Mở đầu Phiên thảo luận cấp cao Đại hội đồng Liên hợp quốc khóa 80 (23/9/2025) tại Thành phố New York, Tổng thư ký Liên hợp quốc, ngài Antonio Guterres trong bài phát biểu thường niên về “Tình trạng thế giới”, đã chua xót nhận xét rằng “Chúng ta đã bước vào kỷ nguyên của những đổ vỡ liều lĩnh và đau khổ nhân loại triền miên,” mà ở đó “Những trụ cột của hòa bình và tiến bộ đang lung lay dưới sức nặng của sự dung túng, bất bình đẳng và thờ ơ”. Cũng theo ngài Tổng thư ký, chưa khi nào sự lựa chọn giữa hòa bình hay chiến tranh, pháp luật hay vô pháp, hợp tác hay xung đột đang trở nên “cấp bách hơn, đan xen hơn và khắc nghiệt hơn” bao giờ hết.

Nhận định của Ngài Tổng thư ký phản ánh một thực tế đau lòng mà nhân loại đang phải chứng kiến. Theo các báo cáo từ Hội đồng Quan hệ Đối ngoại Mỹ (CFR) và Nhóm Khủng hoảng Quốc tế (ICG), năm 2025 được đánh giá là một trong những năm bất ổn và “nguy hiểm nhất” kể từ Chiến tranh Lạnh, với số lượng điểm nóng chính nhiều trên hai con số và số lượng thương vong dân sự đạt kỷ lục và kèm theo đó là những hậu quả to lớn mà biết bao người dân vô tội phải gánh chịu. Tình hình đó đang nói lên điều gì?

Xung đột vũ trang gia tăng căng thẳng

Trước hết, điểm nổi bật của tình hình là tần suất của các cuộc xung đột vũ trang tại các khu vực tăng lên nhanh chóng, kéo dài và khốc liệt hơn. Sự xuất hiện ngày càng nhiều những điểm nóng mới cho thấy rõ hơn vai trò cũng như ý đồ chiến lược của các cường quốc, các nước lớn trên bàn cờ thế giới.

Tại châu Âu, chiến sự giữa Nga và Ukraine tiếp tục với cường độ cao, ngày càng leo thang về quy mô và tần suất. Cuộc chiến đã bước vào giai đoạn “chiến tranh drone” kết hợp với không kích hạ tầng và giao tranh bộ binh. Hai bên đều dồn hết tổng lực để tấn công và tàn phá các cơ sở trọng yếu của nhau như sân bay, kho đạn, cầu đường, hệ thống đường sắt, bến cảng, trung tâm hậu cần, các nhà máy sản xuất, các cơ sở lọc dầu cũng như vào các đoàn tàu chở dầu… đã gây tổn hại rất lớn cho cả hai bên.

Tình hình càng trở nên căng thẳng tột độ khi có thông tin các UAV của Nga xâm phạm không phận một số quốc gia thành viên Nato như Ba Lan, Rumani. Phía Nga đã phủ định việc này. Sự kiện trên đây được coi là rất nguy hiểm và điển hình nhất về sự căng thẳng trực tiếp giữa Nga – NATO. Ba Lan đã buộc phải kích hoạt Điều 4 Hiệp ước NATO, dẫn đến hội nghị khẩn cấp của NATO về an ninh cũng như huy động các lực lượng không quân của Đức, Italia đến giúp Ba Lan.

Ba Lan đã yêu cầu kích hoạt Điều 4 của NATO vào đầu tháng 9/2025, sau khi bắn hạ nhiều máy bay không người lái mà nước này cho rằng đã “xâm phạm trái phép” không phận Ba Lan. Hình ảnh Thủ tướng Ba Lan Donald Tusk trong cuộc họp khẩn ngày 10/9/2025. Ảnh: AFP

Chủ tịch Ủy Ban châu âu cáo buộc Nga “đang tiến hành cuộc chiến tranh hỗn hợp” chống lại NATO và tuyên bố “khả năng bắn hạ máy bay Nga xâm nhập không phận NATO chắc chắn là một phương án được cân nhắc”. Một số quốc gia EU yêu cầu xây “bức tường UAV” tại biên giới phía đông của EU nhưng chưa đạt được sự nhất trí.

