Ngô Bắc dịch và phụ chú
Nguồn: Ulises Granados, The South China Sea and Its Coral Reefs during the Ming and Qing Dynasties: Levels of Geographical Knowledge and Political Control, Journal of East Asian History, Number 32/33, December 2006/June 2007, Institute of Advanced Studies, The Australian National University, các trang 109-128
Lời người dịch:
Dưới đây là bản dịch một bài viết hiếm hoi và quan trọng bằng Anh ngữ của một tác giả ngoại quốc khảo sát vấn đề chủ quyền các Quần Đảo Hoàng Sa và Trường Sa qua việc nghiên cứu chính các tác phẩm bằng chữ Hán mà phía Trung Quốc vẫn hay dẫn chứng làm bằng cớ lịch sử của họ.
Tác giả, Giáo Sư người Mexico, Ulises Granados, thuộc Đại học Tokyo, Nhật Bản khi viết bài nghiên cứu này, đã đưa ra các nhận định quan trọng như sau:
….Trong thực tế, phán đoán theo các nguồn tài liệu tiêu biểu thời nhà Minh, xem ra rất khó để tin rằng các nhà cầm quyền Trung Hoa đã sáp nhập bất kỳ một trong bốn quần đảo vào đế quốc của họ.
… Các hòn đảo và các bãi san hô của khu vực này còn lâu mới thuộc sự kiểm soát chính thức của Trung Hoa….
… Trọn thời gian từ nhà Minh đến cuối nhà Thanh, các hoạt động mà chính quyền tại các quần đảo quy định đã vắng bóng trong các nguồn tài liệu Trung Hoa, tượng trưng cho một sự im lặng tương ứng trong sử ký nước này…
… Trong thời nhà Thanh, hai quần đảo chính tại Biển Nam Trung Hoa cũng được đánh dấu trên vài bản đồ. Ngay đến tên của các nhóm đảo này cũng không hoàn toàn đồng nhất, nhóm Paracels (quần đảo Hoàng Sa) vẫn được xác định là Vạn Lý Trường Sa trong phần lớn bản đồ thế kỷ thứ mười tám, trong khi nhóm Spratlys (quần đảo Trường Sa) được gọi hoặc là Thiên Lý Thạch Đường hay đơn giản là Thạch Đường. Tuy nhiên, khi khảo sát nhiều bản đồ, rõ ràng là địa điểm đích xác của cả hai quần đảo thường xuyên bị thay đổi, và rằng sự mô tả các hòn đảo và san hô thì trừu tượng một cách đáng ngạc nhiên. Thí dụ, trong bản đồ thế giới của quyển Hải Lục, cả hai nhóm Paracels và Spratlys đều được mô tả là thẳng góc với bờ biển Trung Hoa. Tuy nhiên, bản đồ trong các tác phẩm khác, chẳng hạn như quyển Hải Quốc Văn Kiến Lục, Dương Hoàn Chí Lược và Hải Quốc Đồ Chí, cho thấy các hòn đảo song song với đất liền….
… Các tài liệu địa dư Trung Hoa từ thời nhà Minh và nhà Thanh, và các bản đồ Âu Châu (đặc biệt được lập bởi các thủy thủ Bồ Đào Nha và Anh Quốc),71 cho thấy Quần Đảo Paracels (Hoàng Sa), Pratas, Macclesfield Bank và Spratlys (Trường Sa) chỉ là các dấu chấm hay các nét vạch. Như đã ghi nhận ở trên, dường như đã có sự thiếu sót kiến thức chi tiết về địa dư của các hòn đảo và bãi đá ngầm này, bởi chúng không hề được coi trọng …
… Tác giả này tin tưởng rằng để khởi sự gỡ rối cuộc xung đột các hòn đảo Biển Nam Trung Hoa, giờ đây đã liên hệ đến Phi Luật Tân, Mã Lai, Brunei, cũng như Trung Quốc, Đài Loan và Việt Nam, cuộc thảo luận phải xét đến những diễn biến xảy ra từ cuối thế kỷ thứ mười chín hay đầu thế kỷ thứ hai mươi. Việc khảo sát các biến cố xa xưa vốn có thể thuộc về huyền thoại – đặc biệt bởi các nguồn tài liệu Trung Hoa được đặc trưng bởi vô số lỗ hổng và sự im lặng – nơi sự tự thuật tinh vi có thể kết tinh thành chính sử một cách không khoan nhượng…
… Chính vì thế, các chuyên gia luật quốc tế có một bổn phận phải khảo sát tài liệu lịch sử với cung cách cẩn trọng, nhằm mang lại các câu trả lời và giải pháp khả dĩ cho sự rắc rối lãnh thổ khó phân xử này.
Tác giả có nhắc tới một cách vắn tắt sự đối chọi trực tiếp của Việt Nam đối với các luận điểm về bằng chứng lịch sử của Trung Quốc và Đài Loan trong cuộc tranh chấp chủ quyền các quần đảo ở Biển Đông. Nhìn chung, công luận thế giới và luật quốc tế dễ dàng nhìn thấy các điểm phi lý của phía Trung Quốc và Đài Loan khi xem xét vụ việc được khởi kiện tại tòa án quốc tế.
Trên cùng đề tài này, độc giả có thể tìm đọc một công trình thâm cứu của cố Giáo Sư Lãng Hồ Nguyễn Khắc Kham, nhan đề Hoàng Sa và Trường Sa, Lãnh Thổ Việt Nam, được đăng tải trong tập san Sử Địa, số 29, Tháng 1-Tháng 3, 1975. /-
***
Trong cuộc tranh giành chủ quyền bốn quần đảo thuộc Biển Nam Trung Hoa (South China Sea) [Việt Nam gọi là biển Đông, tuy nhiên, trong văn bản này, tôi giữ nguyên cách dùng từ của tác giả, “Biển Nam Trung Hoa”, để tránh nhầm lẫn với tên gọi của những vùng biển khác được ghi chép trong sử liệu Trung Hoa như Biển Hoa Đông, Đông Dương, Tây Dương… – chú của người dịch] – chính yếu là Quần Đảo Hoàng Sa (Paracel Islands) (Xidsha Qundao 西沙群島, Tây Sa Quần Đảo) và Quần Đảo Trường Sa (Spratly Islands) (Nansha Qundao 南沙群島 Nam Sa Quần Đảo), nhưng cũng gồm Pratas Islands (Dongsha Qundao 東沙群島 Đông Sa Quần Đảo) và Bãi Cát Macclesfield (Zhongsha Qundao 中沙群島 Trung Sa Quần Đảo) – Trung Quốc dựa nhiều vào các nguồn tài liệu lịch sử để tuyên nhận rằng các đảo này đều được biết đến và nằm dưới thẩm quyền đế quốc từ các thời đại cổ xưa.1 Trước khi cuộc thị sát hải quân đầu tiên được phái đến Quần Đảo Hoàng Sa thời Mãn Châu năm 1909, các nguồn tài liệu Trung Hoa bao gồm những mô tả địa dư và các hải trình, cũng như các bản đồ.2 Một số trong các tài liệu tham khảo này là bảy cuộc du hành nổi tiếng (1405-33) của Đô Đốc Trịnh Hòa 鄭和 dưới thời nhà Minh 明 (1368-1644), trong khi các tài liệu khác có niên kỳ thời nhà Tống 宋 (960-1279) và nhà Nguyên 元 (1277-1367) hay thậm chí trước đó.
