lực kinh tế – quân sự áp đảo sau 1945, Mỹ trở thành nước đóng góp tài chính nhiều nhất và có ảnh hưởng sâu rộng đến mọi hoạt động của LHQ. Mục tiêu tối thượng của LHQ là “duy trì hòa bình và an ninh quốc tế” (Điều 1 Hiến chương). Quả thực, suốt gần 80 năm qua, thế giới tránh được Thế chiến III – một phần nhờ có LHQ như một diễn đàn đối thoại và cơ chế hợp tác an ninh đa phương. Trong giai đoạn đầu sau Thế chiến II, LHQ đã hỗ trợ tiến trình phi thực dân hóa, tái thiết châu Âu, và giải quyết nhiều xung đột khu vực thông qua lực lượng gìn giữ hòa bình. Nhờ đó, trật tự thế giới trong nửa sau thế kỷ XX – tuy căng thẳng – nhưng nhìn chung tránh được sự sụp đổ toàn diện vào hỗn loạn.

Liên hợp quốc chính thức được thành lập sau Hội nghị San Francisco từ ngày 25/4 đến 26/6/1945 tại Mỹ, với sự tham dự của các đại biểu đến từ 50 quốc gia trên thế giới. Ảnh: UN

Chiến tranh Lạnh (khoảng 1947-1991) chứng kiến thế giới phân cực thành hai phe đối địch: tư bản chủ nghĩa do Mỹ đứng đầu và xã hội chủ nghĩa do Liên Xô dẫn dắt. Trong bối cảnh đó, LHQ khó tránh khỏi bị chia rẽ theo tuyến ý thức hệ. Hội đồng Bảo an LHQ trở thành đấu trường nơi hai siêu cường liên tục đối đầu và dùng quyền phủ quyết để cản trở lẫn nhau. Thống kê cho thấy trong thời kỳ này, Liên Xô đã sử dụng quyền phủ quyết hơn 100 lần, còn Mỹ cũng hàng chục lần, khiến nhiều nghị quyết của Hội đồng Bảo an (HĐBA) rơi vào bế tắc. Chẳng hạn, Moskva từng phủ quyết các đề xuất liên quan đến khủng hoảng Trung Đông hay can thiệp nhân đạo, trong khi Washington cũng chặn các nghị quyết bất lợi cho đồng minh của mình. Kết quả là HĐBA “thường rơi vào tình trạng tê liệt, không thể hành động hiệu quả” mỗi khi xung đột liên quan trực tiếp đến lợi ích hai phe. LHQ ngay từ thời kỳ này chủ yếu giữ vai trò diễn đàn để các bên đấu khẩu ngoại giao hơn là cơ chế thực thi an ninh tập thể đúng nghĩa.

Hội đồng Bảo an, với 5 ủy viên thường trực nắm quyền phủ quyết, vừa là trái tim trong cơ chế an ninh của LHQ, vừa là nguồn gốc nhiều bế tắc khi các nước lớn bất đồng. Trong suốt thời kỳ Chiến tranh Lạnh, nhiều quyết định quan trọng không thể thông qua do xung đột lợi ích giữa các cường quốc. Tiêu biểu như năm 1956, khi khủng hoảng kênh Suez xảy ra, Liên Xô đe dọa phủ quyết mọi nghị quyết bất lợi cho Ai Cập, còn Anh – Pháp cũng làm tương tự để bảo vệ chiến dịch quân sự của họ – khiến HĐBA tê liệt. Tương tự, những vấn đề như xung đột ở Trung Đông, chiến tranh Việt Nam hay Afghanistan cũng chia rẽ sâu sắc HĐBA. Mỗi phe sử dụng LHQ như một công cụ tuyên truyền và hợp thức hóa chính sách phe mình, hơn là thực tâm tìm đồng thuận. Ví dụ, Mỹ tranh thủ LHQ để nhận được ủng hộ trong Chiến tranh Triều Tiên 1950 (khi Liên Xô tẩy chay, HĐBA đã thông qua nghị quyết cho lực lượng đa quốc gia can thiệp). Ngược lại, Liên Xô và Trung Quốc sau đó liên tục phủ quyết, ngăn HĐBA có thêm bất kỳ hành động nào về Triều Tiên.