Mọi hy vọng nhỏ nhoi về một giải pháp hòa bình, mới được nhen nhóm kể từ cuộc gặp thượng đỉnh Trump – Putin tại Alaska hồi tháng 8 vừa qua đã bị dập tắt hoàn toàn khi chính quyền Trump thay đổi quan điểm 180 độ, công khai tuyên bố sẽ trừng phạt Nga rất nặng nề nếu Nga không nhanh chóng tiến tới chấm dứt cuộc xung đột này.

Tại Trung Đông, cuộc xung đột vũ trang tại dải Gaza kéo dài đã hai năm. Giới quan sát đánh giá đây là một cuộc chiến “leo thang đa mặt trận” với nguy cơ lan rộng cao chưa từng có. Israel đã không kích, tấn công các cơ sở hạt nhân của Iran, làm chết nhiều tướng lĩnh và các nhà khoa học Iran; không kích Li Băng “để tiêu diệt Hezbollah”, ủng hộ lực lượng đối lập để gây sức ép tấn công Syria “vì thân Iran”; không kích Yemen “vì nuôi dưỡng Houthi”. Iran trả đũa cách bằng tấn công căn cứ Mỹ ở Qatar. Hơn 5 triệu người dân đã phải di tản khỏi Gaza và Li Băng. An ninh vùng Vịnh bị đe dọa nghiêm trọng.

Tình hình đặc biệt leo thang nghiêm trọng khi Israel tiến hành không kích Thủ đô Doha của Qatar tháng 9/2025 với lý do tấn công vào Lãnh đạo Hamas. Qatar đã coi vụ không kích này là một “cuộc khủng bố nhà nước”và Liên hợp quốc đã lên án Israel vi phạm các quy tắc ngoại giao. Đây là một sự kiện gây chấn động bởi lần đầu tiên Israel trực tiếp tấn công lãnh thổ một quốc gia có chủ quyền thuộc GCC (Hội đồng Hợp tác Vùng Vịnh) và điều khó hiểu là Mỹ không có phản ứng như cần phải có khi Mỹ là quốc gia ký với Qatar đảm bảo an ninh cho nước này.

Israel ném bom vào một tòa nhà tại thủ đô Doha của Qatar nhằm ám sát ban lãnh đạo cấp cao của Hamas, ngày 9/9/2025. Ảnh: Ibrahim Abu Mustafa/Reuters

Tin vui cho thế giới là lệnh ngừng bắn tại Dải Gaza đã chính thức có hiệu lực từ 10/10/25 nhưng tình hình vẫn diễn biến rất phức tạp và đầy bất ngờ. Lực lượng Phòng vệ Israel (IDF) bắt đầu rút khỏi một số khu vực song vẫn kiểm soát 53% Dải Gaza, phần lớn nằm ngoài khu vực đô thị. Để đi đến một thỏa thuận đem lại hòa bình cho Dải Gaza cần phải có thời gian giải quyết mâu thuẫn giữa các quốc gia có liên quan.

– Tại khu vực Trung Mỹ La tinh, đó là sự căng thẳng tột độ trong quan hệ giữa Mỹ và Venezuela. Đây đang trở thành một điểm nóng mới khi quân đội Mỹ tăng cường sự hiện diện quân sự với sự có mặt của các tàu khu trục của Hải quân, tàu ngầm hạt nhân… và gần 5.000 quân nhân để bao vây lãnh thổ Venezuela với lý do tiêu diệt các băng nhóm ma túy. Quân đội Mỹ đã tấn công và phá hủy, tiêu diệt một số tàu của Venezuela tại vùng biển này.

