Tiếp theo 2017-2018, thế giới năm 2019 càng đi sâu vào “đại biến động”, “đại điều chỉnh”, khó dự báo. Tuy nhiên, cục diện “nhất siêu đa cường” về tổng thể vẫn được duy trì, trong đó Mỹ vẫn khẳng định được vị trí “nhất siêu” của mình nhưng đây là một “nhất siêu” đang trên đà suy yếu tương đối cả về thực lực và tầm ảnh hưởng; trong khi các “đa cường” thì ngày càng thể hiện sự phát triển không đồng đều và phân hóa thứ bậc trong trật tự thế giới, đặc biệt là sự nổi trội của Trung Quốc, làm cho quốc gia này ngày càng có tiếng nói trên sân chơi quốc tế, đồng thời cũng trở thành mối thách thức trực diện hơn, quyết liệt hơn đối với “nhất siêu” Mỹ.
Trong cục diện tổng thể đó, có nhiều đặc điểm mới đáng chú ý, dưới đây xin tập trung vào bốn vấn đề nổi bật, đặc biệt là vấn đề cạnh tranh nước lớn và một số vấn đề của kinh tế thế giới:
1. Cạnh tranh nước lớn ngày càng gay gắt, thế giới dường như bị bao trùm bởi bầu không khí của một cuộc chiến tranh lạnh mới.
(i) Trước hết phải nói đến cuộc cạnh tranh chiến lược toàn diện, quyết liệt chưa từng thấy giữa Mỹ và Trung Quốc, làm cho quan hệ của hai cường quốc kinh tế hàng đầu này xuống đến mức thấp nhất kể từ khi hai nước thiết lập quan hệ ngoại giao (1979). Đây là đặc điểm nổi bật nhất, tác động ảnh hưởng lớn nhất đến cục diện thế giới gần đây, đặc biệt là năm 2019 và còn kéo dài một số năm tiếp theo.
– Sự “phản tỉnh chiến lược” của Mỹ đối với Trung Quốc được Donal Trump thể hiện rõ nhất kể từ “Chiến lược An ninh quốc gia” tháng 12/2017 và “Chiến lược quốc phòng” tháng 1/2018, dẫn đến những thay đổi mang tính bản chất của quan hệ Trung – Mỹ: Tính chất quan hệ đã chuyển từ quan hệ “hợp tác toàn diện” sang “đối thủ cạnh tranh số 1” của nhau; từ quan hệ “cộng sinh”, quan hệ “lợi ích tương quan” sang quan hệ đối đầu. Mô hình quan hệ đã chuyển từ “hợp tác và cạnh tranh cùng tồn tại” sang “cạnh tranh và đối kháng đóng vai trò chủ đạo”. Con đường “hoàn thiện chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc” của Tập Cận Bình và con đường “làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại” của Donald Trump dường như đi theo hai hướng ngược chiều nhau, ngày càng xa cách nhau. Cạnh tranh chiến lược lâu dài với Trung Quốc được xác định là “ưu tiên cao nhất” của Mỹ (“Luật ủy quyền Quốc phòng 2019” của Mỹ).
– Cạnh tranh Mỹ – Trung cản trở tiến trình toàn cầu hóa và tự do hóa kinh tế toàn cầu, làm giảm tốc độ tăng trưởng của kinh tế toàn cầu (từ 3,7% xuống khoảng 3%, kéo tụt GDP toàn cầu xuống 0,8% vào năm 2020), thương mại và đầu tư toàn cầu trì trệ. Đối đầu chiến lược đã tạo ra hai trận tuyến Mỹ Trung rõ rệt, buộc nhiều quốc gia phải “chọn bên”.