Mặc dù bị tê liệt trong mảng an ninh tập thể, LHQ thời Chiến tranh Lạnh vẫn có một số đóng góp quan trọng trong các lĩnh vực khác ít nhạy cảm hơn. Tổ chức này trở thành tiếng nói của phong trào Các nước không liên kết và thế giới thứ ba tại Đại hội đồng, thúc đẩy tiến trình phi thực dân hóa, đấu tranh chống chủ nghĩa apartheid ở Nam Phi, và xây dựng các chuẩn mực quốc tế về nhân quyền. Tuy vậy, về tổng thể, LHQ trong Chiến tranh Lạnh vẫn chịu sự chi phối nặng nề của các cường quốc. HĐBA phần lớn chỉ hành động được khi có sự đồng thuận hiếm hoi giữa Washington và Moskva – ví dụ hiệp đồng giám sát ngừng bắn một số xung đột Trung Đông sau 1973. Còn phần lớn thời gian, LHQ bị “đóng băng” trước những điểm nóng liên quan trực tiếp đến cạnh tranh Đông – Tây.

Sự sụp đổ của Liên Xô năm 1991 khép lại Chiến tranh Lạnh và mở ra một trật tự thế giới đơn cực với ưu thế nghiêng về Hoa Kỳ. Trong thập niên 1990, Hoa Kỳ nổi lên như siêu cường duy nhất, giữ vai trò gần như độc tôn trong các quyết sách toàn cầu – và LHQ cũng không nằm ngoài xu thế đó. Mỹ gia tăng ảnh hưởng chi phối LHQ trên cả hai phương diện: tài chính và chính trị. Về tài chính, Hoa Kỳ tiếp tục đóng góp ngân sách lớn nhất cho LHQ (khoảng 1/5 ngân sách thường xuyên và 1/4 ngân sách gìn giữ hòa bình trong nhiều năm) cũng như là nhà tài trợ hàng đầu cho nhiều cơ quan như UNICEF, UNDP, WHO… Điều này dẫn đến tình trạng trong nhiều vấn đề, LHQ chịu sức ép phải thuận theo ý hướng của Washington và phương Tây, nếu không muốn bị cắt giảm ngân sách hoặc mất ủng hộ. Cựu Tổng Thư ký LHQ Boutros Boutros-Ghali từng thẳng thắn nhận xét: “Liên hợp quốc chỉ là một công cụ phục vụ cho chính sách của Mỹ. Họ cần thì dùng cách đa phương qua LHQ, còn không cần thì họ sẽ hành động bên ngoài khuôn khổ LHQ”. Quả thật, sau Chiến tranh Lạnh, Hoa Kỳ tỏ ra linh hoạt trong việc tận dụng LHQ “lúc cần thì dùng, không thì bỏ qua” để thực thi mục tiêu của mình.

Nửa đầu thập niên 1990 chứng kiến một số thành công khi Mỹ phối hợp với LHQ để giải quyết khủng hoảng – điển hình là Chiến tranh Vùng Vịnh 1990-1991. Khi Iraq xâm lược Kuwait, Hoa Kỳ đã vận động HĐBA thông qua nghị quyết cho phép sử dụng vũ lực chống Iraq… Dưới lá cờ LHQ, một liên quân do Mỹ dẫn đầu đã đánh bại Iraq, khôi phục độc lập cho Kuwait. Đây được coi là đỉnh cao của hợp tác hậu Chiến tranh Lạnh, khi Mỹ và Nga (khi đó kế thừa ghế Liên Xô) nhất trí hành động tập thể. Tuy nhiên, thời kỳ “trăng mật” ngắn ngủi qua đi, mặt trái của sự áp đảo đơn phương của Mỹ dần bộc lộ. Trong nhiều xung đột sau đó – Nam Tư, Iraq, Afghanistan, Libya… – vai trò của LHQ mờ nhạt hoặc bị bóp méo dưới ảnh hưởng Mỹ.