Trên thực tế, theo Luật pháp Mỹ, quân đội không có chức năng đấu tranh với tội phạm, chính vì thế dư luận đang đặt ra câu hỏi về mục tiêu sâu xa, cao hơn việc trấn áp tội phạm ma túy khi Mỹ tăng cường một lực lượng quân sự lớn như vậy để bao vây lãnh thổ Venezuela. Hơn nữa họ còn treo giải thưởng 50 triệu đô la cho bất kỳ ai bắt giữ được Tổng thống Nicolas Maduro.

Tại châu Á, tình hình an ninh cũng đặt ra nhiều yếu tố rất đáng lo ngại khi xuất hiện những điểm nóng xung đột vũ trang mới gây ra căng thẳng không nhỏ trong khu vực.

Trước hết tại Đông Bắc Á và Biển Đông, tình hình cũng đang dậy sóng với nguy cơ xung đột mới khi giữa Trung Quốc và Philippines liên tục có va chạm trên biển. Căng thẳng giữa Trung Quốc và Đài Loan tiếp tục tăng cao. Trung Quốc tăng cường các hoạt động quân sự “diễn tập chuẩn bị cho  tương lai” khi phong tỏa các khu vực và các tuyến đường biển trọng điểm, tạo sức ép lớn với Đài Loan. Về phần mình, Đài Loan đã có những phản ứng mạnh mẽ và yêu cầu Mỹ tăng cường hỗ trợ vũ khí (gói 2 tỷ USD tháng 8/2025). Các đồng minh Mỹ như Úc, Anh, Canada và Nhật Bản cũng đã điều động tàu chiến để “đối phó với Trung Quốc” và gia tăng các hoạt động tại khu vực này.

Tình hình đang ở mức độ cảnh báo cao khi nguy cơ va chạm, xung đột vũ trang có thể xảy ra bất cứ khi nào, nếu một trong các bên thiếu kiềm chế và cũng đặc biệt nguy hiểm khi Hiệp ước phòng thủ Mỹ-Đài Loan được kích hoạt…

Tại Đông Nam Á, theo tin đưa, tình hình Myanmar có nhiều dấu hiệu ngày càng xấu đi khi lực lượng quân đội và lực lượng nổi dậy Chin xung đột ác liệt; sự kiện bạo lực tăng 25% so với 2024, gây ra gánh nặng di cư lớn, ảnh hưởng an ninh Đông Nam Á.

Cuộc xung đột biên giới bùng nổ trở lại giữa hai nước thành viên ASEAN là Thái Lan và Campuchia đã làm sống dậy những tranh chấp lịch sử có từ lâu đời. Tuy chưa xảy ra chiến tranh nhưng đã gây tử vong và buộc hơn 300.000 dân thường phải sơ tán, đình trệ mọi hoạt động thương mại. Cuộc xung đột này đã được ví như một vết cắt khó lành trong quan hệ song phương giữa hai quốc gia ASEAN và tiềm ẩn nguy cơ dẫn đến sự can thiệp của các cường quốc bên ngoài, làm gia tăng căng thẳng an ninh khu vực Đông Nam Á và suy giảm sự đoàn kết trong ASEAN.

Chiến tranh kinh tế dưới nhiều dạng thức

Các biện pháp tăng thuế nhập khẩu, trừng phạt kinh tế, cắt đứt hoặc làm gián đoạn chuỗi cung ứng, tấn công hệ thống tiền tệ và tài chính, tung tin giả.. đã làm trầm trọng hóa kinh tế toàn cầu.

Trước hết và điển hình là chính sách áp đặt mức thuế quan cao như  rào cản thương mại của chính quyền Trump. Chính sách này đã gây ra những tác động tiêu cực rộng khắp và đẩy tình hình kinh tế, thương mại toàn cầu rơi vào trạng thái căng thẳng tột độ. Vừa qua chính quyền Trump thông báo sẽ áp thuế bổ sung 100% với hàng hóa Trung Quốc, liên quan đến vấn đề Bắc Kinh hạn chế xuất khẩu đất hiếm.

