Các chuyên gia tư vấn kinh tế đã nói nhiều tới việc Việt Nam và Mỹ xác định nâng cấp quan hệ hai nước lên Đối tác Chiến lược Toàn diện tháng 9/2023. Đã có rất nhiều những bài viết, phát biểu giúp cho dư luận hiểu rõ hơn về thỏa thuận này. Tuy nhiên vẫn còn nhiều vấn đề cần làm rõ, gần đây rất nhiều chuyên gia kinh tế trong và ngoài nước đưa ra nhiều ý kiến cần phải lưu ý khi làm ăn với Hoa Kỳ. Tạp chí Phương Đông xin tập hợp các ý kiến của chuyên gia để bạn đọc tham khảo.
1. Chiến lược toàn diện được hiểu như thế nào?
Hợp tác toàn diện thì rõ rồi. Nghĩa là hợp tác với nhau trên mọi lĩnh vực kinh tế, đối ngoại, an ninh quốc phòng, đào tạo nguồn nhân lực và công nghệ…
Chiến lược là từ được sử dụng cho nhiều lĩnh vực, ví dụ như chiến lược phát triển đất nước, chiến lược quốc phòng an ninh, chiến lược ngoại giao… Ta hiểu chiến lược là xác định các vấn đề và xây dựng các nền tảng hoặc điều kiện để tiến tới mục tiêu mang tính chất dài hạn.
Vậy khi nói về chiến lược phát triển kinh tế của Mỹ ở Việt Nam ta nói về cái cụ thể hơn đó là kinh tế, chính trị, an ninh quốc phòng, văn hóa, giáo dục… Điều đó thể hiện dựa trên xu hướng phát triển toàn cầu hóa và đã được thực hiện trong nhiều năm qua. Chiến lược đối với Việt Nam được hiểu là Mỹ muốn xây dựng một hệ sinh thái để tạo nên điều kiện giúp Mỹ thực hiện các mục tiêu mà họ cần đạt tới. Cụ thể hơn là tạo ra được môi trường, phong cách, nguồn nhân lực… một môi trường tạo ra hệ sinh thái của họ, đó là văn hóa trong hoạt động doanh nghiệp chứ không phải chỉ là kỹ năng. Để đến được sự hợp tác này là nhờ quá trình phát triển quan hệ của hai nước đã đến lúc chín muồi. Các chuyên gia cho rằng sự thâm nhập về kinh tế cả về chiều rộng lẫn chiều sâu đặc biệt là quan hệ thương mại của hai nước đã phát triển ở tầm cao. Việt Nam là nước xuất khẩu nhiều hàng hóa sang Mỹ, lượng hàng lên đến hàng trăm tỷ đô la, ngoài ra còn phát triển về ngoại giao, an ninh, quốc phòng, văn hóa giáo dục và một điều quan trọng đó là sự tin tưởng lẫn nhau giữa hai nước đã ở một mức độ cao. Họ tin rằng, Việt Nam có thể đồng hành với Mỹ và đã chính thức xác nhận một cách chính thống rằng Việt Nam là một đối tác chiến lược toàn diện.
Thỏa thuận này mở ra cho các doanh nghiệp Hoa Kỳ và Việt Nam ở bất kỳ lĩnh vực nào, vị trí nào đều có thể lập được nhà máy sản xuất tại Việt Nam và ngược lại các doanh nghiệp, nhà sản xuất của Việt Nam cũng làm được điều tương tự tại Hoa Kỳ.
