Quan hệ Việt - Mỹ trong bàn cờ chiến lược Mỹ - Trung

Mấy năm qua, tuy quan hệ Việt – Mỹ đã có những bước tiến dài, nhưng phải đặt quan hệ song phương trong bối cảnh an ninh khu vực và bàn cờ chiến lược Mỹ – Trung. Không phải ngẫu nhiên mà tàu sân bay Mỹ đã đến thăm Đà Nẵng hai lần, và Mỹ đã chuyển giao cho Việt Nam hai tàu tuần duyên “lớp Hamilton”, nhằm nâng cao năng lực hàng hải. Đó mới chỉ là bước đầu. Vai trò trung tâm của ASEAN và vai trò trụ cột của “Bộ Tứ” (Quad) ngày càng quan trọng trong cơ chế an ninh khu vực, theo tầm nhìn Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương.

Quan hệ bất cập

Đến nay, tuy Việt Nam có quan hệ “đối tác chiến lược” với 18 nước, trong đó có ba nước là “đối tác chiến lược toàn diện” (Trung Quốc, Nga và Ấn Độ), nhưng quan hệ với Mỹ chỉ là “đối tác toàn diện”. Tại sao lại có sự bất cập như vậy? Các nhà phân tích cho rằng quan hệ Việt Nam với Mỹ quá nhạy cảm do “yếu tố Trung Quốc”. Hiện nay, chính quyền Biden vẫn chủ trương cứng rắn với Trung Quốc và muốn nâng cấp quan hệ Việt – Mỹ lên “đối tác chiến lược”. Có thể nói, vị thế của Việt Nam đối với Mỹ đang ở mức cao nhất từ năm 1995.

Trong “Hướng dẫn Chiến lược An ninh Quốc gia Tạm thời”, Việt Nam đã được nhắc đến để Mỹ “thặt chặt quan hệ đối tác” nhằm các mục tiêu chiến lược. Phát biểu trước Ủy ban Đối ngoại Thượng viện Mỹ (13/7/2021), ông Marc Knapper, người được Tổng thống Biden đề cử làm Đại sứ Mỹ mới tại Việt Nam đã nhấn mạnh: “Hiện nay, chúng ta có quan hệ đối tác toàn diện; chúng tôi hy vọng sẽ nâng lên thành đối tác chiến lược và tôi sẽ triển khai các biện pháp để thực hiện điều đó nhằm tăng cương hơn nữa hợp tác an ninh với Việt Nam”.

Trong sáu tháng đầu năm 2021, tuy Mỹ nhấn mạnh tầm nhìn Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương, nhưng đã chú trọng nhiều hơn đến khu vực châu Âu, Trung Đông, và Đông Bắc Á, trong khi có phần coi nhẹ Đông Nam Á. Vì vậy trong sáu tháng cuối năm, Washington phải tăng cường quan hệ với các nước ở khu vực này. Đó là bối cảnh chuyến thăm Singapore và Việt Nam của Phó Tổng thống Kamala Harris vào cuối tháng 8/2021, tiếp theo chuyến thăm của Bộ trưởng Quốc phòng Lloyd Austin tới Singapore, Việt Nam, và Philippines cuối tháng 7/2021.

Phó Tổng thống Mỹ Kamala Harris đã đến thăm chính thức Singapore và Việt Nam (từ ngày 20 đến 26/8/2021). Đây là lần đầu tiên một Phó Tổng thống đương nhiệm của Mỹ đến thăm Việt Nam. Chuyến thăm của bà Harris đã tập trung vào mấy vấn đề lớn. Một là Mỹ nhấn mạnh tầm quan trọng của quan hệ hợp tác toàn diện nhưng mang tính chiến lược trong chính sách đối ngoại của chính quyền Biden. Hai là Mỹ cam kết đối với các nỗ lực đảm bảo an ninh khu vực. Ba là Mỹ thúc đẩy quan hệ đối tác giữa Mỹ và các nước ASEAN.