Quyết định này không chỉ nhằm vào các đối thủ mà còn nhằm vào cả các nước bạn bè, đồng minh của Mỹ như EU, Canada, Nhật Bản hoặc Hàn Quốc. Nhiều quốc gia phải có những bước nhượng bộ lớn, ví dụ Nhật Bản bị yêu cầu cam kết đầu tư 550 tỷ và Hàn Quốc là 350 tỷ đô la vào Mỹ.

Tuy nhiên, thay vì củng cố vị thế, chính sách thuế quan mới đã làm cho nước Mỹ bị cô lập hơn khi làm mất lòng tin khiến nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó có cả các nước đồng minh đã tìm mọi cách để đối phó với Mỹ. Nhiều quốc gia đã tập hợp xung quanh khối BRICS do Trung Quốc và Nga lãnh đạo, thúc đẩy hơn nữa quá trình phi đô la hóa.

Chính sách áp đặt mức thuế quan cao như rào cản thương mại của chính quyền Trump đã gây ra nhiều tác động tiêu cực cho nền kinh tế, thương mại toàn cầu. Hình minh họa

Bản thân nước Mỹ cũng bị thiệt hại đáng kể, chi phí nhập khẩu tăng, khả năng cạnh tranh giảm, giá cả tăng vọt và xuất khẩu giảm rõ rệt. Mặt khác đã gây lạm phát và ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế toàn cầu. Trật tự thương mại toàn cầu bị tác động mạnh. Cuộc chiến thương mại Mỹ – Trung đã làm giảm tăng trưởng GDP Mỹ từ 2,8% (2024) xuống 1,4% (2025 dự báo) và eurozone xuống 0,7…

– Việc Mỹ và phương Tây tiếp tục tiến hành trừng phạt kinh tế với Nga thông qua việc áp đặt các lệnh cấm vận, trong đó có cả duy trì cấm vận tài chính qua hệ thống thanh toán SWIFT, đã gây ra những hậu quả nặng nề. Đỉnh điểm là vừa qua chính quyền Trump đã quyết định áp thuế bổ sung 25% lên hàng hóa từ Ấn Độ và các nước “không thân thiện” khi tiếp tục thực hiện các giao dịch với Nga (cao đến 50% trong một số trường hợp) nhằm giảm nguồn thu dầu khí từ Nga.

Tháng 9/2025 Liên minh châu Âu (EU) đã thông qua gói trừng phạt thứ 19, gia hạn các lệnh trừng phạt kinh tế đối với Nga đến tháng 1/2026, tập trung vào lĩnh vực năng lượng, tài chính và xuất khẩu công nghệ cao hỗ trợ quân sự với mục tiêu làm suy yếu Nga.

Chính những biện pháp trừng phạt, cấm vận trên đã làm chậm tăng trưởng châu Âu và tăng rủi ro địa chính trị. Các nước châu Âu hoàn toàn không thoát được nguồn cung năng lượng của Nga, buộc phải phụ thuộc và mua khí hóa lỏng LNG và dầu mỏ của Mỹ với giá rất cao. Mỹ đang là quốc gia được hưởng lợi nhiều nhất trong khi đó châu Âu lại đối mặt với rất nhiều thách thức khi sản xuất bị đình trệ, đời sống khó khăn, giá cả tăng vọt, khó khăn chồng chất khó khăn.

Theo thông tin, kể từ năm 2016 Nga đã mất khoảng 170 tỷ USD từ các lệnh trừng phạt, tuy nhiên nước Nga vẫn ổn định, có những giai đoạn đạt tăng trưởng cao. Nga chủ động thích nghi bằng cách chuyển hướng thị trường xuất khẩu năng lượng sang Ấn Độ và Trung Quốc. Nga phản công bằng cách tuyên bố sẽ quốc hữu hóa hoặc tịch thu tài sản của các công ty phương Tây, tịch thu hơn 400 máy bay thuộc sở hữu nước ngoài mà Nga đã thuê. Đây là một đòn giáng mạnh vào phương Tây khiến khối này bị động.