– Mỹ không từ bỏ vai trò lãnh đạo toàn cầu của mình nhưng trong thực tiễn chính sách, Mỹ đã tự rút lui trên nhiều vị trí quan trọng của đời sống kinh tế-chính trị toàn cầu, tự nhiên đã trao ngọn cờ “dẫn dắt” cuộc chơi trên một số lĩnh vực về toàn cầu hóa và tự do hóa kinh tế, về hệ thống quản trị toàn cầu cho Trung Quốc và Trung Quốc đang tận dụng chính các ngọn cờ này để gia tăng cạnh tranh trở lại với Mỹ, làm cho cảm giác “bị thách thức” của Mỹ trở nên gay gắt, trực tiếp và sâu sắc hơn bao giờ hết. Cảm giác này đã thôi thúc Mỹ tăng cường chiến lược kiềm chế Trung Quốc, mở rộng đối đầu từ lĩnh vực kinh tế thương mại sang các lĩnh vực chính trị, kỹ thuật, hệ thống giá trị, mô hình phát triển; triển khai “chiến lược Ấn Độ – Thái Bình Dương tự do và rộng mở” (FOIP), chủ yếu nhằm vào Trung Quốc, trước hết là vào đại chiến lược “Vành đai Con đường” (BRI), một trong những trục chính của đối ngoại Trung Quốc, được triển khai cùng với tiến trình thực hiện “mục tiêu 100 năm lần thứ hai” đến tận giữa thế kỷ, khi Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa tròn 100 tuổi. Đứng về một góc độ nào đó mà nói, FOIP cũng là sản phẩm của cạnh tranh chiến lược nước lớn, Mỹ sẽ sử dụng FOIP như một công cụ mở rộng không gian chiến lược của mình, hòng giành ưu thế chiến lược trước một Trung Quốc đang hãnh tiến. FOIP mới bắt đầu (có thể lấy mốc chính thức từ tháng 6/2019, khi Bộ Quốc phòng Mỹ công bố văn bản chiến lược này), lộ trình và mục tiêu cụ thể chưa thật rõ ràng, vai trò thật sự của “bộ tứ” Mỹ-Nhật-Ấn-Úc chưa có cơ chế thể hiện nhưng có thể khẳng định trong vòng 30 năm tới, cạnh tranh quyết liệt giữa BRI và FOIP sẽ tạo ra nhiều yếu tố bất xác định trong quan hệ Mỹ Trung nói riêng và trong hệ thống quan hệ quốc tế nói chung
– Trung Quốc đứng trước những khó khăn lớn nhất cả về đối nội và đối ngoại kể từ sau chiến tranh lạnh, nổi bật là cuộc chiến thương mại và đối đầu chiến lược với Mỹ; tốc độ tăng trưởng kinh tế giảm sút kéo dài (đã kéo dài 40 quý liền, kể từ quý 2/2010, nay đã xuống đến mức thấp nhất trong 27 năm qua) ; những thách thức mới trên lĩnh vực chính trị nội bộ, đặc biệt là các cuộc bạo loạn ở Hong Kong đã làm cho “quốc sách một nước hai chế độ” đứng trước những thách thức nghiêm trọng nhất, kéo dài nhất kể từ khi Hong Kong được thu hồi (1997); Vấn đề Đài Loan có nhiều biến chuyển bất lợi cho Trung Quốc ngay trước thềm bầu cử “Tổng thống” (1/2020), Mỹ can dự sâu hơn và thực chất hơn vào vấn đề Đài Loan, phong trào dân chủ ở Hong Kong dường như đã tiếp thêm sức mạnh cho lực lượng Dân tiến đảng của bà Thái Anh Văn, tăng thêm khả năng tái cử của bà này, càng gây khó khăn hơn cho Bắc Kinh… Tuy nhiên, tốc độ phát triển kinh tế của Trung Quốc vẫn duy trì ở mức cao nhất trong các trung tâm kinh tế chủ yếu toàn cầu (6%), Trung Quốc vẫn là một động lực chủ yếu và là nguồn cống hiến lớn nhất cho tăng trưởng toàn cầu (khoảng 30%). Thực tế cuộc đối đầu Mỹ Trung hai năm qua cho thấy, dù đã có những bước tiến nhẩy vọt, Trung Quốc vẫn chưa đủ thế và lực để cạnh tranh toàn diện, tổng lực với Mỹ song Trung Quốc không lùi bước, tiếp tục đầu tư cho củng cố và phát triển nội lực, chuẩn bị tốt hơn cho những hiệp đấu tiếp theo với Mỹ trên sân chơi quốc tế. Vì vậy, trong tương lai có thể nhìn thấy, đối đầu Trung Mỹ vẫn là đặc trưng bao trùm nhất của hệ thống quan hệ quốc tế.