Ngoại trưởng Antony Blinken phát biểu tại Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ – ASEAN ngày 4/8, đã khẳng định cam kết của Mỹ đối với vai trò trung tâm của ASEAN và ủng hộ Tầm nhìn của ASEAN về Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương. Ngoại trưởng Blinken và các ngoại trưởng ASEAN đã thảo luận những thách thức cấp bách trong khu vực và trên thế giới, bao gồm ứng phó với đại dịch Covid-19, hành động mạnh mẽ chống biến đổi khí hậu, tăng cường phát triển nguồn nhân lực, và hành động cấp thiết đối với tình hình Myanmar.

Hội nghị trực tuyến Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN – Mỹ. Ảnh: Báo Thế giới và Việt Nam

Thủ tướng Singapore Lý Hiển Long phát biểu tại Diễn đàn An ninh Aspen (ngày 3/8) đã hoan nghênh và đánh giá cao các chuyến thăm cấp cao “rất giá trị” của Mỹ. Đó là chỉ dấu cho thấy Washington nhận thức được rằng họ cần bảo vệ và thúc đẩy những lợi ích thực chất và quan trọng của Mỹ ở khu vực Đông Nam Á. Những lợi ích này cơ bản này, dưới thời Biden cũng như dưới thời Trump, vẫn nhất quán. Tuy nhiên, Lý Hiển Long bày tỏ lo ngại trước tình trạng quan hệ Mỹ – Trung đang xấu đi và mong muốn không xấu hơn nữa.

Tại Hà Nội, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam trả lời báo chí (ngày 5/8) đã nhấn mạnh “Việt Nam nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa, đẩy mạnh việc đưa quan hệ với các đối tác, đặc biệt là các đối tác quan trọng đi vào chiều sâu, hiệu quả, bền vững, và không đi với nước này để chống nước kia”. Ngay trước khi bà Harris đến Hà Nội, Thủ tướng Việt Nam đã tiếp đại sứ Trung Quốc và nhấn mạnh nguyên tắc đó. Vì vậy, nâng cấp quan hệ Việt – Mỹ lên đối tác chiến lược vẫn phải gác lại.

Chủ trương của Mỹ   

Theo Symone Sanders (người phát ngôn của Phó Tổng thống), chuyến thăm của bà Harris nhằm nhấn mạnh “Mỹ đang Quay lại” Đông Nam Á, tập trung đối phó với đại dịch Covid-19 và biến đổi khí hậu, cũng như an ninh khu vực. Chuyến thăm này sẽ khẳng định tầm quan trọng của “tham dự toàn diện và đối tác chiến lược” trong chính sách đối ngoại của ông Biden. “Chúng ta phải cùng cố gắng cổ vũ cho trật tự quốc tế dựa trên pháp luật”.

Đáng chú ý là vào ngày 25/8/2021, Nhà Trắng đã công bố nội dung “Tăng cường Quan hệ Đối tác Toàn diện Việt Nam và Mỹ” gồm 8 điểm: (1) đối phó với biến đổi khí hậu; (2) hỗ trợ Việt Nam phát triển và tiếp cận thị trường; (3) vấn đề nhân quyền và xã hội dân sự; (4) khắc phục di sản chiến tranh; (5) vấn đề an ninh (như giúp Việt Nam tăng cường năng lực hàng hải); (6) đầu tư vào quan hệ song phương (như xây sứ quán Mỹ ở Hà Nội và khởi động Peace Corps); (7) đồng thuận về hoạt động không gian; (8) hỗ trợ giáo dục đại học.

Theo Derek Grossman (chuyên gia phân tích tại RAND Corporations), Mỹ thường phải xây dựng “chiến lược an ninh quốc gia” (NSS), trên cơ sở đó xây dựng “chiến lược quốc phòng” (NDS), rồi sau đó mới triển khai “chiến lược vùng”, như chiến lược Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương. Khi có chiến lược vùng thì mới rõ vị trí của Việt Nam trên bàn cờ đó thế nào. Nhưng hiện nay, Chính quyền Biden vẫn chưa xây dựng xong những chiến lược đó, mà mới chỉ có “Hướng dẫn Chiến lược An ninh Quốc gia Tạm thời”.