Lượng gas nhập khẩu vào EU theo các nguồn cung cấp khác nhau (đơn vị: tỉ mét khối). Nguồn: Ủy ban châu Âu

Một biện pháp nữa đó chính là làm gián đoạn chuỗi cung ứng: Nhiều quốc gia đã sử dụng các biện pháp như hạn chế xuất khẩu nguyên liệu thô, năng lượng, hoặc hàng hóa chiến lược để gây áp lực lên chuỗi cung ứng toàn cầu. Xung đột Trung Đông (như chiến tranh Israel – Iran) làm gián đoạn tuyến vận tải qua kênh Suez, tăng chi phí vận chuyển và giá hàng hóa. Nga hạn chế xuất khẩu khí đốt sang châu Âu, buộc EU tìm nguồn thay thế và làm chậm chuyển đổi năng lượng xanh.

Hệ quả của chính sách cấm vận trên chính là chuỗi cung ứng toàn cầu bị ảnh hưởng nặng nề đặc biệt trong lĩnh vực nguyên liệu, khoáng sản và kim loại, thiếu hụt hàng hóa (như ngũ cốc, phân bón từ Nga), và tăng chi phí sản xuất. Giá dầu tăng 17% lên 80 USD/thùng trong xung đột Israel – Iran đầu 2025.

Một biểu hiện nữa của chiến tranh kinh tế chính là tấn công tiền tệ và tài chính thông qua thao túng tiền tệ, làm suy yếu đồng nội tệ của đối thủ, hoặc áp đặt các biện pháp kiểm soát vốn. Những biện pháp trừng phạt Nga đã hạn chế khả năng sử dụng đồng đô la và đồng euro trong giao dịch, buộc Nga chuyển sang dùng đồng rúp hoặc các đồng tiền khác như nhân dân tệ.

Bên cạnh việc gây bất ổn tài chính, còn làm giảm niềm tin vào thị trường và hạn chế khả năng tiếp cận vốn quốc tế của quốc gia bị nhắm đến thông qua các cuộc tấn công mạng vào hệ thống tài chính hoặc thị trường chứng khoán và gây rối loạn kinh tế.

Và điểm cuối cùng được các quốc gia sử dụng trong cuộc chiến tranh kinh tế, đó là sử dụng các hình thức tuyên truyền và chiến tranh thông tin: Việc tung tin giả, sử dụng truyền thông, như lan truyền thông tin giả về bất ổn tài chính hoặc khủng hoảng để làm suy yếu niềm tin vào nền kinh tế đối thủ thường đạt hiệu quả cao và gây thiệt hại đáng kể cho đối phương. Ví dụ các chiến dịch truyền thông từ bên trong cuộc xung đột Nga – Ukraine hoặc Trung Đông đã tác động không nhỏ, làm sụt giảm mạnh đầu tư toàn cầu do đã gây hoảng loạn thị trường và làm suy yếu lòng tin của nhà đầu tư.

Những yếu tố trên đã tương tác lẫn nhau, tạo ra rủi ro địa chính trị cao nhất năm 2025 theo S&P Global. World Bank dự báo tăng trưởng toàn cầu giảm xuống 2,3% cho năm 2025, thấp hơn mức 2,8% của năm 2024. Các cường quốc như Mỹ, EU, và Trung Quốc, đều đối mặt với suy giảm xuất khẩu và chi phí năng lượng tăng. Các nền kinh tế phụ thuộc vào năng lượng hoặc hàng hóa từ Nga và Trung Đông chịu ảnh hưởng nặng nề nhất. GDP của Dải Gaza giảm 83%, Israel tăng trưởng yếu nhất từ đầu những năm 2000, và châu Âu đối mặt với lạm phát cao hơn do giá năng lượng tăng đột biến.