(ii) Quan hệ Mỹ-Nga đang ở đỉnh của đối đầu chiến lược, sẽ xuất hiện khả năng điều chỉnh:
– Quan hệ Mỹ-Nga đã trở thành “vật hi sinh” cho cuộc đấu đá chính trị nội bộ Mỹ, “chống Nga” đã trở thành một kiểu “mốt chính trị” trong giới tinh hoa chính trị Mỹ và cả trong một bộ phận không nhỏ của xã hội Mỹ. “Mốt chính trị” này bắt nguồn từ “mối đe dọa Xô viết” thời chiến tranh lạnh nay chuyển sang dựa trên sự “ngạo mạn chiến lược” của giới tinh hoa chính trị Mỹ đối với một nước Nga nhỏ yếu hơn và một không gian hậu Xô viết rời rạc hơn sau chiến tranh lạnh. Bởi vậy, dù bản thân Tổng thống Trump muốn “chơi thân” với Putin, muốn cải thiện quan hệ với Nga, ông ta vẫn chưa vượt qua được sự níu kéo của thứ “mốt chính trị” ấy để thực hiện ý nguyện của mình. Vì vậy quan hệ Mỹ-Nga, trong ngắn hạn, vẫn tiếp tục căng thẳng, cuộc trừng phạt Nga của Mỹ và thế giới phương Tây vẫn tiếp diễn, ít nhất cũng đến khi Nhà Trắng có chủ nhân mới sau bầu cử 2020. Tuy nhiên Quan hệ Mỹ-Nga đang ở “đỉnh của cạnh tranh chiến lược”, không gian để đưa đối đầu Mỹ-Nga lên cao hơn nữa không còn nhiều, thay vào đó sẽ là một tiến trình hạ nhiệt tiệm tiến, từ bất bình thường đi đến bình thường và dần dần cải thiện phù hợp với lợi ích của cả hai bên trong cục diện quốc tế mới. Đặc trưng nổi bật nhất của cục diện quốc tế mới này là Mỹ tập trung cao nhất cho việc đối phó với Trung Quốc- thách thức lớn nhất, lâu dài nhất của Mỹ. Nếu Trump tái cử, khả năng bình thường hóa quan hệ Mỹ-Nga có thể sẽ lớn hơn, được thúc đẩy nhanh hơn. Tuy nhiên, do những mâu thuẫn thâm căn cố đế, do tâm lý “ghét Nga” cố hữu, quan hệ Mỹ-Nga dù có bắt đầu quá trình cải thiện thì đây vẫn là một quá trình lâu dài, phức tạp, không phải là không có trắc trở.
– Cạnh tranh Mỹ-Nga, ở một mức độ nhất định, có tác dụng thúc đẩy tiến trình đa cực hóa cục diện quốc tế, góp phần kiềm chế tính cực đoan, bá quyền trong chính sách của Mỹ. Mặt khác, cạnh tranh Mỹ-Nga đã tạo lợi thế cho Trung Quốc, tạo cơ sở cho sự hình thành không chính thức trên thực tế “liên minh Trung-Nga” đối trọng với Mỹ, ngoài ý muốn của Mỹ. Nhưng đồng thời cũng làm cho thế giới chia rẽ hơn, phân cực rõ hơn, không khí chiến tranh lạnh mới bao trùm hơn; đặc biệt càng làm cho Châu Âu thêm phân hóa, càng kích thích thêm xu hướng ly tâm của Châu Âu với Mỹ. Cạnh tranh Mỹ Nga cũng làm nghiêm trọng thêm khả năng xung đột quân sự ngay trong lòng châu Âu (đụng độ ở Hắc Hải, vùng biển quanh Crimea, Mỹ đưa quân vào Ba Lan, bất ổn ở khu vực Đông Ucraina…); Kích hoạt thêm cuộc chạy đua vũ trang mới ở châu Âu và trên phạm vi toàn cầu. Canh tranh Mỹ-Nga đã tạo ra hai trận tuyến, hai nhóm lợi ích đối địch nhau Nga-Iran-Thổ >< Mỹ-Ả rập Xeut-Israel tại Trung Đông, sẽ càng đẩy xa khả năng đạt đến hòa bình cho Trung Đông.
– Cạnh tranh Mỹ Nga càng thúc đẩy Nga hành động hướng về phía Đông, càng thúc đẩy việc hình thành cục diên “hai trận tuyến” Mỹ-Phương Tây với Trung Quốc-Nga; Cạnh tranh Mỹ-Nga cũng có thể sẽ ảnh hưởng đến sự ổn định của gía dầu trên thị trường thế giới, dẫn đến sự hình thành hai trục cạnh tranh nhau trên lĩnh vực năng lượng do Mỹ và Nga chi phối, trên một mức độ nhất định sẽ làm giảm vai trò của OPEC.