Các khái niệm pháp lý cổ điển về chủ quyền lãnh thổ, địa hạt tài phán và quyền chủ tể, phải được sử dụng thận trọng khi phân tích những lời tuyên xác đối với các Đảo thuộc Biển Nam Trung Hoa trong hai triều đại sau cùng.3 Một số khái niệm cần được làm rõ nghĩa khi áp dụng cho các đơn vị lãnh thổ được cư trú bởi những thần dân dưới sự kiểm soát của một số loại thẩm quyền. Lãnh thổ như thế hoặc có thể bị sở hữu và nằm dưới sự kiểm soát trực tiếp – tức là, quyền lực tối cao, chuyên độc của các định chế chính phủ hay các đại diện chính trị khác; hoặc là lãnh thổ của một chính thể riêng biệt thừa nhận một mối quan hệ của quyền chủ tể. Trong khuôn khổ các quan hệ triều cống với đế quốc Trung Hoa, một số chính thể thừa nhận quyền chủ tể nhằm đạt được sự chung sống hòa bình và các đặc ưu mậu dịch trong phạm vi trật tự thế giới Trung Hoa.4
Khi có những tuyên nhận mâu thuẫn đối với các đảo có người cư trú thường xuyên hay hoàn toàn bỏ hoang, các chuyên gia luật quốc tế thường dựa vào các học thuyết đã được thiết lập vững chắc – các nguyên tắc pháp lý quốc tế chi phối sự sở đắc chủ quyền – nhằm xác định nước nào có các quyền hạn về bằng khoán trên một mảnh đất nào đó.5 Luật quốc tế thậm chí còn quy định khả năng một lãnh thổ không có (hay chưa từng có) chủ quyền tại một thời điểm cụ thể, qua việc sử dụng thuật ngữ terra nullius: vùng đất không thuộc về nước nào [một thành ngữ bằng tiếng La Tinh trong luật La Mã, được dùng trong luật quốc tế hiện đại để chỉ vùng đất chưa hề thuộc chủ quyền của bất kỳ nước nào, hay trên đó bất kỳ chủ quyền nào trước đây chưa công khai hay mặc nhiên từ bỏ chủ quyền của mình. Chủ quyền trên phần đất vô chủ có thể có được thông qua chiếm ngụ, mặc dù trong một số trường hợp, làm như thế là vi phạm luật hay hiệp định quốc tế. Có một giải thích cụ thể hơn là do vùng đất đó vô chủ, kẻ nào khám phá ra nó đầu tiên được quyền sở đắc nó. Chú của người dịch]. Không cần nói, những phân tích pháp lý như thế (không phải là tiêu điểm của bài viết này) tùy thuộc vào nghiên cứu lịch sử về vụ việc đang diễn ra.
Nghiên cứu này chủ yếu bao gồm thời kỳ từ khi thành lập nhà Minh cho đến các thập kỷ cuối cùng của nhà Thanh 请 (1644-1911). Như sẽ được trình bày dưới đây, trong khi một mức độ thẩm quyền chính trị nào đó xem ra có hiện diện trên các vùng hàng hải kề cận với bờ biển ở phần phía bắc của biển này (tức, biên cương hàng hải: maritime frontier: haijiang 海疆 hải cương hay “lãnh thổ duyên hải: littoral territory: yanhai jiangyu 沿海疆域 duyên hải cương vực”), các nhà chức trách Trung Hoa đã không thực hiện bất kỳ hành vi nào để sáp nhập bất kỳ một trong bốn quần đảo vào đế quốc. Trong thực tế, giới học thuật vẫn tiếp tục thảo luận về:
1. nếu chỉ đơn thuần ghi chép về sự hiện diện của các hòn đảo trong các nguồn tài liệu thành văn (được mô tả như các “dấu chấm” trong một vài bản đồ), thì có nghĩa là có thẩm quyền chủ tể, hay quyền lực chuyên độc trên các vùng đất này hay không.
2. sự hiện diện của các ngư phủ Trung Hoa sinh sống trên các hòn đảo hay khai thác vùng biển xung quanh chúng có đủ để viện dẫn các quyền hạn hay không.
Nhiều tác giả Trung Hoa bàn luận về khía cạnh này của sự tuyên nhận đã khẳng định nhiều lần quan điểm này, một cách kín đáo hay công khai.6
Các lập luận của Trung Hoa về xung đột Biển Nam Trung Hoa thì nhất quán trong việc khẳng định rằng kiến thức về biển – những tuyến đường mậu dịch và các hòn đảo của nó – được mô tả trong các tài liệu thành văn hẳn chứa đựng những tuyên nhận hợp pháp, bất kể các tài liệu chính thức, bản đồ tư nhân, hay bản đồ hải hành của các tuyến đường lái thuyền tư nhân đã trình bày về khu vực ra sao. Tức là, chỉ riêng việc xác định sự hiện diện của các tên gọi cổ xưa của những hòn đảo trong các nguồn tài liệu là đủ để chứng minh rằng các vùng đất xa xôi đó đã được cai trị bởi nhà Minh và nhà Thanh. Tuy nhiên, việc phân tích một số tài liệu tiêu biểu từ thời nhà Minh cho đến Cuộc Chiến Tranh Nha Phiến Lần Thứ Nhất (1839-42) tiết lộ các trình độ kiến thức khác nhau về các biển và đảo này. Hơn nữa, một số tài liệu nhà Thanh đã lặp lại, gần như từng chữ một, những tên gọi và mô tả có từ thời nhà Minh về các vùng nguy hiểm và xa xôi vốn bị xem là không an toàn cho hải hành.
Vì thế, để trả lời nhiều lập luận cốt lõi về lịch sử của Trung Hoa, điều quan trọng là chỉ ra lý do tại sao không có sự hiện diện chính thức nào của Trung Hoa tại các hòn đảo được ghi lại trước thời kỳ cuối của nhà Thanh. Lập luận trọng tâm của nghiên cứu này là “việc hiểu biết về” các hòn đảo ở Biển Nam Trung Hoa, không đồng nghĩa với việc “cai trị” hay có các quyền sở hữu đối với chúng. Bài viết sẽ nghiên cứu lịch sử (và việc viết sử ký của Trung Hoa) về Biển Nam Trung Hoa (South China Sea) thông qua việc khảo cứu các tài liệu quan trọng thời nhà Minh và nhà Thanh, cũng như các nguồn tài liệu thứ cấp. Trước tiên, nó đặt kiến thức địa dư về vùng Biển Nam Trung Hoa như được trình bày trong các nguồn tài liệu nhà Minh và nhà Thanh trong khuôn khổ sự phân chia “Tây Dương: xiyang西洋, Western Ocean) –Đông Dương: dongyang東洋, Eastern Ocean” của Trung Hoa và các cuộc thảo luận về nơi hai biển này gặp nhau. Sự phân chia này để chỉ một biên cương khá mơ hồ giữa các khu vực ảnh hưởng Trung Hoa và phi Trung Hoa, và như một nơi diễn ra các hoạt động hàng hải thường xuyên của Trung Hoa. Trong bối cảnh này, cần lưu ý rằng, trái với các mô tả địa dư phong phú về những điểm xa xôi của “Biển Phương Nam” (Southern Sea), các văn bản đề cập đến những hòn đảo và bãi san hô của nó còn chưa chính xác và khá mơ hồ. Kế đó, bài viết này thảo luận về sự vắng mặt và thiếu kiểm soát của Trung Hoa trên các hải phận này sau những chuyến du hành nổi tiếng của Trịnh Hòa, như một hậu quả của những yếu tố bên trong và bên ngoài. Sự tách biệt khỏi lãnh hải này là lý do chính yếu cho sự thiếu vắng các hoạt động chính thức hay được quy định chính thức trên các hòn đảo, và cho việc sử dụng lặp đi lặp lại các tham chiếu không chính xác trong những mô tả địa dư sau này, ngay cả trong các tài liệu lịch sử địa phương. Sau cùng, nghiên cứu này mở ra khả năng nhìn nhận Biển Nam Trung Hoa như một khu vực được sử dụng cho các hoạt động khác nhau của người Trung Hoa, người Đông Nam Á, người Ả Rập và người Âu Châu. Bản thân sự sắp xếp lại ý niệm (reconceptualisation) này cho phép khỏa lấp những thiếu sót quan trọng trong sự trần thuật lịch sử của Trung Hoa. Sau cùng, bài viết này nhấn mạnh đến nhu cầu duy trì sự lưỡng phân (dichotomy) giữa “việc hiểu biết về khu vực” với “việc cai trị khu vực” khi phân tích các tài liệu lịch sử về vấn đề này. Sự lưỡng phân này tới nay dường như đã được “tẩy xóa” một cách trôi chảy trong việc viết sử ký Trung Hoa nhằm phục vụ lợi ích dân tộc của họ.