Từ những diễn biến trên của tình hình thế giới, chúng ta có thể rút ra một số nhận xét sau đây:

–  Trước hết, những cuộc xung đột vũ trang hoặc những dấu hiệu của các cuộc xung đột vũ trang cho thấy tình trạng bất ổn hiện nay không còn giới hạn trong các quốc gia hay một khu vực mà đang lan rộng khắp toàn cầu. Xung đột không chỉ gây ra những thiệt hại trực tiếp tại chiến trường mà kéo theo nó là cuộc chạy đua vũ trang bị đẩy lên mức báo động đỏ khi việc tính toán sử dụng các vũ khí hạng nặng, tân tiến, vũ khí hạt nhân, tên lửa siêu thanh và các loại vũ khí hủy diệt hàng loạt đang trở thành mối quan tâm hàng đầu, lọt vào tầm ngắm của các nước lớn từ Mỹ, Nga ,Trung Quốc đến Triều Tiên, Iran và Pakistan, Ấn Độ.

Hai , tình hình địa chính trị, địa kinh tế toàn cầu đang bị chi phối và tác động mạnh mẽ bởi các quyết định cũng như sự cạnh tranh địa chính trị của các cường quốc và nước lớn vì với sức mạnh và tiềm lực lớn, chính họ luôn giữ vai trò áp đảo trong các mối quan hệ quốc tế.

Sự chuyển hướng và điều chỉnh chính sách đối ngoại, thuế quan, an ninh quốc phòng… của chính quyền Trump 2.0 trong gần một năm qua đã làm chao đảo thế giới. Với chính sách “Nước Mỹ trên hết”, thay vì thể hiện cam kết mạnh mẽ với đồng minh thì chính quyền Trump đã cho thấy họ không mặn mà gì trong việc bảo vệ đồng minh, mà chỉ định vị mình như một bên trung gian. Chính điều này cũng đã góp phần vào việc tạo khoảng trống quyền lực, làm tăng rủi ro từ các mối đe dọa như khủng bố nội địa, xung đột vũ trang và an ninh mạng.

Mỹ cho thấy họ sẽ tách dần khỏi Ukraine để tập trung giải quyết ở những khu vực khác như ở Trung Đông hoặc ở Trung Nam Âu và Đông Nam Á, những nơi sẽ đem lại nhiều lợi ích hơn cho Mỹ và ở đó Mỹ có thể thiết lập một vị trí cao hơn. Nhiều nhà quan sát cho rằng Mỹ đã thành công khi đã chuyển giao cuộc chiến Ukraine cho EU và trở thành bên bán, cung cấp vũ khí nhiều nhất cho EU và Ukraine. Mỹ sẽ giảm bớt việc triển khai lực lượng và tài trợ quân sự của Mỹ tại châu Âu, tập trung vào các ưu tiên chiến lược ở khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương và cạnh tranh với Trung Quốc.

Sự thay đổi lập trường thường xuyên và khó định đoán của chính quyền Trump cho thấy họ đã tính toán các bước đi một cách kỹ lưỡng và đầy thực dụng. Mỹ tránh đối đầu trực diện với Nga nhưng lại kiểm soát hướng đi của cuộc chiến Ukraine, thao túng cục diện, thúc đẩy NATO và EU tăng cường mua vũ khí của Mỹ để viện trợ cho Ukraine.

Trong chiến lược mới của Trump, NATO chỉ được coi như một công cụ để Mỹ thực hiện mục tiêu là “Lá chắn chiến lược”, qua đó giảm các cam kết trực tiếp và yêu cầu EU tự chủ, tự chịu trách nhiệm chính trong việc duy trì an ninh tại khu vực châu Âu.

Chính điều đó đã đẩy quan hệ giữa Mỹ và EU cũng xuống cấp rõ rệt. Các quốc gia EU ngày càng nhận thức rõ “thâm ý” của Mỹ, rằng nước Mỹ sẽ không còn giữ vai trò là chiếc ô bảo hộ an ninh cho EU và EU sẽ phải độc lập và tự chủ chiến lược an ninh quốc phòng.