– Cạnh tranh Mỹ Nga trên thực tế đã góp phần nâng cao vị thế của Nga và vai trò của tam giác chiến lược Mỹ-Trung-Nga trong trật tự thế giới có thể sẽ một lần nữa được đề cập tới, dù đây vẫn là một tam giác không đều, cạnh Mỹ-Trung vẫn đóng vai trò chi phối. Một nước Nga của Putin, đang cho thấy sự hiệu quả của họ trong quá trình vượt qua mọi khó khăn trở ngại để trở lại một cách mạnh mẽ vai trò cường quốc của mình, ít nhất cũng đến 2024 (thời điểm bầu cử Tổng thống mới ở Nga).
(iii) Các nước lớn khác, chủ yếu là Nhật, EU, Ấn Độ: Đi sâu vào giai đoạn điều chỉnh chính sách, lựa chọn chỗ đứng của mình trong sự “đại biến” của cục diện quốc tế.
– Nhật: Năm 2019 càng thể hiện sự năng nổ chính trị của Thủ tướng Shinzo Abe, sự “tự chủ chiến lược” của Nhật được đề cao; Nhật thực hiện chính sách “hướng về mọi phía” để tối đa hóa lợi ích của mình: vượt qua những cọ xát thương mại để củng cố, tăng cường quan hệ Nhật-Mỹ; thúc đẩy cải thiện quan hệ với Trung Quốc, giữ vững thị trường Trung Quốc; cải thiện quan hệ với Nga, với EU, Ấn Độ, tích cực mở rộng quan hệ kinh tế-thương mại tại 3 thị trường này; đẩy mạnh quan hệ với ASEAN, với tiểu vùng Mekong, trong đó rất coi trọng quan hệ với Việt Nam; Chú ý nêu cao vai trò của Nhật Bản trong quan hệ bộ tứ Mỹ-Nhật-Ấn-Úc trong tiến trình triển khai Chiến lược Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương, tăng cường vai trò của Nhật trên các vấn đề quốc tế, nhằm tới mục tiêu cải thiện định vị chiến lược của Nhật trên bàn cờ chính trị quốc tế, thoát dần biệt hiệu “chú lùn chính trị” mà lịch sử đã giành cho Nhật từ sau chiến tranh thế giới lần thứ hai. Tuy nhiên Nhật cũng đang phải đối mặt với nhiều khó khăn, đặc biệt là trên lĩnh vực kinh tế (tốc độ tăng trưởng giảm từ 0,9% năm 2019 xuống 0,4% năm 2020; tỉ lệ nợ/GDP lên tới 234,9%, cao nhất trong các nước phát triển…), vai trò của Nhật cũng còn nhiều hạn chế
– EU: Năm 2019 quả là một năm mang tính chất quyết định cho chiều hướng phát triển của EU. Nước Anh nói riêng và Châu Âu nói chung vẫn chia rẽ về vấn đề Brexit, các cuộc thương lượng mang tính thiện chí đã trở thành quá khứ, có thể sẽ dẫn đến tình trạng nước Anh “ôm hận” ra đi, còn EU thì cố “tống khứ nước Anh ra đi càng sớm càng tốt”, quan hệ giữa EU và nước Anh sau Brexit có thể sẽ trục trặc. Nội bộ EU cũng có những dấu hiệu thay đổi, thế lực dân túy cực hữu có dấu hiệu ngóc đầu dậy, xu hướng phản đối nhất thể hóa Châu Âu cũng gia tăng; tỉ lệ ủng hộ các lực lượng chính trị cực hữu đang lên cao ở một số nước, thậm chí một số đảng cực hữu đã lên nắm chính quyền ở một vài nước; Sau bầu cử Nghị Viện Châu Âu (23-26/5/2019), xu hướng này càng được thể hiện rõ: Số ghế của hai đảng cực hữu trong Nghị Viện Châu Âu mới đều gia tăng (Đảng Dân tộc Tự do tăng từ 36 lên 57 ghế; đảng Tự do Dân chủ tăng từ 42 lên 54 ghế). Sự gia tăng của các thế lực dân túy cực hữu sẽ làm cho đấu tranh quyền lực trong Nghị viện và trong nội bộ Châu Âu sẽ gay gắt hơn, nội bộ châu Âu càng thêm chia rẽ. Mặc dù vậy, các thế lực cực hữu vẫn chưa đủ mạnh để đảo ngược xu thế nhất thể hóa châu Âu. EU đã có ban lãnh đạo mới, vai trò trụ cột của trục Đức-Pháp vẫn được thể hiện nhưng trong ngắn hạn, EU vẫn rất khó nâng cao vai trò của mình trong trật tự quốc tế mới. Tuy nhiên, tính “tự chủ chiến lược” của EU, tính “ly tâm” trong quan hệ EU-Mỹ có thể sẽ gia tăng, thể hiện tập trung trong quan hệ kinh tế-thương mại EU-Mỹ, trong quan hệ EU-Nga và một phần trong quan hệ kinh tế thương mại EU-Trung Quốc. EU sẽ dần dần tìm cách cải thiện quan hệ với Nga và trong chừng mực nhất định, sẽ trở thành nhân tố thúc đẩy cải thiện quan hệ Mỹ-Nga.