Theo các chuyên gia phân tích, Mỹ vừa phải cạnh tranh với Trung Quốc, vừa phải điều chỉnh lập trường phù hợp với nguyện vọng của các nước Đông Nam Á. Vì vậy, Mỹ không thể ép các nước khu vực chọn phe. Trong 6 tháng đầu năm 2021, tuy Washington tập trung vào các vấn đề khác và tỏ ra coi nhẹ khu vực này, nhưng bài phát biểu của Bộ trưởng Quốc phòng Lloyd Austin tại Singapore (ngày 27/7) đã khẳng định rằng chính quyền Biden quan tâm tới Đông Nam Á, và ủng hộ các nước khu vực bảo vệ chủ quyền và tài nguyên của họ.

Tổng thống Biden và Phó Tổng thống Harris ưu tiên việc xây dựng lại các quan hệ đối tác để đảm bảo an ninh cho Mỹ, và an toàn bền vững cho chuỗi cung ứng, nên tìm giải pháp để tránh bị thiếu hụt là ưu tiên chính của chuyến đi này. Việc thiếu hụt chất bán dẫn trên thế giới và khó khăn về chuỗi cung ứng là trọng tâm của bà Harris trong chuyến thăm Đông Nam Á, nơi Mỹ phải tăng cường quan hệ với các nước láng giềng của Trung Quốc.

Việc thiếu hụt chất bán dẫn toàn cầu tiếp tục làm trì trệ các ngành sản xuất điện tử và xe hơi. Nhà Trắng đang thảo luận khả năng ký một hiệp định thương mại tự do về công nghệ số với các nước khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương gồm Singapore và Việt Nam. Singapore sẽ xây dựng một nhà máy sản xuất điện thoại thông minh trị giá 4 tỷ USD dự kiến sẽ vận hành vào năm 2023, trong khi Việt Nam có vai trò ngày càng quan trọng trong chuỗi cung ứng khi nhiều công ty đã chuyển dây chuyển sản xuất từ Trung Quốc sang Việt Nam.

Theo Murray Hiebert (CSIS), chuyến thăm của bà Harris rất quan trọng, đã nhấn mạnh cam kết của Mỹ tại Đông Nam Á, với hứa hẹn tăng thêm viện trợ vaccine cho khu vực. Chuyến thăm của bà Harris cũng như ông Austin chứng tỏ với Đông Nam Á là Mỹ muốn can dự. Gần đây, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Mỹ Wendy Sherman đã đến thăm Indonesia, Campuchia và Thailand (cuối tháng 5 đầu tháng 6), và đến thăm Nhật Bản, Hàn Quốc, Mông Cổ (tháng 7) trước khi đến thăm Trung Quốc để hội đàm, nhưng không giảm được căng thẳng.

Bà Kamala Harris vốn là một luật sư và công tố viên của bang California, nổi tiếng là một người sắc sảo tại các cuộc điều trần tại Thượng viện Mỹ. Ở tuổi 57, Phó Tổng thống Kamala Harris trẻ hơn nhiều so với Tổng thống Joe Biden, nay đã 79 tuổi. Vì vậy, bà Harris sẽ phải thay mặt ông Biden đảm đương một số chuyến thăm quốc tế, đặc biệt là đến Đông Nam Á, nơi lãnh đạo các nước ASEAN thường phàn nàn là bị các Tổng thống Mỹ coi nhẹ.