Biển Nam Trung Hoa và sự phân chia giữa Tây Dương và Đông Dương
Từ lâu trước khi bắt đầu triều đại nhà Minh, Biển Nam Trung Hoa đã được xác định trong các tài liệu Trung Hoa. Trong một vài trường hợp, đây là một khu vực cách biệt mơ hồ, trong các tài liệu khác, nó là một phần của một đại dương rộng lớn hơn bao gồm các hải phận Đông Á, Đông Nam Á, và Ấn Độ Dương. Sự xác định không gian hàng hải này được ý niệm hóa thông qua sự phân chia “Tây Dương – Đông Dương” đầu tiên dưới thời nhà Tống theo một cách tổng quát, trừu tượng, và sau này, với nhiều chi tiết hơn, trong thời nhà Nguyên.
Để giới thiệu các đường nét chính yếu được thảo luận trong các cuộc tranh luận này, và để hiểu tiến trình của chúng, bài phân tích này sẽ khởi sự với một vài nguồn tài liệu tiêu biểu trước thời nhà Minh:
Nhà Tống
o Zhou Qufei周去非 : Chu Khứ Phi,Lingwai Daida: Lĩnh Ngoại Đại Đáp: 嶺外代答 (Thông Tin Về Những Gì Bên Ngoài Các Cửa Ải: Information on What Is Beyond the Passes), 1178.
o Zhao Rugua趙汝括 : Triệu Nhữ Quát, Zhufan zhi: Chư Phiên Chí 諸藩志(Khảo Luận Về Người Nước Ngoài: Treatise on Foreigners), 1225
Nhà Nguyên
o Chen Dazhen陳大震: Trần Đại Chấn, Dade Nanhai zhi 大德南海志,Đại Đức Nam Hải Chí (Khảo Luận Về Biển Nam Hải Của Đại Đức), 1304.
o Wang Dayuan 汪大淵: Uông Đại Uyên, Daoyi zhilue 島夷志略 Đảo Di Chí Lược (Lược Khảo Về Các Hòn Đảo và Dân Tộc Man Rợ), 1349
Quyển Lĩnh Ngoại Đại Đáp của Chu Khứ Phi ghi chép rằng Vịnh Bắc Việt (Jiaozhi yang 交趾洋) nằm ở phía tây nam của đảo Hải Nam (Qiongya瓊崖Quỳnh Nhai (hay Nha). Đây là nơi mà ba tuyến đường đi thuyền quan trọng cùng tìm thấy lối tiến vào Biển Nam Trung Hoa. Tuyến đầu tiên trong các tuyến đường này dẫn đến các nước ở hướng nam, tuyến thứ nhì, phía bắc, nối liền Giao Chỉ Dương với các khu vực duyên hải của Quảng Đông廣東, Phúc Kiến 福建, và Chiết Giang浙江, và tuyến thứ ba dẫn đến Dongda Yanghai 東大洋海: Đông Đại Dương Hải. Trong phạm vi Đông Đại Dương Hải này – vùng có thể được nhận diện là Biển Nam Trung Hoa (South China Sea) – họ Chu xác định “Changsha長砂 Trường Sa” và “Shitang 石塘 Thạch Đường”, có lẽ để chỉ lần lượt các quần đảo Paracel (Hoàng Sa) và Spratly (Trường Sa).7
Sau này, trong quyển Chư Phiên Chí, từ ngữ “Donghai 東海Đông Hải “ (Eastern Sea: Biển Đông) xuất hiện. Trong văn bản này, tác giả Triệu Nhữ Quát có nói đến phần phía bắc của Biển Nam Trung Hoa như một khu vực nối kết các tuyến đường mậu dịch giữa Champa (Zhancheng占城 Chiêm Thành) và Quảng Châu (Guangzhou 廣州).8 Xa hơn về phía nam, Java (Shepo闍婆 Xa Bà [?])hiện lên như điểm xuất phát của một số tuyến đường mậu dịch, một đi về hướng đông, và một đi về hướng bắc đến đảo Côn Đảo hay Pulau Condore (Kunlun 崑崙Côn Luân) ngoài khơi cửa sông Mekong, xuyên ngang phần phía nam của Biển Nam Trung Hoa.9 Từ Côn Đảo, tuyến đường được phân chia: một tuyến đường phụ theo hướng tây dẫn đến các hải cảng Trung Hoa tại Quảng Đông và Phúc Kiến. Tuy nhiên, các giới hạn của chính Biển Nam Trung Hoa lại không được miêu tả rõ ràng trong nguồn tài liệu này.10
Tới thời nhà Nguyên, ý niệm về giới hạn của biển dường như đã được định hình. Điều này dẫn đến việc các vùng hàng hải được phân định một cách rõ ràng hơn. Quyển Đại Đức Nam Hải Chí (Dade Nanhai zhi) của Trần Đại Chấn là một thí dụ. Trong tác phẩm này, chín chính thể được xác định: Champa, Cambodia (Zhenla 真臘Chân Lạp), Siam, Tambralinga (có thể là sườn phía đông của bán đảo Thái Lan, Danmaling 單馬令Đan Mã Lịnh), Palembang (Srivijaya 三佛霽國 Tam Phật Tề Quốc), Brunei, Tanjongpura (tại miền nam của đảo Borneo, Danzhongbulan 單重布 羅 Đan Trọng Bố La), và Java. Hai trong số này, Tambralinga và Palembang, thì “phụ trách” (guan管: quản” một “Tiểu Tây Dương” (Small Western Ocean); Brunei quản một “Tiểu Đông Dương: Smal Eastern Ocean”, và hai chính thể (Tanjongpura và Java) đảm trách Đại Đông Dương: Great Eastern Ocean”.11 Như tác giả Roderich Ptak đã chỉ ra, một số khu vực hàng hải đã được phân biệt rõ ràng: một “Tiểu Tây Dương”, bao gồm Vịnh Thái Lan và bờ biển phía đông Mã Lai, một “Đại Tây Dương” (không được đề cập một cách công nhiên) từ Sumatra đến Sri Lanka (Tích Lan) – Ấn Độ Dương, một “Tiểu Đông Dương” bao gồm Biển Sulu, bờ biển Sarawak, và khu vực các đảo Mindoro-Mindanao tại Philippines, và một “Đại Đông Dương”, được hiểu như một đại dương nối kết, bao gồm Biển Java, miền đông và miền nam đảo Borneo, và miền đông Indonesia.12 Nguồn tài liệu thời nhà Nguyên này không đề cập đến các đảo san hô ở Biển Nam Trung Hoa.