– Ấn Độ: Đẩy mạnh hơn chính sách “hành động hướng Đông”, định hình rõ ràng hơn quan hệ chiến lược với Mỹ, thúc đẩy quan hệ với Mỹ nhưng đòi Mỹ phải trả giá cao hơn, thừa nhận vai trò lớn hơn của Ấn Độ. Mặc dù còn rất nhiều khó khăn trong quan hệ với Trung Quốc, còn nhiều bất đồng về chiến lược BRI của Trung Quốc, Ấn Độ vẫn chủ trương cải thiện quan hệ với Trung Quốc, tận dụng nhân tố Trung Quốc trong hợp tác kinh tế và phần nào lợi dụng yếu tố đối trọng của Trung Quốc trong quan hệ với Mỹ. Cả Mỹ và Trung Quốc đều coi Ấn Độ là đối tượng tranh thủ và Ấn Độ cũng muốn tận dụng vị thế này của mình. Ấn Độ hi vọng đóng vai trò “trung tâm” trong chiến lược Ấn Độ dương-TBD nhưng lực bất tòng tâm, khó khăn kinh tế, các vấn đề chính trị nội bộ, các vấn đề chính tri-chiến lược khu vực Nam Á… đang níu chân Ấn Độ, rất khó phát huy vai trò mà Ấn Độ mong muốn
Quan hệ nước lớn vẫn là nhân tố quyết định sự định hình của quan hệ quốc tế; mặt cạnh tranh, thậm chí là đối đầu hiện đang nổi lên, đã trở thành xu thế nhưng mặt hợp tác vẫn tồn tại, không bị và không thể bị triệt tiêu. Chiến tranh thương mại Mỹ – Trung chắc chắn sẽ đi đến một hiệp định “đình chiến”, cho dù chỉ là tạm thời. Mỹ và Trung Quốc sẽ tập trung tối đa cho những vấn đề nội bộ (bầu cử ở Mỹ, chuẩn bị đại hội 20 ở Trung Quốc); cục diện quốc tế nóng bỏng năm 2019 có thể sẽ hạ nhiệt trong năm 2020.
2. Về kinh tế
Kinh tế thế giới năm 2019 tuy không bị đẩy vào suy thoái nhưng phát triển chậm lại, tăng trưởng thấp, thiếu bền vững, chủ yếu do tác động của cuộc chiến thương mại Mỹ – Trung; sự gia tăng can thiệp của chủ nghĩa bảo hộ và hàng rào thuế quan; do những tác động tiêu cực đối với chuỗi cung ứng mậu dịch và kỹ thuật toàn cầu; sự nhùng nhằng bất định của tiến trình Brexit cộng với các yếu tố bất ổn trong cục diện địa chính trị quốc tế; do ảnh hưởng của giá dầu, của các áp lực về kinh tế vĩ mô tại các nước mới nổi và các nước đang phát triển cũng như các nhân tố mang tính kết cấu tại các nền kinh tế phát triển chưa được cải thiện. Từ đầu năm 2019, IMF đã ba lần điều chỉnh dự báo tăng trưởng kinh tế thế giới, đều theo hướng đi xuống (tháng 4, tháng 7 và tháng 10). Theo dự báo mới nhất của IMF (trong “Báo cáo triển vọng kinh tế thế giới” của IMF công bố ngày 15/10/2019), tăng trưởng kinh tế thế giới năm 2019 chỉ ở mức 3%, giảm 0,2% so với mức dự báo tháng 7/2019, đây là mức tăng thấp nhất kể từ sau khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008. Có đến 90% các chủ thể kinh tế toàn cầu đều tăng trưởng chậm lại. IMF dự báo năm 2020 kinh tế thế giới sẽ tăng 3,4%, thấp hơn 0,1% so với dự báo tháng 7.