Ví dụ rõ nét là cuộc xung đột ở Nam Tư (Yugoslavia) thập niên 1990. Mặc dù LHQ triển khai lực lượng gìn giữ hòa bình tại Bosnia, nhưng bất lực ngăn chặn thảm sát (như Srebrenica 1995). Cuối cùng, Mỹ và NATO đơn phương không kích Serbia trong cuộc chiến Kosovo 1999 mà không có chấp thuận của HĐBA LHQ, do Nga dọa phủ quyết. Boutros-Ghali sau đó chua chát chỉ ra rằng LHQ thậm chí không thể lên án chiến dịch ném bom Kosovo là vi phạm luật quốc tế, vì Mỹ sẽ phủ quyết hoặc gây áp lực ngăn cản. Nói cách khác, Mỹ đã “bẻ cong” luật pháp LHQ: khi muốn đánh, họ sẵn sàng phớt lờ LHQ (như trường hợp Kosovo), còn khi muốn hợp pháp hóa hành động, họ tận dụng LHQ triệt để.

Tương tự, trước cuộc chiến Iraq 2003, chính quyền Mỹ dưới thời Tổng thống George W. Bush cáo buộc Iraq sở hữu vũ khí hủy diệt hàng loạt và tìm cách lôi kéo LHQ ủng hộ can thiệp quân sự. Dù HĐBA không thông qua nghị quyết cho phép tấn công (Pháp, Nga dọa phủ quyết), Mỹ cùng liên quân vẫn mở cuộc xâm lược Iraq đơn phương vào tháng 3/2003. Việc Mỹ tự ý phát động chiến tranh bất chấp LHQ bị nhiều nước chỉ trích là phá hoại trật tự quốc tế đa phương. Tuy nhiên, do Mỹ nắm quyền phủ quyết, HĐBA không thể ra nghị quyết lên án cuộc xâm lược này – đúng như kịch bản Boutros-Ghali dự báo: “Nếu Mỹ – Anh phớt lờ LHQ đánh Iraq, Hội đồng Bảo an cũng chẳng làm gì được vì Mỹ sẽ phủ quyết mọi nỗ lực lên án họ”. Quả thật, vai trò của LHQ trong cuộc chiến Iraq 2003 hết sức mờ nhạt: trước chiến tranh thì bị phớt lờ, sau chiến tranh lại bị Mỹ gạt ra rìa trong giai đoạn chiếm đóng (ngoại trừ một số nhiệm vụ nhân đạo).

Có thể thấy trong giai đoạn đơn cực, Hoa Kỳ vừa là nước hỗ trợ lớn nhất cho LHQ, lại vừa là nước sẵn sàng hành động ngoài khuôn khổ LHQ nhất khi thấy tổ chức này cản trở lợi ích mình. Một số nhà phân tích phê phán LHQ thời kỳ này đã không duy trì được tính trung lập, mà trở thành công cụ để Mỹ và phương Tây hợp thức hóa các can thiệp. Chẳng hạn, Nghị quyết LHQ về Libya năm 2011 được phương Tây diễn giải rộng để thay đổi chế độ, hay các lệnh trừng phạt do Mỹ đề xuất thường dễ dàng được thông qua nhằm vào các nước “cứng đầu” (Iraq, Iran, Triều Tiên…). Ngược lại, khi đồng minh của Mỹ phạm luật (ví dụ Israel sáp nhập lãnh thổ, sử dụng vũ lực quá mức), Mỹ lại dùng quyền phủ quyết bảo vệ, làm LHQ mất đi công bằng trong mắt nhiều nước.

Có thể nói, sau Chiến tranh Lạnh, LHQ vận hành dưới cái bóng quá lớn của Mỹ. Như cựu Tổng Thư ký LHQ Boutros-Ghali nhận định, kỷ nguyên đơn cực là nghịch lý cho LHQ: thay vì hiện thực hóa lý tưởng đa phương, nó chứng kiến Mỹ hành xử “muốn làm gì thì làm”, đi ngược tinh thần đồng thuận của Hiến chương.