Phản ứng của Trung Quốc

Theo Derek Grossman (RAND Corporation), Trung Quốc không chuẩn bị cho một điều chỉnh chiến lược lớn của Việt Nam trong tương lai gần, nên bất cứ một biến động lớn nào trong hợp tác an ninh quốc phòng Việt – Mỹ sẽ làm cho Trung Quốc bị bất ngờ và phản ứng. Nhưng Trung Quốc cũng không muốn làm đảo lộn hòa bình và ổn định khu vực chỉ vì Mỹ và Việt Nam xích lại gần nhau, nên việc nâng cấp quan hệ Việt – Mỹ từ đối tác “toàn diện” lên thành đối tác “chiến lược” ít có khả năng làm cho Trung Quốc phản ứng quá mạnh.

Derek Grossman khuyến nghị Washington nên theo đuổi một chiến lược đa dạng gồm hợp tác về ngoại giao, an ninh, và kinh tế. Đến lúc Mỹ phải quay lại với hiệp định TPP (nay là CPTPP). Để tạo điều kiện cho các nước Đông Nam Á đang chơi trò đu dây (hedging and balancing) như Việt Nam có thể hợp tác, Mỹ không nên ép buộc họ phải chọn phe giữa Mỹ và Trung Quốc. Washington không nên và không thể tác động vào quyết sách của Hà Nội, cho đến khi nào Hà Nội thấy đã đến lúc chín muồi để tự điều chỉnh chiến lược.

Theo Kevin Rudd (Chủ tịch Asia Society, và cựu Thủ tướng Úc), “Bộ Tứ” (Quad) là thách thức có tác động lớn lớn nhất tới tham vọng của Trung Quốc trong những năm tới. Tuy lúc đầu họ tỏ ra coi thường “Bộ Tứ” như “bọt biển”, nhưng từ cuộc họp cấp cao trực tuyến (3/2021) của “Bộ Tứ”, Bắc Kinh ngày càng lo ngại về triển vọng “Bộ Tứ” có thể tập hợp lực lượng, như Thủ tướng Ấn Độ Narendra Modi đã tuyên bố: “Cuộc họp cấp cao hôm nay chứng tỏ “Bộ Tứ đã trưởng thành như một trụ cột quan trọng cho ổn định khu vực”.

Cuộc họp cấp cao G-7 đã làm Bắc Kinh lo ngại về “Bộ Tứ” như một liên minh chống Trung Quốc trong khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương, gồm Hàn Quốc để “Bộ Tứ” trở thành “Bộ Ngũ” (Quint). Đó là một nhân tố định hình quan hệ Mỹ – Trung, và tham vọng của Trung Quốc. Cựu Ngoại trưởng Mike Pompeo đã tuyên bố thẳng thừng rằng mục tiêu của Mỹ là thể chế hóa “Bộ Tứ” thành “Bộ tứ Mở rộng” (Quad plus) gồm Hàn Quốc, New Zealand và Việt Nam, để hợp tác đảm bảo an ninh thương mại, công nghệ, và chuỗi cung ứng.

Bắc Kinh rất lo ngại “Bộ Tứ” phối hợp với “Sáng kiến Răn Đe Thái Bình Dương” của Mỹ và chia sẻ thông tin nhạy cảm về chiến lược của Trung Quốc với các đối tác trong nhóm “Ngũ nhãn” (Five Eyes). Nhưng điều Bắc Kinh lo ngại nhất là “Bộ Tứ” trở thành nền tảng và đòn bẩy cho một liên minh toàn cầu chống Trung Quốc. Ngoại trưởng 27 nước EU đã thông qua “Chiến lược hợp tác của EU ở Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương” (19/4/2021).

Các nước châu Âu không chỉ tuyên bố mà còn hành động. Việc Anh điều tàu sân bay HMS Queen Elizabeth tới Biển Đông chứng tỏ châu Âu đang hợp tác cùng với Mỹ đảm bảo tự do hàng hải ở Biển Đông nhằm đối phó với Trung Quốc. Trung Quốc càng mạnh về kinh tế và quân sự thì càng yếu về chính trị và bị cô lập về ngoại giao. Nói cách khác, “Đồng minh lớn nhất của Mỹ trong chiến lược ngăn chặn Trung Quốc chính là Trung Quốc”.