Kinh tế toàn cầu năm 2020, theo IMF dự báo, sẽ khá hơn và nếu Trung Mỹ có thể đi đến một hiệp định tạm thời chấm dứt chiến tranh thương mại giữa hai bên trong năm 2019, thì triển vọng này càng sáng sủa hơn
Thực trạng kinh tế quốc tế 2019 cho thấy một số đặc điểm mới:
(i) Chênh lệch về phát triển kinh tế giữa các nước phát triển và các nước đang phát triển (bao gồm các nước mới nổi lên), hoặc nói một cách khác là giữa “thế giới phương Tây” và “ngoài phương Tây” đã giảm xuống rõ rệt, tỉ lệ này trong tổng lượng kinh tế toàn cầu vào cuối năm 2018 là 60/40, dự báo khoảng 10 năm nữa tỉ lệ này sẽ là 50/50 (“Quan hệ quốc tế hiện đại” kỳ 3/2019). Tốc độ tăng trưởng kinh tế của các nước đang phát triển trong hai năm 2019-2020 lần lượt đạt 4,1% và 4,7%, đều nhanh hơn gấp ba lần so với tốc độ tăng trưởng của các nước phát triển (1,9% và 1,7%), càng làm cho khoảng cách này thu hẹp lại. Đây sẽ là yếu tố quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến so sánh tương quan lực lượng trên phạm vi toàn cầu, có thể sẽ dẫn đến sự chuyển đổi của mô hình quản trị toàn cầu, từ “phương Tây cai quản” trong suốt mấy trăm năm qua sang “phương Tây và phương Đông cùng quản”.
(ii) Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu nói chung là phát triển chậm lại, Châu Á vẫn là khu vực phát triển nhanh nhất, cống hiến lớn nhất cho tăng trưởng toàn cầu, có đến 80% khối lượng kinh tế tăng trưởng toàn cầu là dựa vào Châu Á, trong đó Trung Quốc chiếm 39%, Ấn Độ chiếm 15% và các nước ASEAN chiếm 10% trong tổng lượng tăng trưởng toàn cầu. Các nước châu Á cũng vươn lên rất nhanh về năng lực cạnh tranh toàn cầu (Theo “Báo cáo sức cạnh tranh toàn cầu 2019” của Diễn đàn kinh tế thế giới Thụy sĩ (WEF), trong số 141 quốc gia và vùng lãnh thổ được bình chọn về sức cạnh tranh toàn cầu, nhiều nước châu Á đã giành được vị trí cao: Singapore thứ nhất, Hong Kong thứ 3, Nhật Bản thứ 6, Đài Loan thứ 12, Hàn Quốc thứ 13, Trung Quốc thứ 28…). Với ưu thế phát triển tương đối ổn định và nhanh nhất toàn cầu, Châu Á, đặc biệt là Đông Á và Đông Nam Á ngày càng có cơ hội để nâng cao vị thế của mình trong trật tự toàn.
(iii) Nợ toàn cầu đã lên đến mức kỷ lục, tính đến cuối năm 2018 đã lên tới 184 000 tỉ USD, tương đương với 225% GDP toàn cầu năm 2017, trong đó riêng Mỹ, Nhật, Trung Quốc đã chiếm tới hơn 50% tổng số nợ toàn cầu; bình quân nợ/đầu người nhiều hơn gấp hai lần bình quân thu nhập/đầu người. Đến hết quý 1/2019, tổng nợ toàn cầu đã nhảy lên 246 000 tỉ USD, tương đương 320% GDP toàn cầu. Nợ vẫn là một gánh năng quá sức đối với các nước đang phát triển. Tính đến hết năm 2018, tổng nợ của các nước đang phát triển lên tới 7800 tỉ USD, tăng 5,3%, trong khi khả năng trả nợ lại giảm 28%, số nợ các nước này không trả được lên tới 529 tỉ USD. (Nguồn: Báo cáo “Thống kê nợ toàn cầu” của WB ngày 2/10/2019 và “Báo cáo nợ toàn cầu” của Hiệp hội tài chính toàn cầu Mỹ (IIF) công bố tháng 7/2019). Vấn đề nợ làm cho nguy cơ khủng hoảng tài chính vẫn treo lơ lửng trên bầu trời kinh tế thế giới, an ninh tài chính, an ninh tiền tệ vẫn là vấn đề đáng lo ngại trong an ninh của các quốc gia; không những thế đây vẫn là nguồn gốc quan trọng làm cho các nước nghèo khó vươn lên đạt đến mức bình đẳng trên bàn cờ chính trị quốc tế.