Dù Hội đồng Bảo an không thông qua nghị quyết cho phép tấn công, Mỹ cùng liên quân vẫn mở cuộc xâm lược Iraq vào năm 2003. Hình minh họa

Bước sang thập niên 2020, trật tự thế giới ngày càng phân tán với sự trỗi dậy của nhiều quốc gia, đặc biệt là Trung Quốc, Nga và các cường quốc khu vực khác. Trật tự đơn cực do Mỹ dẫn dắt sau Chiến tranh Lạnh đã chuyển dần sang đa cực phức tạp hơn. Trong bối cảnh đó, Mỹ không còn khả năng hoàn toàn chi phối LHQ một cách độc đoán như trước. Tại Hội đồng Bảo an, các đề xuất nghị quyết do Mỹ hoặc phương Tây đưa ra ngày càng vấp phải sự phủ quyết hoặc phản đối từ Nga và Trung Quốc – hai nước thường trực đang quyết liệt bảo vệ lợi ích của mình và thách thức ảnh hưởng của Mỹ. Gần đây, trong cuộc chiến Israel – Hamas ở Gaza (2023–2025), khi Mỹ đề xuất nghị quyết ngừng bắn theo hướng có lợi cho Israel, cả Nga lẫn Trung Quốc đều bỏ phiếu phủ quyết tại HĐBA. Rõ ràng, sự đoàn kết giả định thời đơn cực không còn; thay vào đó là sự trở lại của cạnh tranh nước lớn ngay trong lòng LHQ, khiến tổ chức này lâm vào bế tắc trước nhiều khủng hoảng.

Bản thân Hoa Kỳ cũng gặp khó khi muốn sử dụng LHQ để hợp thức hóa các động thái quốc tế của mình. Nếu như thập niên 1990, Mỹ hầu như muốn gì được nấy ở HĐBA, thì nay bất kỳ sáng kiến nào của Mỹ cũng có nguy cơ bị Nga hoặc Trung Quốc chặn đứng. LHQ nay trở thành nơi Mỹ cũng có thể bị lép vế. Tương tự, trong vấn đề Ukraine, Mỹ và phương Tây thúc đẩy nghị quyết lên án Nga, nhưng Nga dĩ nhiên phủ quyết với tư cách đương sự. Kết quả, HĐBA tê liệt, buộc Đại hội đồng phải nhóm họp khẩn và bỏ phiếu thông qua nghị quyết không ràng buộc lên án Nga (2022). Nhưng các lá phiếu tại Đại hội đồng cũng cho thấy sự chia rẽ: nhiều nước đang phát triển không ủng hộ lập trường phương Tây. Điều này phản ánh cục diện đa cực phức tạp khiến LHQ khó đạt đồng thuận, ngay cả ở Đại hội đồng nơi mỗi nước một phiếu.

Mặt khác, nội bộ phương Tây cũng không còn đồng lòng như trước trong việc dùng LHQ làm công cụ chiến lược. Tiêu biểu là thời Tổng thống Donald Trump (2017-2021), Hoa Kỳ tỏ rõ thái độ hoài nghi và thậm chí coi thường những thể chế đa phương truyền thống. Ông Trump phản đối mạnh mẽ nhiều quy tắc, thỏa ước quốc tế do LHQ bảo trợ (như Hiệp định Paris về khí hậu, Hội đồng Nhân quyền LHQ, UNESCO…), cho rằng chúng “không có lợi cho nước Mỹ”. Chính quyền Trump cắt giảm ngân sách đóng góp, rút Mỹ khỏi một loạt cơ quan LHQ và công khai chỉ trích LHQ thiếu hiệu quả. Trong bài phát biểu trước Đại hội đồng LHQ, Tổng thống Trump từng thẳng thừng tuyên bố LHQ “đầy rẫy những lời hoa mỹ trống rỗng và không giải quyết được các cuộc chiến”, cho rằng tổ chức này “chưa hề đến gần việc thực hiện mục tiêu” theo kỳ vọng. Ông nhấn mạnh chủ trương “Nước Mỹ trên hết” và ngầm cảnh báo sẽ hành động đơn phương nếu LHQ “trói tay” Hoa Kỳ. Chưa có Tổng thống Mỹ nào từ sau Thế chiến II lại thể hiện rõ sự khó chịu với LHQ như ông Trump. Điều này càng khiến vai trò LHQ suy yếu, vì siêu cường số một không còn mặn mà dẫn dắt LHQ như trước.