Chỉ năm ngày sau chuyến thăm Việt Nam của Phó Tổng thống Mỹ Harris, Trung Quốc tuyên bố sẽ áp dụng “Luật an toàn giao thông hàng hải” (từ 01/9/2021), tự cho mình “quyền xua đuổi, ngăn chặn, và trừng phạt 5 loại tàu nước ngoài đi vào vùng lãnh hải Trung Quốc” ở Biển Đông. Chắc Mỹ đã biết trước Trung Quốc sẽ tuyên bố “Luật an toàn giao thông hàng hải” nên đã tuyên bố thách thức “sự bắt nạt và yêu sách hàng hải quá đáng của Bắc Kinh”.

Hai tuần sau chuyến thăm của Phó Tổng thống Harris, Ngoại trưởng Trung Quốc Vương Nghị đã vội vã sang thăm Việt Nam, với “món quà 3 triệu liều vaccines”, và lời khuyên Việt Nam “đề phòng sự can thiệp, xúi giục của các thế lực bên ngoài khu vực”. Chuyến thăm của Vương Nghị trùng hợp với chuyến thăm của Bộ trưởng Quốc phòng Nhật Kishi Nobuo (11-12/9/2021). Nhật Bản đã thỏa thuận chuyển giao thiết bị và công nghệ quốc phòng cho Việt Nam, như một bước để “nâng hợp tác quốc phòng giữa hai nước lên một Cấp độ mới”.

Tại sao Việt Nam?

Bộ trưởng Quốc phòng Austin đến thăm Việt Nam, Singapore và Philippines (cuối tháng 7) để chuẩn bị cho chuyến thăm của bà Harris tới Singapore và Việt Nam. Tại sao bà Harris đến thăm Singapore và Việt Nam trước, mà không đến thăm Ấn Độ trước, tuy Ấn Độ là đối tác chiến lược của Mỹ trong “Bộ Tứ” và “quê ngoại” của bà Harris. Phải chăng Singapore và Việt Nam có vị trí chiến lược trong tầm nhìn Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương?

Chuyến thăm Việt Nam của ông Austin tuy không được báo chí đưa tin nhiều, nhưng không kém phần quan trọng. Trong khi thâm hụt thương mại giữa Mỹ và Việt Nam ngày càng tăng (69,7 tỷ đô la năm 2020), thì chương trình hợp tác quốc phòng trở thành một trụ cột chính trong quan hệ Việt – Mỹ. Việt Nam ngày càng quan trọng đối với Mỹ, và Hà Nội cũng như Singapore đang trở thành các mỏ neo (anchors) trong chính sách của Mỹ.

Trong khi bờ biển Việt Nam dài hơn 3.000km giáp Biển Đông và án ngữ lối ra Biển Đông của Trung Quốc, thì Singapore án ngữ eo biển Malacca là yết hầu (choke point) nối Tây Thái Bình Dương với Ấn Độ Dương. Singapore là nước ASEAN duy nhất cho Mỹ sử dụng căn cứ hải quân (Changi), gia hạn 15 năm (đến 2035), trong khi căn cứ hải quân Cam Ranh của Việt Nam được các nước lớn chú ý vì vị trí chiến lược trọng yếu tại Biển Đông.

Không phải ngẫu nhiên mà Mỹ bán cho Singapore 12 máy bay chiến đấu F-35B (thế hệ mới) như một ưu tiên đặc biệt, biến Singapore thành nước ASEAN đầu tiên mua máy bay F-35B (ngoài số F-15 và F-16 đã có). Nếu Mỹ quyết định lập “hạm đội 1” như đề xuất của Bộ trưởng Hải quân Mỹ để tăng cường lực lượng cho hạm đội 7 và hạm đội 5 tại Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương, thì Singapore sẽ là một lựa chọn cho căn cứ của hạm đội mới. Nói cách khác, Singapore và Việt Nam đều rất quan trọng, cả về chiến lược và thương mại.