Các vấn đề lão hóa dân số, biến đổi khí hậu, dịch bệnh và cuộc cách mạng công nghệ… đang ảnh hưởng ngày càng lớn đến tăng trưởng và sự ổn định của kinh tế toàn cầu, vẫn tiếp tục là những vấn đề nổi cộm của toàn cầu
3. Về An ninh:
– An ninh quốc tế năm 2019 vẫn đứng trước những thách thức không thể coi thường, đặc biệt là an ninh phi truyền thống. Một số lãnh đạo chủ chốt của IS đã bị tiêu diệt nhưng các hiểm họa mà IS có thể gây ra cho an ninh toàn cầu hầu như vẫn còn nguyên. Các “chiến binh IS” thuộc nhiều quốc tịch sẽ “hồi hương” được coi là những “nguy cơ an ninh tiềm tàng” tại nhiều quốc gia. IS đang thực hiện chiến lược chuyển vùng, từ đại bản doanh Trung Đông sang các khu vực khác, đáng chú ý là khu vực Đông Nam Á, IS đã tuyên bố thành lập một trung tâm chỉ huy ngoài biên giới “Nhà nước IS” tại Indonesia, chủ trương liên kết với các lực lượng cực đoan ở Philippines, Nam Thái Lan, cộng đồng Hồi giáo ở Indonesia, Malaysia, thúc đẩy các hoạt động khủng bố, gây rối loạn tại Đông Nam Á. Các hoạt động này có thể liên quan đến ý đồ biến Đông Nam Á trở thành trung tâm chuyển tải ma túy toàn cầu, sử dụng ma túy bổ sung cho ngân sách của IS. Đây là vấn đề nóng mới của Đông Nam Á mà ASEAN phải tập trung hợp tác giải quyết, nhất là trong nhiệm kỳ Chủ tịch ASEAN của Việt Nam (2020).
– Vấn đề di cư vẫn tiếp tục gây ra nhiều bất ổn trong an ninh toàn cầu, cùng với đó là nạn buôn người cũng đang có xu hướng gia tăng, làm cho thê giới rất lo ngại. Vấn đề di cư đã tạo ra nhiều mâu thuẫn trong xã hội quốc tế, là một trong những lý do làm cho Châu Âu càng chia rẽ hơn, tác động ngày càng tiêu cực hơn đến nền kinh tế vốn đã rất khó khăn của nhiều quốc gia. Đây là vấn đề đòi hỏi sự hợp tác của toàn cầu, trước hết là trách nhiệm chính trị, trách nhiệm đạo đức và trách nhiêm đóng góp tài chính của các nước lớn, nước giàu.
– Các điểm nóng trên toàn cầu hầu như chưa có điểm nào được hoá giải một cách căn bản, thực chất. Bán đảo Triều Tiên bề ngoài có dịu đi nhưng khó có thể nói là đã có những thay đổi về bản chất và một bán đảo Triều Tiên hòa bình, phi hạt nhân hóa có vẻ vẫn còn xa vời. Đối chọi chiến lược Mỹ-Nga và thái độ không khoan nhượng của Thổ Nhĩ Kỳ và Iran có thể sẽ tiếp tục phủ bóng đen lên khả năng đi đến hòa bình tại Trung Đông, mất ổn định sẽ còn kéo dài ở khu vực này.