Tình trạng vai trò mờ nhạt của LHQ thể hiện rõ trong kỳ họp Đại hội đồng và Hội đồng Bảo an mới đây (tháng 9/2025), khi thế giới đối mặt hàng loạt khủng hoảng nóng (chiến sự Gaza kéo dài, xung đột Ukraine, đảo chính liên tiếp ở châu Phi…). Cuộc họp thường niên lần thứ 80 của Đại hội đồng LHQ được đánh giá là một trong những kỳ họp hỗn loạn và căng thẳng nhất từ trước đến nay. Thay vì cùng nhau đưa ra thông điệp đoàn kết hay giải pháp chung, diễn đàn LHQ năm nay trở thành nơi các quốc gia khẩu chiến kịch liệt, bảo vệ lập trường riêng và công khai chỉ trích lẫn nhau. Nhiều nhà quan sát ví von Đại hội đồng LHQ giờ chẳng khác nào “chợ luận chiến”, nơi mạnh ai nấy phát biểu quan điểm, ít ai thực sự lắng nghe nhau và càng không đạt được thỏa thuận cụ thể nào.

Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc bỏ phiếu về dự thảo nghị quyết yêu cầu ngừng bắn ở Gaza, New York, Mỹ, tháng 9/2025. Ảnh: Reuters/Eduardo Munoz

Đầu tiên, có thể thấy các vấn đề hệ trọng đã không được nhất trí đưa vào chương trình nghị sự hay nghị quyết chung do bất đồng sâu sắc. Chẳng hạn, đề xuất công nhận quy chế nhà nước đầy đủ cho Palestine – một vấn đề được nhiều nước Ả Rập và Nam Bán cầu ủng hộ – đã không thể tiến triển tại HĐBA vì vấp phải sự phản đối của Mỹ và một số đồng minh. Hiện có tới 153/193 nước LHQ đã công nhận Palestine là nhà nước độc lập, thậm chí ngay trong khuôn khổ kỳ họp năm 2025, nhiều nước phương Tây lần đầu tuyên bố công nhận Palestine (Pháp, Anh, Tây Ban Nha, Canada…). Thế nhưng, Mỹ và Israel kịch liệt phản đối việc LHQ chấp nhận Palestine là thành viên chính thức, cho đó là “phần thưởng cho khủng bố” (ám chỉ Hamas). Kết quả, vấn đề Palestine tuy gây tiếng vang nhưng không được đưa vào bất cứ nghị quyết nào của HĐBA hay Đại hội đồng lần này – nói cách khác, “bị gạt sang một bên” đúng như nhận định của giới quan sát. Quyền lợi của phía Palestine chỉ nhận được sự ủng hộ mang tính biểu tượng, trong khi trên thực địa xung đột vẫn leo thang. Tổng Thư ký LHQ António Guterres phát biểu rằng “quyền có nhà nước của người Palestine là một quyền chính đáng, không phải phần thưởng ban phát”, nhưng lời nói đó hầu như không chuyển hóa thành hành động cụ thể nào của cộng đồng quốc tế.

Tương tự, vấn đề lên án hành vi thảm sát dân thường tại Gaza cũng gây chia rẽ gay gắt. Nhiều quốc gia và các chuyên gia độc lập đã cáo buộc Israel “diệt chủng” người Palestine trong chiến dịch quân sự tại Dải Gaza. Một ủy ban điều tra độc lập của LHQ thậm chí kết luận rằng Israel đang có “ý định hủy diệt” người Palestine ở Gaza, cấu thành tội ác diệt chủng. Thế nhưng, Hội đồng Bảo an không thể thông qua bất kỳ nghị quyết nào để chấm dứt bạo lực, do Mỹ sử dụng quyền phủ quyết liên tiếp (6 lần từ cuối 2024 đến 2025) nhằm bảo vệ đồng minh Israel. Trong phiên họp HĐBA ngày 18/9/2025, 14/15 nước ủng hộ yêu cầu ngừng bắn nhân đạo ở Gaza, chỉ riêng Mỹ bỏ phiếu chống khiến nghị quyết bị bác bỏ. Đại sứ Palestine tại LHQ Riyad Mansour phẫn nộ tuyên bố: việc Mỹ phủ quyết đã ngăn cản HĐBA “thực thi vai trò chính đáng để bảo vệ dân thường trước tội ác diệt chủng”. Ông cảnh báo uy tín của LHQ đang trả giá đắt khi bất lực trước thảm kịch nhân đạo, chỉ vì sự cản trở của một thành viên thường trực.