Tới năm 1349, khi Uông Đại Uyên viết quyển Dairi zhilue (Đảo Di Chí Lược), “Tây Dương” đã sẵn được phân biệt rõ ràng với “Đông Dương”. Theo nguồn tài liệu này, điểm phân chia Tây Dương và Đông Dương là tại Longyamen龍牙門 Long Nha Môn (Eo biển Hải cảng Keppel ngày nay, miền nam Singapore) và tại đảo Côn Đảo. Cả hai địa điểm được xem là “cửa ngõ” sang “Tây Dương”, nơi các tàu trên đường đến Ấn Độ Dương đã đi ngang qua.13 Hơn nữa, nguồn tài liệu này cũng đề cập tới Wanli Shitang萬里石塘 Vạn Lý Thạch Đường (Paracels – Hoàng Sa) như một nơi mà một số “mạch” ngầm dưới biển từ ba vùng hội tụ, và là nơi có liên hệ với hải cảng mậu dịch Chaozhou潮州Triều Châu tại lục địa Trung Hoa.14
Thật thú vị khi so sánh các nguồn tài liệu này với các nguồn tài liệu Ả rập cùng thời, bởi những nhà mậu dịch Hồi Giáo đã có một kiến thức phong phú về các tuyến đường hàng hải Trung Hoa và Đông Nam Á. Các nguồn tài liệu Ả Rập xác định sự phân chia “Tây Dương – Đông Dương” không cụ thể bằng, nhưng một vài tài liệu trong số đó có chấm định một sự phân chia như thế ở một khu vực tương tự. Tới thế kỷ thứ mười, và cho đến cuối triều đại nhà Nguyên, một nơi được gọi là “Kalah” trong tiếng Ả Rập ở phía tây của Bán Đảo Mã Lai, ở nơi nào đó gần Kedah ngày nay và quần đảo Lingkawi cùng với sườn phía đông của đảo Sumatra, nơi mà phần lớn mậu dịch Ả Rập phát đạt, được xem như khu vực phân chia các đại dương. Người ta cũng cho rằng khu vực này tượng trưng cho giới hạn hải hành của các thuyền buồm Trung Hoa. Tác giả Gerald R. Tibbets đồng ý rằng nó được thừa nhận như một đường phân chia các tuyến đường giao thương từ Trung Hoa đến Ấn Độ và Ả Rập.15 Tuy nhiên, một số nguồn tài liệu Ả Rập xếp Ấn Dộ Dương và các biển Trung Hoa vào các phân vùng (sub-regions) khác (giống như “bảy biển” của Ahmad ibn Abi Ya’qub hồi thế kỷ thứ chín) thông qua việc xem xét những tiêu chuẩn khác, chẳng hạn, như ngôn ngữ của những cư dân thuộc các chính thể tương ứng mà họ ghé thăm. Tuy nhiên, cần phải ghi nhận rằng một số nguồn tài liệu dùng tên gọi “Sea of Cankhay”, tên gọi Trung Hoa cổ xưa là Zhanghai張海: Trường Hải, để chỉ Biển Nam Trung Hoa và rất có thể là cả Biển Hoa Đông (East China Sea).16
Trong các tài liệu thời nhà Minh, các giới hạn địa dư của Biển Nam Trung Hoa không được trình bày rõ ràng; song biển này, như một phần của “Đông Dương”, tiếp tục được ý niệm hóa như bộ phận của một biên cương mơ hồ giữa các thế giới Trung Hoa và phi Trung Hoa về mặt hải hành và mậu dịch, một trong các không gian hàng hải nơi thế giới văn minh đối diện với thế giới man rợ. Một số trong các tài liệu đó có đề cập đến các đảo san hô (Paracels (Hoàng Sa), Spratlys (Trường Sa), Pratas Reef hay Macclesfield Bank) bằng các tên gọi cổ xưa của chúng, mặc dù việc sử dụng các tên gọi này vẫn còn khá thiếu chính xác.
Các nguồn tài liệu kể sau không cố gắng trình bày một sự khảo sát tường tận mà mang tính chất đại diện:
Tới triều nhà Nguyên, sự phân chia thành một “Tây Dương” và một “Đông Dương” của khu vực hàng hải bao la từ phía tây Thái Bình Dương đến Ấn Độ Dương ngày càng được chấp nhận hơn. Tới thời sơ Minh, sự phân chia này đã trở nên rõ ràng, và từ đó, ý niệm về một “Biển Phía Nam” (Southern Sea) cũng xuất hiện một cách chậm chạp. Ba mươi sáu năm sau ngày thành lập triều đại, những hạm đội khổng lồ dưới sự chỉ huy của Đô Đốc Trịnh Hòa đã được hoàng đế Vĩnh Lạc (Yongle 永樂) phái đến các địa điểm dọc theo Biển Nam Trung Hoa (South China Sea), Ấn Độ Dương và Bán Đảo Ả Rập. Từ giữa năm 1405 đến năm 1433, bảy chuyến du hành vào “Tây Dương” tự nhiên làm gia tăng kiến thức về các vùng hải hành. Từ ngữ phân biệt các “đại dương” khác nhau cũng đã hiện diện sẵn từ trước thời nhà Minh, và trong thời sơ Minh, một số nguồn tài liệu cho thấy các khái niệm về không gian này của nhà Nguyên vẫn được tiếp tục: một “Tây Dương” được phân biệt với “Đông Dương” nơi các thủy thủ và thương thuyền Trung Hoa, Ả Rập và Mã Lai qua lại.18
Thí dụ, quyển Doanh Nhai Thắng Lãm của Mã Hoan có đề cập tới Lambri (Nanboli 南渤里 Nam Bột Lý) tại Aceh và Samudra-Pasai (Sumendala 蘇門答剌Tô Môn Đáp Lạp) trên bờ phía bắc của Sumatra như điểm cực đông của “Tây Dương”. Java (Shepo) cũng thường được thừa nhận như nơi “Tây Dương” bắt đầu.19 Ba nơi này có thể được thừa nhận như điểm xuất phát của “Tây Dương” vì chúng là những điểm cập bến cuối cùng của các tuyến mậu dịch đường dài, có lợi thế về mặt địa dư trên Eo Biển Malacca và Eo Biển Sunda. Ở đó, các thương nhân dừng chân và tiếp tế thêm trước khi tiếp tục tiến về hướng tây để đến Ấn Độ Dương hay sang hướng đông để tới Trung Hoa, Borneo, Philippines hay Moluccas.
Quyển Doanh Nhai Thắng Lãm, cũng như quyển Tinh Sai Thắng Lãm của Phí Tín, chứa đựng các mô tả địa dư của các địa điểm trải dài từ Biển Nam Trung Hoa (South China Sea) cho đến Ấn Độ Dương. Đặc biệt, Biển Nam Trung Hoa được thừa nhận là trải dài từ Wuhumen 五虎門 Ngũ Hổ Môn, trên bờ biển Phúc Kiến tại Eo Biển Đài Loan ở phía đông bắc, xuống tới xứ Chàm và Quy Nhơn (Xinzhougang 新州港: Tân Châu Cảng), trên bờ biển trung phần Việt Nam ở phía đông. Phần tây nam của biển này trải dài từ Côn Đảo (Kunlunshan 崑崙山) ở phía tây nam20 đến Brunei (Poluo 婆羅 Bà La) ở phía nam.21 Về phía đông, biển này chạy từ quần đảo Philippines đến đảo Formosa (Đài Loan). Điều quan trọng là cả hai nguồn tài liệu này đều không đề cập đến các đảo san hô ở Biển Nam Trung Hoa.