– Phán quyết của PCA về vấn đề Biển Đông là một văn bản pháp lý cơ bản nhưng hầu như không có tác dụng trên thực tế, do sự phủ quyết và tẩy chay của Trung Quốc. Điều này đã kích thích các hành vi bất chấp luật pháp quốc tế của Trung Quốc tại Biển Đông, điển hình mới nhất là vụ Trung Quốc đưa tàu Hải dương-8 và nhiều tàu hộ tống khác xâm nhập trái phép vào vùng bãi Tư Chính, nằm sâu trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam; thậm chí Trung Quốc còn có ý định xây thêm đảo nhân tạo và tiến đến thiết lập vùng nhận dạng bay tại khu vực này. Các hành động mới của Trung Quốc càng đặt ra vấn đề về hiệu lực của các cơ chế thực thi pháp luật quốc tế, làm cho Biển Đông luôn tiềm ẩn khả năng bùng phát xung đột, kể cả xung đột quân sự, gây mất ổn định khu vực, ảnh hưởng đến an ninh chủ quyền quốc gia của các nước liên quan. Vấn đề Biển Đông vẫn là một trong những vấn đề khó khăn phức tạp nhất đối với Việt Nam trong tư cách Chủ tịch ASEAN năm 2020.
Ngoài ra, các vấn đề biến đổi khí hậu, an ninh nguồn nước, an ninh văn hóa-thông tin, các loại tội phạm công nghệ cao, tội phạm có tổ chức, xuyên biên giới …cũng đang tác động ngày càng nghiêm trọng đến kinh tế và an ninh toàn cầu.
4. Về Khoa học công nghệ
Cách mạng công nghiệp lần thứ tư với các trụ cột trí tuệ nhân tạo, năng lượng sạch, kỹ thuật người máy, kỹ thuật thông tin lượng tử, kỹ thuật sinh học… đã ngày càng trở thành nhân tố chủ yếu tạo ra động lực mới, nhu cầu tiêu dùng mới và tiến trình phát triển mới của kinh tế xã hội toàn cầu, là nhân tố mang tính quyết định cho quốc lực tổng hợp của mỗi quốc gia, đồng thời cũng là nhân tố góp phần gia tăng tính quyết liệt trong cạnh tranh chiến lược toàn cầu, đặt ra nhiều vấn đề mới cho an ninh của mọi quốc gia. Đã xuất hiện nhiều kỹ thuật mới then chốt, mang tính đột phá. Các quốc gia, đặc biệt là các nước lớn đều hoạch định các chiến lược khoa học kỹ thuật mới, làm cho cạnh tranh nước lớn ngày càng tập trung vào chủ đề giành giật đỉnh cao của khoa học công nghệ. Đối đầu Mỹ – Trung được bắt đầu bằng thương mại đã chuyển trọng tâm sang ngăn chặn công nghệ vì đây là đòn chí mạng để đánh vào khả năng thách thức của Trung Quốc đối với Mỹ. Nắm bắt và tận dụng hiệu quả cuộc cách mạng công nghệ mới đã là một nhiệm vụ cấp bách mang tính chiến lược của mọi quốc gia, song xu hướng chung vẫn là tạo thêm thuận lợi cho các nước phát triển, các nước giàu và khoảng cách giàu nghèo toàn cầu sẽ khó có thể được rút ngắn một cách thực chất. Cách mạng công nghiệp 4.0 có thể sẽ dẫn thế giới đến hai thái cực, hoặc là tạo ra một “Liên minh toàn cầu”, hợp tác tận dụng các cơ hội công nghệ làm cho thế giới giàu hơn, ổn định hơn; hoặc là sẽ hình thành “nhiều trung tâm” cạnh tranh, thậm chí là bài xích nhau để tranh giành quyền khống chế đỉnh cao công nghệ, làm cho thế giới càng bất an, khó lường. Điều này còn phụ thuộc vào sự lựa chọn chính sách của các nước lớn, đặc biệt là Mỹ và Trung Quốc.
Nhìn về tổng thể, trong bối cảnh toàn cầu nói trên, Việt Nam đang ở vào thế “cơ hội đan xen với thách thức, trong đó cơ hội nhiều hơn thách thức”, vấn đề là Việt Nam cần nắm bắt, tận dụng cơ hội một cách hiệu quả thiết thực để càng đứng vững hơn trên đôi chân cuả mình. Năm 2020 Việt Nam có cơ hội để nâng cao vị thế của mình trên trường quốc tế thông qua việc vận hành tốt chức trách Chủ tịch ASEAN và thành viên không thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc. Trên cơ sở chính trị ổn định, kinh tế phát triển nhanh và tương đối vững chắc của năm 2019, người ta có cơ sở để tin rằng năm 2020 sẽ là một năm tốt đẹp đối với Việt Nam./.
Tùng Lâm
(Theo Tạp chí Phương Đông)