Thảo luận tại Đại hội đồng LHQ 2025 cũng đầy hỗn loạn và những màn “đấu khẩu” nảy lửa. Lãnh đạo nhiều nước lợi dụng diễn đàn LHQ để công kích nhau hơn là đối thoại xây dựng. Tổng thống Donald Trump, người vừa trở lại nắm quyền ở Mỹ, phát biểu với giọng điệu tự hào thành tích và công kích chủ nghĩa quốc tế, ông khoe về chính sách “Nước Mỹ trước tiên” và chê bai châu Âu về di cư và năng lượng xanh, đồng thời “mắng” thẳng LHQ là “vô dụng, chỉ toàn lời rỗng tuếch, không giải quyết được chiến tranh”. Ngay lập tức, Tổng thống Colombia Gustavo Petro lên án những hành vi đơn phương của Mỹ. Ông Petro thậm chí kêu gọi phải mở “phiên tòa hình sự đối với những quan chức Mỹ ra lệnh tấn công” các mục tiêu dân sự, ám chỉ trực tiếp đến Tổng thống Trump và loạt vụ tấn công bằng tên lửa của Mỹ vào các tàu thuyền chở người di cư ở Caribe đầu tháng 9/2025. Lời lẽ gay gắt này khác thường ở chỗ một lãnh đạo đồng minh Mỹ tại Mỹ Latin lại công khai đòi truy tố Tổng thống Mỹ ngay tại diễn đàn LHQ. Điều đó cho thấy sự bất mãn của các nước đang phát triển với cách hành xử tùy tiện của cường quốc – và họ tận dụng LHQ để vạch trần, thay vì nể nang như trước.

Cũng trên bục LHQ năm nay, Quốc vương Qatar Tamim bin Hamad Al Thani đanh thép tố cáo Israel “phá hoại các nỗ lực ngừng bắn và đang tiến hành một cuộc diệt chủng tại Gaza”. Ông cho biết ngày 9/9/2025, Israel đã thực hiện một vụ tấn công lén lút ngay tại Doha nhằm ám sát các lãnh đạo Hamas tị nạn, phá vỡ nỗ lực do Qatar làm trung gian thương lượng trao đổi con tin. Quốc vương Qatar gọi đây là “hành vi khủng bố nhà nước trắng trợn” và là “minh chứng cho tư duy côn đồ, coi thường luật pháp” của chính quyền Israel. Ông gay gắt chỉ trích Thủ tướng Israel Netanyahu là kẻ hiếu chiến, lợi dụng chiến tranh Gaza như “cơ hội mở rộng các khu định cư và mưu đồ Đại Israel” – đe dọa nghiêm trọng chủ quyền các nước láng giềng. Bài phát biểu của Qatar nhận được tràng pháo tay từ nhiều phái đoàn Ả Rập và châu Phi, nhưng cũng vấp phải sự phản đối: đại diện Israel rời phòng họp, còn một số nước phương Tây tỏ vẻ lạnh nhạt. Những màn trình diễn trái ngược ấy cho thấy Đại hội đồng LHQ giờ chỉ còn là nơi để các nước bày tỏ lập trường quốc gia, chứ rất khó đạt được tiếng nói chung. Sau cùng, kỳ họp bế mạc mà không ra nổi một tuyên bố chung hay nghị quyết quan trọng nào về các khủng hoảng nóng. Các đề xuất về Palestine, về Gaza, về Ukraine… đều rơi rụng trong tranh cãi và thủ tục.

Kết thúc kỳ họp, hình ảnh còn đọng lại là cảnh Tổng Thư ký LHQ António Guterres thất vọng thừa nhận: “Chúng ta đang chứng kiến sự chia rẽ đáng báo động… LHQ có nguy cơ bị vô hiệu hóa vào thời điểm cần nó nhất”. Quả thật, vai trò điều hòa, dẫn dắt của LHQ hầu như không còn rõ ràng. Tổng Thư ký – người được coi là “nhạc trưởng” của tổ chức – cũng trở nên lu mờ, ít được các nước lớn tham vấn. Những sự kiện đó cho thấy không bên nào thực sự nể trọng LHQ, mạnh nước nào nước nấy hành động.