Tuy nhiên, một nguồn tài liệu quan trọng khác từ thời nhà Minh, quyển Hải Ngữ của Hoàng Trung (Huang Zhong), có đề cập đến các đảo này. Theo họ Hoàng, Wanli Shitang: Vạn Lý Thạch Đường – ở đây là một chỉ danh lỏng lẻo chỉ các quần đảo Paracel (Hoàng Sa), Pratas, cũng như Macclesfield Bank – và Wanli Changsha 萬里長沙 Vạn Lý Trường Sa – quần đảo Spratlys (Trường Sa), một vành đai các đảo nhỏ và các nhánh san hô vốn bị cho là cực kỳ nguy hiểm cho các chuyến hải hành – tất cả được tìm thấy nơi “Nam Hải” (Southern Sea).22 Hơn nữa, Bản Đồ Hải Hành Của Trịnh Hòa, cái được gọi là “Bản Đồ của Mao Kun” (Mao Khôn, Mao Kun tu 茅坤圖 Mao Khôn đồ”, được biên soạn từ các bản đồ hải hành còn tồn tại trong năm 1621, có xác định một số đảo san hô tại Biển Nam Trung Hoa (South China Sea). Các đảo này bao gồm Thạch Đường, Shitang 石塘, có nghĩa Wanli Shitang: Vạn Lý Thạch Đường, và cái được gọi là Wancheng Shitangyu: 萬生石塘嶼 Vạn Sinh Thạch Đường Dư, cả hai tên đều để chỉ Quần Đảo Paracels (Hoàng Sa). Bản đồ cũng đánh dấu Shixing Shitang: Thạch Tinh Thạch Đường 石星石塘 (có thể là tên khác của Wanli Shitang: Vạn Lý Thạch Đường), nhằm chỉ một khu vực chạy dài bao trùm Macclesfield Bank, các Quần Đảo Pratas và Paracels (Hoàng Sa), một vành đai các thực thể bằng đá và san hô khởi đầu gần hải cảng Triều Châu (Chaozhou) (tương đồng với miêu tả của tác giả Uông Đại Uyên trong quyển Đảo Di Chí Lược năm 1349).23
Bản đồ của Mao Khôn không xác định rõ sự phân chia “Tây Dương” và ” Đông Dương”, nhưng chỉ có một số ít nguồn tài liệu giữa thế kỷ thứ mười sáu là có trình bày một cách rõ ràng nơi mà nó tọa lạc. Quyển Tây Dương Triều Cống Điển Lục (1520) của Hoàng Tỉnh Tăng xem “Tây Dương” bắt đầu từ phía đông của Kunlun Yang 崑崙洋 Côn Lôn Dương và Lambri và có đề cập đến Sulu như thuộc về “Đông Dương”.24 Tuy nhiên, tới đầu thế kỷ thứ mười bảy, sự phân chia này được ghi nhận một cách rõ ràng trong quyển Đông Tây Dương Khảo. Tác giả Trương Nhiếp đã xác định các chính thể từ Đông và Đông Nam Á là thuộc “Tây Dương” hoặc “Đông Dương”. Nhật Bản được ghi nhận trong một phần riêng biệt. Trong số các chính thể nằm trong phạm vi “Tây Dương” là Giao Chỉ, Chàm, Xiêm La, và ngay cả Palembang, trong khi các chính thể thuộc về “Đông Dương” bao gồm Luzon (Lữ Tống), Sulu và Brunei.25 Tác giả họ Trương cũng ghi nhận Palembang là thuộc “Biển Đông Nam” (Southeast Ocean), và coi Brunei là nơi mà “Tây Dương khởi đầu.26 So sánh với các nguồn tài liệu thời sơ và giữa nhà Minh, cần ghi nhận rằng trong các bản đồ, sự phân chia Đông và Tây đã di chuyển một chút về phía đông vào cuối triều đại. Trong văn bản của họ Trương không đề cập đến các đảo thuộc Biển Nam Trung Hoa, điều này có thể khẳng định rằng phần trung tâm của Biển Nam Trung Hoa phần lớn bị các thủy thủ né tránh và nằm ngoài các tuyến mậu dịch chính.27
Một nguồn tài liệu quan trọng khác từ thời nhà Minh là quyển Thuận Phong Tương Tống, một cẩm nang hải hành có lẽ ra đời từ thế kỷ thứ mười sáu, song tác giả và niên đại chính xác của nó vẫn chưa sáng tỏ. Trong văn bản này, tác giả có ghi chép chi tiết các tuyến đường biển nối liền Phúc Kiến, Đài Loan, Việt Nam, Thái Lan, Brunei và Philippines bên cạnh các địa điểm khác. Văn bản cũng ít tham chiếu tới các đảo san hô của Biển Nam Trung Hoa: Vạn Lý Thạch Đường và các hải phận kề cận (Qizhou Yang 七州洋: Thất Châu Dương), và Vạn Lý Trường Sa chỉ được đề cập đến một cách vắn tắt.28
Nguồn tài liệu cuối cùng từ thời nhà Minh là một quyển dư địa chí địa phương về Hải Nam. Trong quyển Địa Phương Chí Hải Nam dưới thời trị vì của vua Chính Đức, một khu vực hàng hải phía nam lục địa Trung Hoa trải dài từ bắc Việt Nam (Giao Chỉ), Chàm, và Campuchia đến Quảng Châu và Phúc Kiến được ghi nhận. Quyển sách cũng đề cập đến hai thực thể trong khu vực hàng hải này, Vạn Lý Thạch Đường và Trường Sa (Changsha) (ở đây, gọi là Pratas). Theo tài liệu này, lái thuyền từ đảo Hải Nam đến các bờ biển Phúc Kiến và Chiết Giang chỉ mất bốn đến chín ngày. Quyển sách không có sự tham chiếu trực tiếp nào đến Tây Dương và Đông Dương.29
Sự hiểu biết về Biển Nam Trung Hoa và đặc tính các đảo của nó nói chung đã dầy dặn hơn từ đầu triều đại nhà Thanh, nhưng nhiều nguồn tài liệu từ thời kỳ này chỉ nhắc lại thông tin từ các tài liệu có trước. Bài viết này sẽ xem xét các tài liệu dưới đây:
Các cuộc thảo luận về sự phân chia giữa “Tây Dương” và “Đông Dương” tiếp diễn đến triều đại nhà Thanh. Sau khi thu hồi đảo Formosa vào năm 1684, hoàng đế Khang Hy (Kangxi 康熙 ) đã ra lệnh thực hiện một số cuộc viễn chinh bằng đường biển tới Các Biển Phương Nam (Southern Seas). Hơn bốn mươi năm sau đó, trong năm thứ tám đời vua Ung Chính(Yongzheng 雍正) (1730), quyển Hải Quốc Văn Kiến Lục đã xuất hiện. Tài liệu này miêu tả các địa điểm trên khắp thế giới từ Nhật Bản đến Vương Quốc Anh, kể cả địa dư của Biển Nam Trung Hoa. Tài liệu có phân biệt giữa Đông Dương (Eastern Ocean), Đông Nam Dương (Southeastern Ocean), Nam Dương (Southern Ocean), Tiểu Tây Dương (Small Western Ocean), Đại Tây Dương (Great Western Ocean), khu vực Kunlun (Côn Lôn (Luân)) và vùng Nan’aoqi 南澳氣 (Nam Áo Khí). Trần Luân Quýnh chỉ ra rằng có một vài vùng đất tại Nam Dương phía nam đảo Đài Loan (nơi vốn được xem là thuộc Đông Nam Dương) và bắc Indonesia. Xứ Chàm, Tân Châu Cảng, Chân Lạp và Giao Chỉ tạo thành ngoại vi phía tây của Nam Dương. Trong phạm vi “hồ” nước khổng lồ này, ông có xác định Thất Châu (Qizhou: 七州) và Thất Châu Đại Dương (Qizhou Dayang: 七州大洋), cũng như Vạn Lý Trường Sa và Tây Trường Sa西長沙, tất cả các địa danh này đều chỉ quần đảo Paracels [Hoàng Sa]. Tác giả cũng ghi nhận Thiên Lý Thạch Đường (Qianli Shitang 千里石塘) hay Thạch Đường (cụm các hòn đảo và san hô của nhóm Trường Sa), Đông Trường Sa ( 東長沙), còn gọi là Sa Đầu (Shatou 沙頭) (Macclesfield Bank), và vùng Nam Áo Khí (Nan’aoqi) (Quần Đảo Pratas và chung quanh).30