Chuyến thăm Việt Nam của Phó Tổng thống Kamala Harris diễn ra trước khi Tổng thống Joe Biden dự họp cấp cao ASEAN và Đông Á vào cuối năm nay, và Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc có thể đi thăm Mỹ, chứng tỏ hai điều cơ bản. Một là khu vực Đông Nam Á gồm ASEAN là một phần thiết yếu trong bàn cờ chiến lược “Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương tự do và rộng mở” (FOIP). Hai là Mỹ muốn thăm dò Việt Nam về khả năng nâng cấp quan hệ lên “đối tác chiến lược”, như một chủ đề chính trong quan hệ giữa hai nước.

Hợp tác chiến lược với Mỹ không chỉ là vấn đề đối ngoại, mà còn là vấn đề đối nội vì liên quan đến đổi mới thể chế và chiến lược phát triển quốc gia. Khi quan hệ Mỹ – Trung càng xấu đi, thì quan hệ Mỹ – Việt càng tốt lên, làm quan hệ Trung – Việt càng nhạy cảm trong bàn cờ chiến lược Mỹ – Trung – Việt. Trong khi xây dựng lòng tin chiến lược với Mỹ, Việt Nam vẫn duy trì cân bằng chiến lược với Trung Quốc. Đó là nguyên tắc “không chọn phe” trong đối ngoại, và chủ trương “ba không một nếu” trong Sách trắng Quốc phòng Việt Nam.

Về an ninh quốc phòng, Đô đốc Karl Schultz (Tư lệnh tuần duyên Mỹ) nhấn mạnh tầm quan trọng của Việt Nam trong khu vực, và cho biết Hà Nội cam kết sử dụng các tàu tuần duyên của Mỹ chuyển giao phù hợp với lợi ích an ninh quốc gia trong khu vực. Ông tin rằng Việt Nam sẽ tiếp tục là đối tác quan trọng của lực lượng Tuần duyên Mỹ. Tuỳ viên Quân sự Mỹ tại Hà Nội Thomas Stevenson cũng cho rằng chính sách quốc phòng “ba không một nếu” của Việt Nam có thể tạo ra khuôn khổ đối thoại hiệu quả để tránh xung đột.

Về hợp tác an ninh quốc phòng, Mỹ đang giúp Việt Nam nâng cao năng lực hàng hải. Sau khi đã chuyển giao cho Cảnh sát Biển Việt Nam 2 tàu tuần duyên “lớp Halminton” và 24 xuồng tuần tra cao tốc “Meltal Shark”, Mỹ sẽ chuyển giao chiếc “Halminton” thứ ba. Mỹ giúp Việt Nam khắc phục hậu quả chiến tranh (như rà phá bom mìn, tẩy rửa chất độc da cam, tìm kiếm người mất tích). Mỹ đã rút Việt Nam ra khỏi danh sách bị cáo buộc “thao túng tiền tệ”, và giúp Việt Nam đối phó với biến đổi khí hậu (như tại khu vực sông Mekong).

Về y tế, Mỹ viện trợ 6 triệu liều vaccine Covid-19, và 44 triệu USD để giúp Việt Nam chống dịch (trong tổng số 100 triệu USD thông qua USAID). Mỹ là nước viện trợ nhiều vaccine Covid-19 nhất cho Việt Nam, trực tiếp hoặc thông qua COVAX. Về lâu dài, hãng Arcturus Therapeutics của Mỹ đã chuyển giao cho VinBioCare (Vingroup) công nghệ sản xuất vaccine VBC-COV19-154, có khả năng chống các biến chủng mới như Delta, Alpha, Beta, Gamma…

Mỹ là nước viện trợ nhiều vaccine Covid-19 nhất cho Việt Nam, trực tiếp hoặc thông qua COVAX

Trở về tương lai

Theo huyền sử (chưa được kiểm chứng), ông Bùi Viện được Vua Tự Đức cử làm sứ thần đã sang Mỹ hai lần (vào năm 1873 – 1875) không chỉ nhằm thiết lập bang giao song phương, mà còn để cầu viện Mỹ làm đối trọng với Pháp, lúc đó đang muốn biến Việt Nam thành thuộc địa. Nhưng sứ mệnh đó của ông Bùi Viện không thành, đã để lại một kinh nghiệm đáng buồn về “bị nhỡ tàu”, được lặp đi lặp lại trong quan hệ giữa Mỹ và Việt Nam.