Ba là, những cuộc cạnh tranh địa chính trị giữa các cường quốc ở mức độ và tầm vóc lớn chính là nguyên nhân dẫn đến sự chia rẽ và phân mảng địa chính trị. Trật tự toàn cầu đang có sự thay đổi sâu sắc khi thế giới đang và sẽ chuyển sang một trật tự đa cực mà Mỹ và Trung Quốc là trung tâm.

Trong trật tự đa cực này sẽ xuất hiện các “liên minh mới” hay các “khối mới” mang tính chất linh hoạt hơn. Những chuyển động địa chính trị liên quan đến Tổ chức BRICS cũng như SCO (Tổ chức Hợp tác Thượng Hải) đã cho thấy rõ hơn vai trò nổi bật của Nga và Trung Quốc. Đặc biệt Trung Quốc đang nổi lên như một trung tâm quyền lực mới cả về kinh tế, chính trị, quân sự, khoa học kỹ thuật cao và cũng là nơi kết nối các khu vực Á – Âu – Phi – Mỹ La tinh với nhiều sáng kiến toàn cầu có giá trị.

Đây sẽ là một “trục“ mới ở phương Đông, đủ sức để tập hợp lực lượng, tạo thành sức mạnh kinh tế, chính trị, khoa học kỹ thuật thách thức Mỹ và phương Tây. Sự lớn mạnh cũng như sự tập hợp lực lượng ngày càng đông đảo, nhanh chóng một cách bất ngờ trong thời điểm vừa qua cho thấy các quốc gia vừa và nhỏ đang có nhu cầu mạnh mẽ tìm một “điểm tựa” trong việc lựa chọn hướng đi phù hợp.

Một điểm đáng chú ý khác chính là sự hợp tác giữa Nga, Iran và Triều Tiên cũng là một ví dụ cho sự thách thức trật tự do phương Tây dẫn dắt, nó có thể mở rộng thành các khối “chống” lại phương Tây. Trong khi đó ở châu Phi và Mỹ Latinh sẽ hình thành các liên minh khu vực để tranh thủ lợi ích từ các bên…

Tình hình địa chính trị, địa kinh tế toàn cầu đang bị chi phối mạnh mẽ bởi các quyết định cũng như sự cạnh tranh địa chính trị của các nước lớn. Hình minh họa

Bên cạnh đó, nhiều nhận định cho rằng chính các cuộc xung đột như Ukraine và Trung Đông cũng sẽ là cơ hội cho việc thúc đẩy việc hình thành “các liên minh lỏng lẻo” với sự tham gia của các tác nhân phi nhà nước (như các tổ chức phi chính phủ, các nhóm kháng chiến Hồi giáo…) để phục vụ một mục tiêu ngắn hạn nào đó.

Bốn là, trong tương lai sự phân mảnh kinh tế và công nghệ cùng với sự cạnh tranh về an ninh, công nghệ cao như AI, bán dẫn, máy tính lượng tử và chuỗi cung ứng sẽ là những yếu tố cơ bản chi phối và tập hợp lực lượng và sẽ trở thành “biên giới địa chính trị mới” giữa các “khối mới”. Các liên minh công nghệ đang phân hóa thành hai khối chính: một bên do Mỹ dẫn dắt (với đồng minh châu Âu và châu Á – Thái Bình Dương), và bên kia do Trung Quốc đứng đầu.

Xu hướng tập hợp lực lượng sẽ tập trung vào các liên minh kinh tế khu vực, với sự gia tăng của xu thế “chuyển chuỗi cung ứng sang đồng minh chính trị” và “gần hóa sản xuất”. Ví dụ, Mỹ đang đa dạng hóa khỏi Trung Quốc, tăng cường quan hệ với Mexico, ASEAN (đặc biệt là Việt Nam) và châu Âu.