Các địa danh tương tự được đề cập trong quyển Chỉ Nam Chính Pháp, một bản chép tay không rõ tác giả và niên kỳ nhưng có lẽ được viết ra trong khoảng đầu thế kỷ mười tám. Giống như trường hợp của quyển Thuận Phong Tương Tống, cuốn này trình bày chi tiết về các hải đạo và có đề cập đến các quần đảo. Trong cả hai văn bản, quần đảo Paracels (Hoàng Sa) và hải phận chung quanh, đảo Pratas (được xác định ở đây là Changshawei 長沙尾: Trường Sa Vĩ, một phần của vùng Nan’ao: Nam Áo), và quần đảo Spratlys (Trường Sa) đều được ghi chép.31
Với bước tiến của các nước Âu Châu vào hải phận Á Châu, cũng như để đào sâu kiến thức về mậu dịch ngoại quốc xuyên đại dương (và như một kết quả trực tiếp của các chiến dịch quân sự của hoàng đế Càn Long tại Miến Điện và chống người Miao (Mèo) tại vùng Tây Nam Trung Hoa), các nhà cầm quyền Mãn Châu đã biểu lộ sự chú ý ngày càng gia tăng đến Biển Nam Trung Hoa. Quyển Hải Lục, được viết trong giai đoạn chuyển tiếp giữa thời trị vì của vua Gia Khánh (Jiaqing嘉慶) và Đạo Quang (Daoguang 道光) (1820-1821), nói rằng có hai tuyến đường mậu dịch tại Biển Nam Trung Hoa chạy từ Quảng Đông đến Batavia thuộc Ấn Độ Hòa Lan (Dutch Indies) [tức Indonesia ngày nay, chú của người dịch] – một “nội tuyến: inner route” và một “ngoại tuyến: outer route”.32 Trong tập sách này, tác giả Tạ Thanh Cao cũng ghi chép về Vạn Lý Trường Sa (Quần Đảo Paracels – Hoàng Sa) và Thiên Lý Thạch Đường (Quần Đảo Spratlys – Trường Sa),33 trong đó quần đảo Paracels có tác dụng như một điểm tham chiếu cho tuyến đường bên trong ven biển, tương đối an toàn nhưng dài, và nhóm đảo Spratlys như một điểm tham chiếu cho tuyến đường bên ngoài ngắn hơn, nhưng nguy hiểm hơn.
Khoảng một trăm năm sau khi quyển Hải Quốc Văn Kiến Lục ra đời, tác giả nổi tiếng Ngụy Nguyên có ghi chép các địa điểm tương tự trong tác phẩm lừng danh của ông, Hải Quốc Đồ Chí. Một lần nữa, các vùng hàng hải được sắp xếp thành các đại dương theo các hướng khác nhau: Tây Dương, Đại Tây Dương, Tây Nam Dương, Tiểu Tây Dương, và Biển Đại Nam (Greater Southern Sea), trong số nhiều danh xưng khác. Trong tác phẩm của Ngụy Nguyên, Đông Dương, bao gồm Biển Nam Trung Hoa (South China Sea), Biển Đông Trung Hoa (Eastern China Sea), và các Biển Hoàng Hải (Yellow Sea) và Bố Hải (Bohai Sea), được xem như một thực thể duy nhất, khác biệt với Đại Đông Dương (Greater Eastern Ocean) ở phía đông của quần đảo Nhật Bản và Phi Luật Tân.34 Khi đó, rõ ràng là cả Hải Quốc Văn Kiến Lục và Hải Quốc Đồ Chí đều đã nhắc lại ý tưởng về một sự phân chia Đông-Tây, vốn đã được đưa ra trong các nguồn tài liệu thời tiền Minh.
Trong thời nhà Thanh, hai quần đảo chính tại Biển Nam Trung Hoa cũng được đánh dấu trên một vài bản đồ. Ngay đến tên của các nhóm đảo này không hoàn toàn đồng nhất, nhóm Paracels (quần đảo Hoàng Sa) vẫn còn được xác định là Vạn Lý Trường Sa trong phần lớn bản đồ thế kỷ thứ mười tám, trong khi nhóm Spratlys (quần đảo Trường Sa) được gọi là Thiên Lý Thạch Đường hay đơn giản là Thạch Đường. Tuy nhiên, việc khảo sát nhiều bản đồ cho thấy rõ ràng rằng địa điểm đích xác của cả hai quần đảo thường xuyên bị thay đổi, và rằng những miêu tả về các hòn đảo và rạn san hô thì trừu tượng một cách đáng ngạc nhiên.Thí dụ, trong bản đồ thế giới của quyển Hải Lục, cả hai nhóm Paracels (Hoàng Sa) và Spratlys (Trường Sa) đều được mô tả là thẳng góc với bờ biển Trung Hoa. Tuy nhiên, bản đồ trong các tác phẩm khác, chẳng hạn như quyển Hải Quốc Văn Kiến Lục, Dương Hoàn Chí Lược và Hải Quốc Đồ Chí, cho thấy các hòn đảo này song song với đất liền.35
Trong các nguồn tài liệu địa phương thời nhà Thanh, kiến thức địa dư về phần phía bắc của Biển Nam Trung Hoa khá chi tiết, nhưng những miêu tả về các địa điểm xa hơn, chẳng hạn như Paracels (Hoàng Sa) và Spratlys (Trường Sa), thì không rõ ràng gì cả. “Nam Hải” (Southern Sea) được nhìn nhận một cách điển hình như một biển duyên hải trong các tác phẩm này. Các khu vực duyên hải được mô tả tường tận, nhưng các ghi chép về các hải phận sâu hơn thì mơ hồ. Trong thực tế, các sách lịch sử địa phương Quảng Đông dường như chỉ nhắc lại các tài liệu ghi chép trước thời nhà Thanh khi đề cập tới các tên gọi và vị trí của Paracels và Spratlys cùng khoảng cách giữa chúng và đất liền.36 Khi thảo luận về các tuyến đường biển của các thuyền buồm và các thương thuyền Âu Châu, các tài liệu này quan tâm nhiều nhất đến việc ghi chú các địa điểm duyên hải liên quan đến sự hải hành ven bờ biển. Các tài liệu này không đưa ra cái nhìn thấu đáo nào về các tuyến đường biển nước xanh, và chỉ miêu tả rất mơ hồ về các hòn đảo này, vốn được xem là những nơi cực kỳ nguy hiểm cho các kẻ bạo gan dám lái thuyền ra khơi xa.37