Lịch sử đã lặp lại khi Cụ Hồ chủ trương hợp tác với Mỹ chống Nhật (1944 – 1945), thông qua đầu mối OSS như Charles Fenn và Archimedes Patti cùng nhóm “Con Nai” (Deer Team). Để vận động Mỹ giúp Việt Nam, Hồ Chủ Tịch đã gửi 8 bức thư và điện cho Tổng thống Harry Truman và 3 bức thư và điện cho Ngoại trưởng James Byrnes (1945 – 1946), nhưng không được hồi đáp. Mỹ đã giúp Pháp đánh Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Pháp (1946 – 1954), và Mỹ đã can thiệp trực tiếp vào cuộc Chiến tranh Việt Nam (1955 – 1975).

Theo các nhà nghiên cứu lịch sử, Chiến tranh Việt Nam là một cuộc chiến không đáng có. Đó là “một cuộc chiến sai lầm, tại một địa điểm sai lầm, vào một thời điểm sai lầm, và với một kẻ thù sai lầm (a wrong war, at the wrong place, at the wrong time, and with the wrong enemy), như lời cảnh báo của Tướng Omar Bradley (năm 1951). Khi Chủ tịch nước Trương Tấn Sang sang thăm Mỹ (2013), ông đã tặng Tổng thống Obama bản sao bức thư mà Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi Tổng thống Truman (16/2/1946), nhưng không được hồi đáp.

Theo TTXVN (25/8/2021), tại buổi tiếp Phó Tổng thống Harris, Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc đánh giá cao quan hệ “đối tác toàn diện” Việt – Mỹ hơn 25 năm qua “phù hợp với tâm nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong thư gửi Tổng thống Harry Truman cách đây 75 năm”, yêu cầu Mỹ bảo vệ và bênh vực công lý trên thế giới, “ủng hộ nền độc lập của Việt Nam” cũng như Philippines là “độc lập hoàn toàn và hợp tác toàn diện với Mỹ”.

Hơn 45 năm sau Chiến tranh Việt Nam, và 25 năm sau khi hai nước thiết lập quan hệ ngoại giao, “vết thương Việt Nam” vẫn chưa lành và “bóng ma Việt Nam” chưa chết hẳn. Mỹ và Việt Nam vẫn đang tiếp tục khắc phục hậu quả chiến tranh và xây dựng lòng tin chiến lược cho một trang mới trong quan hệ hai nước. Quan hệ Việt – Mỹ không phải là định mệnh vì có thể hóa giải được, để trở thành đối tác chiến lược. Điều đó phản ánh không chỉ nhu cầu phát triển của mỗi nước, mà còn về tầm nhìn chiến lược Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương.

Trong lịch sử của Việt Nam với Pháp, Nhật, Mỹ, và Trung Quốc, thì quan hệ Việt Nam với Trung Quốc là phức tạp nhất, như một định mệnh. Hai nước gắn liền với nhau về địa lý (núi liền núi, sông liền sông), về lịch sử (ngàn năm Bắc thuộc), về kinh tế (phụ thuộc vào nhau), về chính trị (cùng hệ tư tưởng). Quan hệ Việt – Trung như cục nam châm vừa hút vừa đẩy, phản ánh thực trạng “vừa yêu vừa ghét” như “anh em thù địch” (brother enemy).