Từ sứ mệnh cao cả sau Thế chiến II đến thực trạng hỗn loạn hiện nay, vai trò của Liên hợp quốc đang bị suy giảm nghiêm trọng. Trong một thế giới bất ổn và phân mảnh, LHQ đáng lẽ phải là nơi dẫn dắt hợp tác quốc tế, nhưng hiện chỉ còn như diễn đàn để các nước đăng đàn tuyên bố quan điểm. Các cường quốc thì mặc cả, đấu đá nhau; các nước nhỏ thì bất mãn vì bị gạt ra rìa. Trật tự đa phương do LHQ đại diện đang đứng trước thách thức sống còn, khi “ngôi nhà chung” này có nguy cơ “tự tan biến vào sự vô nghĩa” nếu không thích ứng. Tiếng nói cải tổ LHQ ngày càng lớn. Hàng chục nước châu Á, Phi, Mỹ Latin yêu cầu mở rộng HĐBA cho đại diện Nam Bán cầu, xóa bỏ tình trạng bất công khi “cả một châu lục 1,4 tỷ dân không có ghế nào trong cơ quan quyết định, còn một vài nước cứ nắm đặc quyền vĩnh viễn”. Họ cũng đề nghị hạn chế quyền phủ quyết trong những trường hợp tội ác nghiêm trọng (như diệt chủng), thay vì để một nước có thể cản trở công lý quốc tế.

Tổng thư ký Liên hợp quốc Antonio Guterres phát biểu trước Đại hội đồng tại trụ sở của Liên hợp quốc ở New York, Mỹ, ngày 23/9/2025. Ảnh: VCG

Nhiều chuyên gia và cựu quan chức LHQ cho rằng, nếu không cải tổ sâu rộng, LHQ có nguy cơ đi vào vết xe đổ của Hội Quốc Liên trước Thế chiến II – tức là mất uy tín, bị các nước bỏ rơi và cuối cùng tan rã. Đã xuất hiện những ý tưởng về việc hình thành một tổ chức đa phương mới hiệu quả hơn, phản ánh tốt hơn tiếng nói của các nước đang phát triển. Chẳng hạn, một số học giả Ấn Độ đề xuất ý tưởng “Liên hợp quốc 2.0” – một thể chế mới nếu cải tổ LHQ thất bại, với thành phần và nguyên tắc công bằng hơn cho Nam Bán cầu. Trong bối cảnh khối BRICS mở rộng, G-77 cất tiếng nói đòi trật tự kinh tế mới, không loại trừ khả năng các nước sẽ tăng cường những diễn đàn thay thế bên ngoài LHQ để hợp tác (ví dụ: liên minh Nam Bán cầu, các hiệp ước khu vực do Trung Quốc – Nga bảo trợ…).

Tóm lại, vai trò của LHQ hiện nay rất mờ nhạt trong việc điều hòa trật tự thế giới hỗn loạn – nhưng điều đó không đồng nghĩa tổ chức này hết hy vọng. Lịch sử cho thấy LHQ từng vượt qua nhiều khủng hoảng niềm tin và tiếp tục tồn tại. Tuy nhiên, để lấy lại vai trò trung tâm, LHQ cần cải cách mạnh mẽ nhằm thích nghi với tương quan lực lượng mới và khôi phục lòng tin của các quốc gia thành viên. Nếu không, LHQ sẽ ngày càng bị gạt sang lề, trong khi các luật lệ quốc tế mà nó dày công xây dựng có nguy cơ bị chà đạp bởi luật rừng của kỷ nguyên “cường quyền”. Như lời Tổng Thư ký Guterres: “Chúng ta phải lựa chọn: hợp tác hoặc hỗn loạn”. Vai trò tương lai của LHQ tùy thuộc vào lựa chọn đó của cộng đồng quốc tế.■

BẢO BÌNH

BÌNH LUẬN

BÀI VIẾT LIÊN QUAN