Tuy nhiên, việc phân tích một số nguồn tài liệu địa phương cho thấy một sự ý niệm hóa đáng chú ý về các khu vực hàng hải. Quyển Hải Nam Địa Phương Chí năm 1841 phân chia “Nam Hải” khổng lồ thành một vành đai biển duyên hải nơi những chiếc thuyền tham gia vào các hoạt động liên hải cảng; một vành đai liền mạch của các hải phận nước cạn; một khu vực sâu hơn, được gọi là đại dương bên trong (inner ocean); và một đại dương vòng ngoài mênh mông, hay biển cả bao la. Sự phân chia này rõ ràng được định ra để thông báo cho các thủy thủ về các tuyến đường lưu thông an toàn, và để tạo điều kiện cho việc vận chuyển hàng hải và các hoạt động đánh cá.38 Tổng kết lại, các nguồn tài liệu tiêu biểu thời nhà Thanh này đã mô tả Biển Nam Trung Hoa và các giới hạn của nó một cách tương đối rõ ràng, thường nhắc lại các tác phẩm trước đó. Tuy nhiên, chúng đã không hề thảo luận chi tiết về các đảo và quần đảo của biển này. Mặt khác, các tài liệu địa phương đã phân chia biển Nam Trung Hoa thành các vùng gần và xa bờ biển, nhằm hướng dẫn thủy thủ nơi nào nên lái thuyền và nơi nào không nên mạo hiểm.39
Kiến thức hàng hải và sự kiểm soát chính trị
Điều quan trọng cần ghi nhớ là có một sự khác biệt đáng kể giữa việc có kiến thức địa dư về các khu vực hàng hải với việc kiểm soát và quản trị tài nguyên và các đối tượng sinh sống tại những khu vực đó. Sau các cuộc du hành nổi tiếng thời nhà Minh và xuyên suốt triều nhà Thanh, các thẩm quyền trung ương và Quảng Đông đã có một số quyền kiểm soát đối với một khu vực hàng hải duyên hải tương đối hẹp cùng các hòn đảo lân cận của nó tại “Nam Hải”, chứ không ở các vùng nước xanh. Sau các chuyến du hành của Trịnh Hòa, một vài thay đổi về quân sự, kinh tế và xã hội cuối cùng cũng đã khiến cho việc kinh doanh hàng hải Trung Hoa phải dừng lại, khởi đầu bằng sự chấm dứt sức mạnh hải quân của nước này.40 Trong thực tế, trong khi những chuyến du hành của Trịnh Hòa được xem là đỉnh cao quyền lực của Trung Hoa trên các tuyến đường biển,41 chúng cũng được xem như cái kết của lịch sử hải hành đại dương của Trung Hoa.
Trong thời nhà Minh, có hai yếu tố quan trọng cần xem xét nếu muốn hiểu về chính sách biên cương duyên hải mà chính quyền thực thi, cuối cùng đã không lưu ý đến lĩnh vực hàng hải. Yếu tố thứ nhất là các thương gia tư nhân Trung Hoa vẫn tiếp tục tham gia vào các hoạt động kinh tế bên ngoài khuôn khổ mậu dịch triều cống cổ truyền. Vào thời kỳ Trịnh Hòa thực hiện các cuộc du hành, người ta tin rằng các thương nhân Trung Hoa đang sử dụng các tuyến đường mậu dịch của Biển Nam Trung Hoa, trong khi các nhà buôn Java, Mã Lai, Gujarati và Ả Rập cũng thường xuyên lái thuyền trên các tuyến đường mậu dịch phía bắc và tây nam.42 Các yếu tố còn lại là các hoạt động thổ phỉ và nạn hải tặc, cả trong nội địa lẫn từ Nhật Bản (và, trong thời nhà Thanh, cả từ Hà Lan) tại các vùng duyên hải của Trung Hoa. Hai yếu tố này, vốn cùng nằm trong một vấn đề chung là nạn buôn bán phi pháp, sau cùng đã buộc chính quyền phải thi hành các chính sách phòng thủ biên cương nghiêm ngặt dọc theo các bờ biển.
Tới thời sơ Minh, có ba biện pháp kiểm soát biên cương hàng hải đã được thi hành: củng cố các trạm quân sự, phối hợp các trạm này với giới thẩm quyền dân sự, và thiết lập các toán hải quân biệt phái. Chính sách phòng thủ hàng hải này chủ yếu nhắm đến hải tặc Wako Nhật Bản (Wokou 倭寇: Oa Khấu), những kẻ vốn hoành hành tại tất cả các bờ biển Biển Đông Hải (Eastern Sea) và Biển Nam Trung Hoa, thậm chí ảnh hưởng cả đến Đảo Hải Nam.43 Để đối phó với vấn đề này, chính quyền đã thi hành các biện pháp an ninh (ban đầu bao gồm cả việc đe dọa các nhà cầm quyền Nhật Bản) bằng cách ra lệnh cấm đoán mậu dịch đường biển tư nhân.44
Trong thời Hồng Vũ trị vì (1368-1398), chính quyền đã thiết lập thứ được gọi là hệ thống weisuo 衛所 vệ sở, các đồn quân sự được trú đóng bởi một giới quân nhân cha truyền con nối nhằm phục vụ việc tuần tra các vùng duyên hải. Các thẩm quyền trung ương cũng thiết lập nhiều đồn quân sự (zhai 寨 trại) và căn cứ hải quân (shuizhai 水寨: thủy trại). Trong thời sơ Minh, mười một quận quân sự ở Phúc Kiến và chín quận quân sự ở Quảng Đông đã được thiết lập tại các khu vực duyên hải, cùng lúc ba vành đai quân sự cho cả Phúc Kiến và Quảng Đông cũng được thiết lập. Như vậy, chính quyền đã cố gắng tổ chức phòng thủ duyên hải dọc theo vành đai trải dài từ phía bắc của Eo Biển Đài Loan đến đảo Hải Nam.45 Từ thập niên 1420, hệ thống vệ sở (weisuo) bắt đầu suy sụp và đã phải tái sắp xếp vào giữa thời nhà Minh để đối phó một cách hữu hiệu với những cuộc tấn công liên tục của Wako (oa khấu). Chính quyền đã thực hiện một vài thay đổi, bao gồm việc xóa bỏ chính sách gửi binh sĩ đi phục vụ tại các đồn điền (tuntian 屯田) trong khi tại ngũ.46
Lần đầu tiên chính quyền thi hành chính sách ngăn cấm hàng hải là vào năm 1374, khi ra lệnh đóng cửa Cơ Quan Quản Trị Hải Vận (shibosi 市舶司:Thị Bách Ty) ở Ningpo (Ninh Ba), Chaozhou (Triều Châu) và Quảng Châu.47 Nhà Minh cấm đánh cá tại các duyên hải,48 hạn chế kinh doanh vận chuyển hàng hải, thiết lập một hệ thống bảo vệ hàng hải và giám sát hải quân,49 và ra lệnh di dời dân chúng địa phương khỏi các vùng đất duyên hải và các hòn đảo (qian hai遷海 thiên hải).50