Nội dung quan trọng nhất trong chuyến thăm Việt Nam của Bộ trưởng Quốc phòng Austin là khắc phục hậu quả chiến tranh để xây dựng lòng tin. Hai bên đã ký một bản ghi nhớ (MOU) về việc Mỹ giúp Việt Nam tìm kiếm người mất tích trong chiến tranh (MIA). Điều đó rất thiết yếu để hai nước xây dựng lòng tin cho hợp tác chiến lược. Quan hệ Việt – Mỹ không chỉ dựa trên tầm nhìn chiến lược chung về Trung Quốc và trật tự khu vực, mà còn phải bắt nguồn từ lòng tin giữa hai quốc gia. Nói cách khác, hóa giải quá khứ là kiến tạo tương lai.

Sau thời Trump với “nước Mỹ trên hết”, đến thời Biden với “nước Mỹ quay lại”. Tuy chính quyền Biden cũng nhận diện Trung Quốc là “thách thức lớn nhất”, nhưng Mỹ không thể đối phó với Trung Quốc một mình, mà phải tập hợp đồng minh và đối tác, như “Bộ Tứ” (Nhật, Ấn, Úc), và ASEAN (Singapore, Việt Nam, Philippines, Malaysia, Indonesia). Để có đồng minh và đối tác bền vững, Mỹ cần xây dựng lòng tin và sức mạnh “răn đe tích hợp” (integrated deterrence) trong cơ chế an ninh khu vực, bao gồm quan hệ với Việt Nam.

Thay lời kết 

Theo Alexander Vuving (APCSS tại Honolulu), việc nâng cấp quan hệ Việt – Mỹ lên “đối tác chiến lược” chủ yếu phụ thuộc vào cường độ cạnh tranh của các nước lớn tại khu vực (như Mỹ – Trung). Trong một thập kỷ tới, khi tranh chấp ngày càng tăng, thì quan hệ Việt – Mỹ có thể nâng lên “đối tác chiến lược toàn diện”, vì quan hệ Việt – Mỹ “mang cả tính toàn diện và tính chiến lược”. Theo Lê Hồng Hiệp (ISEAS tại Singapore), quan hệ Việt – Mỹ đứng trước một thời điểm thuận lợi để nâng cấp lên mức “đối tác chiến lược”. Đó là một điều rất bình thường, không một quốc gia nào có quyền và có lý do chính đáng để phản đối việc đó.

Trong các bài viết trước đây, tôi thường đề cập đến khả năng Việt Nam dễ bị mắc kẹt trong bàn cờ chiến lược Mỹ – Trung. Khi quan hệ Mỹ – Trung càng xấu đi, thì quan hệ Mỹ – Việt càng tốt lên, làm quan hệ Trung – Việt càng nhạy cảm. Việt Nam cũng như các nước khu vực không muốn chọn phe vì ba lo ngại chính. Một là Trung quốc có thể trả đũa làm cho họ thiệt hại hơn là được lợi từ Mỹ. Hai là Mỹ có thể bỏ rơi họ để bắt tay với Trung Quốc như bài học trong quá khứ. Ba là Mỹ có thể tìm cách diễn biến làm cho họ phải thay đổi chế độ.

Theo các chuyên gia, các lo ngại đó vừa phản ánh thực tế vừa phản ánh não trạng. Lo ngại thái quá sẽ làm gia tăng năng lượng tiêu cực, biến nhận thức (perception) thành thực tế (truth), gây ra nhầm lẫn đáng tiếc. Trong bối cảnh đại dịch hiện nay, mọi thứ đều có thể bị đảo lộn, kể cả thói quen tư duy và hệ quy chiếu. Diễn biến càng khó lường thì quyết sách càng dễ nhầm lẫn. Vì vậy, quyết định nâng cấp “đối tác chiến lược” với Mỹ đúng lúc rất hệ trọng. Quyết định quá sớm có thể rủi ro, nhưng quá muộn có thể đánh mất cơ hội chiến lược.■

Nguyễn Quang Dy

(Theo Tạp chí Phương Đông)

 

BÌNH LUẬN

BÀI VIẾT LIÊN QUAN