Xu hướng này sẽ có thể dẫn đến sự tập hợp các lực lượng mới xung quanh “các cường quốc trung bình” như Ấn Độ, Brazil, Indonesia, Saudi Arabia, UAE, Thổ Nhĩ Kỳ và Nam Phi. Những nước này sẽ đóng vai trò trung gian, cân bằng giữa Mỹ và Trung Quốc thông qua các thỏa thuận thương mại và đầu tư, đồng thời thúc đẩy việc phi đô la hóa, giảm phụ thuộc vào đô la Mỹ qua BRICS và SCO khi mở rộng việc áp dụng hệ thống thanh toán thay thế.

Tuy nhiên chính chính sự cạnh tranh này sẽ dẫn đến rủi ro chiến tranh thương mại và quân sự cao hơn, tăng rủi ro sự phân mảnh toàn cầu, với các trung tâm đầu tư mới nổi như Dubai và Singapore.

Cuối cùng là, trong thời điểm thế giới cần sự quyết đoán và hành động quyết liệt của tổ chức đa phương lớn nhất thế giới là Liên hợp quốc thì rất đáng tiếc, vai trò của tổ chức này mờ nhạt hơn bao giờ hết. Liên hợp quốc  đang đối diện với nguy cơ bị chia rẽ và bất đồng sâu sắc. Luật pháp quốc tế hầu như không còn giá trị khi những cuộc xung đột vũ trang, bạo loạn tiếp tục xảy ra.

Liên hợp quốc vẫn là tổ chức không thể thay thế trong việc phối hợp toàn cầu, nhưng hiệu quả bị hạn chế bởi cấu trúc lỗi thời và căng thẳng địa chính trị. 5 thành viên thường trực (P5 – Mỹ, Nga, Trung Quốc, Pháp, Anh) có quyền phủ quyết đã dẫn đến tê liệt trong các khủng hoảng lớn như Ukraine (Nga phủ quyết), Gaza (Mỹ phủ quyết) và Syria (Nga và Trung Quốc phủ quyết). Các cường quốc sẽ tiếp tục định đoạt số phận thế giới. Vai trò của Liên hợp quốc trong an ninh và phát triển bền vững đang suy giảm, nhường chỗ cho các tổ chức khu vực như Liên minh châu Phi hoặc NATO ngày càng đóng vai trò thay thế…

Từ tất cả những chuyển biến trong thời gian qua chúng ta có thể thấy rằng thế giới đa cực đã xuất hiện và đang bước vào giai đoạn đối đầu mạnh mẽ giữa Mỹ, phương Tây với Trung Quốc, Nga và đa số các nước ở Nam Bán cầu. Cuộc cạnh tranh này sẽ không dừng lại ở lĩnh vực quân sự mà sẽ lan rộng sang các lĩnh vực kinh tế, công nghệ cao, chi phối cuộc chơi chung, mang tính rủi ro cao nếu không có hợp tác toàn cầu. Các cường quốc lớn sẽ tiếp tục cạnh tranh, tuy nhiên các lực lượng mới sẽ linh hoạt hơn, dựa trên các lợi ích thực tế thay vì đối đầu trực tiếp.

Đây chính là thời điểm mà Việt Nam, cần hết sức phát huy hết lợi thế, tỉnh táo, giữ vững độc lập dân tộc, bảo vệ chủ quyền quốc gia, tiếp tục chính sách ngoại giao đa dạng hóa, đa phương hóa, thúc đẩy việc đa dạng hóa đối tác kinh tế và công nghệ, xây dựng khả năng “cân bằng rủi ro”.

Bằng cách này, Việt Nam không chỉ giảm thiểu rủi ro từ sự phân mảnh toàn cầu mà còn có thể tranh thủ thời cơ và cơ hội để vươn lên thành “người chơi then chốt” ở Nam bán cầu, giống như cách một vài quốc gia khu vực đã làm.■

BÌNH LUẬN

BÀI BÌNH LUẬN KHÁC