Quyết định di dân, một chính sách được tiếp tục phần lớn trong thời nhà Thanh nhằm ngăn chặn ảnh hưởng của Koxinga (Quốc Tính Gia) (Zheng Chenggong: Trịnh Thành Công) từ Đài Loan, đã gây ra những hậu quả nghiêm trọng đối với dân miền duyên hải và thực sự là một trong những yếu tố chính góp phần vào sự di cư của người Trung Hoa xuống Nanyang.51 Lệnh cấm hàng hải này về sau được bổ sung bằng một vài lệnh cấm khác vào các năm 1381, 1384, 1390, 1394 và 1397.52 Giữa thời nhà Minh, những lệnh cấm mới có hiệu lực vào các năm 1524 và 1533. Những lệnh cấm này chỉ được gỡ bỏ một phần vào năm 1567 đối với Phúc Kiến, như một sự đền bù cho người dân tỉnh đó vì đã trợ lực chống lại nạn hải tặc, giữ Yuegang (Nguyệt cảng 月港) thành một hải cảng mở ngỏ.53
Một lệnh cấm mới được tuyên bố vào năm 1656, không lâu sau khi các nhà cai trị Mãn Châu nắm giữ quyền hành. Chính sách này sau cùng đã phản tác dụng và biến nhiều người dân thành thổ phỉ (thậm chí trở thành thổ phỉ kiêm nông dân theo mùa), hay thành dân buôn lậu và hải tặc, và một lần nữa thôi thúc việc xuất cảnh sang Nanyang, một xu hướng vốn đã nổi rõ vào giữa thời nhà Minh.54 Tuy nhiên, như tác giả Wang Gungwu đã vạch ra, lệnh cấm này và các lệnh tiếp theo không có nghĩa là hoạt động mậu dịch thành ra bất khả thi, mà đúng hơn, biến nó thành “bất hợp pháp, bí mật, và phần lớn không được ghi chép lại”.55
Trong thời sơ Thanh, mậu dịch bất hợp pháp, nạn hải tặc, và những cuộc xâm nhập bạo động giữa thế kỷ mười sáu của người Âu Châu vào các khu vực duyên hải của Trung Hoa, tất cả đã khiến chính quyền trung ương theo đuổi một chính sách phòng thủ hàng hải tương tự như chính sách mà triều đại trước đã áp dụng. Hai mươi mốt đồn quân sự duyên hải đã được thiết lập tại Giang Tô, Chiết Giang, Phúc Kiến, và Quảng Đông, và ở những nơi khác, cũng như các nơi đóng quân thứ yếu trên bờ biển, bao gồm ở Chongming 崇明 (Sùng Minh), Dinghai 定海 (Định Hải), Jinmen 金門 (Kim Môn), Haitan海壇 (Hải Đàn), Qiongzhou 瓊州(Quỳnh Châu) và Nam Áo, tất cả đều nhằm trấn áp nạn hải tặc hoành hành tại Đông Hải và Biển Nam Trung Hoa.56 Tại Quảng Đông, từ lúc bắt đầu triều đại, chính quyền đã thiết lập các vòng cung tuần sát biên cương hàng hải và một lực lượng hàng hải phụ trách giám sát tổng cộng 5 nơi đóng quân để tuần tra các biển ở phương nam,57 mặc dù, khả năng cao nhất là, các vành đai như thế đã không vươn tới các đảo san hô.
Về lệnh cấm hàng hải, từ năm thứ 13 thời Thuận Trị – Shunzhi 順治 (1656) đến khi đảo Formosa bị thu hồi vào năm thứ 23 thời Khang Hi (1684), việc kinh doanh thương thuyền tư nhân và vận tải người bằng đường biển bị cấm đoán từ Sơn Đông (Shandong 山東) đến Quảng Đông.58 Tuy nhiên, chính sách bế quan tái tục này đã có hiệu ứng ngược với những gì xảy ra trước đó: nó cổ vũ việc hàng hóa và người dân Trung Hoa di chuyển ra hải ngoại xuyên qua Biển Nam Trung Hoa.59 Sau một thời kỳ nới lỏng, lệnh cấm hàng hải một lần nữa được áp đặt vào năm 1717, đặc biệt đối với tất cả các hoạt động mậu dịch với Nanyang.60
Các chính sách của nhà Minh về việc di chuyển dân chúng từ duyên hải vào các vùng đất nội địa cũng được tiếp tục trong thời nhà Thanh. Sau khi chính quyền ban hành chỉ dụ cấm đoán mới đối với các hoạt động hàng hải tư nhân vào năm 1656, các nhóm dân đông đảo vùng duyên hải đã bị di chuyển vào nội địa hay đến các tỉnh khác. Theo các quy định áp dụng cho các tỉnh Hà Bắc (Hebei 河北), Sơn Đông, Giang Tô, Chiết Giang, Phúc Kiến và Quảng Đông vào năm 1661, dân chúng sinh sống tại các khu vực duyên hải đã phải di chuyển sâu vào trong nội địa từ 30 đến 50 lí, chính vì thế tạo ra một vùng đệm nằm giữa các trại hải quân và dân chúng duyên hải. Quyết định này, một lần nữa, là một trong các yếu tố đẩy mạnh sự xuất cảnh ra hải ngoại của người Trung Hoa xuống vùng Nanyang.61
Hơn nữa, cho tới lúc các vị chúa tể Mãn Châu cai trị đế quốc Trung Hoa, các cường quốc Tây Phương đã kịp củng cố sự hiện diện của họ tại Đông Nam Á và Đông Á. Thậm chí người ta thấy rõ hơn rằng các giới thẩm quyền duyên hải Trung Hoa đã không có đòn bẩy để tuần tra các hải phận của Biển Nam Trung Hoa. Kể từ khi người Âu Châu bắt đầu các cuộc “khám phá” hồi cuối thế kỷ mười lăm, Biển Nam Trung Hoa đã thu hút sự chú ý của họ, khởi sự với việc Bồ Đào Nha xâm nhập Macau vào năm 1557, sau đó là sự chiếm đóng của người Hà Lan tại Amoy (Hạ Môn, Xiamen 廈門), Đài Nam (Tainan 臺南), và quần đảo Bành Hồ (Pescadores) vào đầu thế kỷ mười bẩy, và cả người Tây Ban Nha, những người đã đặt chân lên Manila năm 1570, và đảo Formosa năm 1626. Tới năm thứ 22 đời vua Càn Long (Qianlong 乾隆), chính quyền nhà Thanh đã quyết định giới hạn mọi hoạt động mậu dịch nước ngoài vào hải cảng Quảng Châu, nhằm kiểm soát sự trao đổi thương mại với các thương thuyền Âu Châu càng chặt chẽ càng tốt. Các hải cảng mở cửa khác cũng đã bị bế tỏa trong suốt thời cai trị của vua Khang Hi.62
Kết cuộc, sau 400 năm của hải lực Trung Hoa, từ nhà Tống, nhà Nguyên63 và đầu nhà Minh, sự tiến bước của người nước ngoài vào các đại dương lân cận, và một chính sách đóng cửa nội địa (cũng được hun đúc bằng những nỗi lo ngại gia tăng về biên cương phía bắc vào giữa thế kỷ mười lăm), đã biến Biển Nam Trung Hoa từ một “hồ nước Trrung Hoa” khổng lồ thành một “biển mở ngỏ”64 vượt quá tầm tay của chính quyền. Trong trọn thời nhà Minh đến cuối nhà Thanh, các ghi chép về những hoạt động do chính quyền quy định tại các quần đảo đã vắng bóng trong các nguồn tài liệu Trung Hoa, tượng trưng cho một sự im lặng thống nhất trong sử ký Trung Hoa.
(Xem tiếp Kỳ 2)