Trong 30 năm thực hiện toàn cầu hóa cho thấy Hoa Kỳ là nước độc tôn về kinh tế và địa chính trị. Trung Quốc đã trở thành và đóng một vai trò như một công xưởng của thế giới. Các quan hệ của các nước lớn nói chung là tương đối ổn định. Tăng trưởng của thế giới ở mức độ rất cao, nhưng các năm gần đây do dịch Covid-19 và biến động của chiến tranh ở châu Âu, Trung Đông đã tác động mạnh mẽ vào nền kinh tế thế giới và đương nhiên có cả Hoa Kỳ. Trong khi Hoa Kỳ đang lâm vào khó khăn, sụt giảm về kinh tế thì Trung Quốc lại nổi lên như một nước phát triển thành công và hiện đang đứng sau Hoa Kỳ nhưng tương lai sẽ vượt qua về kinh tế. Nhận thức được nền kinh tế của quốc gia đang phụ thuộc rất nhiều vào nguồn cung ứng của Trung Quốc, Đài Loan, Nhật Bản… Hoa Kỳ thấy rằng, để thoát khỏi sự phụ thuộc này cần phải thay đổi chuỗi cung ứng sản xuất đa dạng hơn và phong phú hơn. Tuy nhiên Hoa Kỳ không thể chuyển toàn bộ cơ sở sản xuất của mình ở nước ngoài về Mỹ, đặc biệt là ở Trung Quốc vì điều đó quá tốn kém và có nhiều vấn đề bất cập như giá thành công nhân cao, xã hội, nhập cư… Vậy câu hỏi đặt ra là Mỹ sẽ đi về đâu? Mỹ xác định phải ưu tiên cho những đối tác mà họ có thể chia sẻ được những lợi ích chung về kinh tế và chính trị. Trong những quốc gia đó, Mỹ đã lựa chọn Việt Nam. Vì vậy, Mỹ thúc đẩy mạnh mẽ, chuyển Việt Nam thành một đối tác chiến lược toàn diện, đưa Việt Nam vào danh sách của các quốc gia ưu tiên của Mỹ, mở đường cho các doanh nghiệp Mỹ vào Việt Nam, hợp tác với Việt Nam và sản xuất những sản phẩm hiện đại như chip điện tử… Hiện nay Mỹ đang lệ thuộc vào Đài Loan, mỗi năm Đài Loan chiếm đến 50% trong sản xuất chip của thế giới. Hiện tại, Mỹ muốn tách sự lệ thuộc này vào nước khác. Ở Việt Nam, Mỹ đã có 3 công ty đầu tư vào sản xuất các thiết bị bán dẫn ở Bắc Giang, Bắc Ninh và Khánh Hòa, đó là bước đầu của sự hợp tác toàn diện chiến lược.
2. Tại sao lại là lúc này?
Như phần trên đã nói, đó là một sự chuyển đổi của Mỹ nhưng trước hết là vì sự phát triển của Trung Quốc. Trước đây Mỹ đầu tư nhiều vào Trung Quốc, họ dựa theo thuyết toàn cầu hóa. Những cái gì hay nhất và rẻ nhất thì họ sẽ tập trung vào làm nó.
30 năm qua là thời đại hoàng kim của thế giới. Ta có thể mua được các thứ rất rẻ và tốt. Ta có thể sử dụng tiền dư của mình để đầu tư tạo ra vòng xoay của đồng tiền nên nó làm cho nền kinh tế phát triển nhanh và rất mạnh, số người thoát nghèo trên thế giới cũng tăng cao, có thể là cao nhất trong lịch sử thế giới. Bây giờ sau đại dịch Covid-19, sau các cuộc chiến tranh, ta nhận thấy lần đầu tiên việc sản xuất không thể tập trung vào một nơi nào đó mà phải đa dạng hóa nó để giảm thiểu rủi ro. Các nhà quan sát tình hình thế giới nhận định rằng sau cuộc chiến tranh ở Ukraine và Trung Đông sẽ là thời điểm khai tử toàn cầu hóa mà nó đã tồn tại trong 30 năm qua. Thế giới đã phân cực và sẽ phân cực mạnh mẽ. Khi thế giới phân cực thì chuỗi cung ứng sẽ không còn như xưa, đương nhiên giá thành sẽ phải tăng. Các lợi thế cạnh tranh của mỗi nước sẽ quyết liệt để sản xuất cái rẻ nhất có thể. Lĩnh vực logistic cũng dao động mạnh. Giá vận chuyển cũng gia tăng vì các hàng hóa không đi thẳng từ A đến B, mà phải đi vòng nhiều nước. Giá vận chuyển tăng thì nền kinh tế sẽ bị áp lực của lạm phát.
Sự chuyển dịch của thế giới cho thấy rõ ảnh hưởng rất lớn từ đại dịch Covid-19 và chiến tranh. Tuy nhiên không phải chỉ có từ trạng thái này mà thực chất đã âm ỉ từ lâu.
Mười lăm năm trước các nhà nghiên cứu Mỹ đã cảnh báo, trong vòng 10-15 năm tới Trung Quốc có thể vượt Mỹ về GDP. Trung Quốc sẽ đầu tư nhiều vào công nghệ cao. Nước nào nắm được công nghệ cao là quyết định quyền lực của thế giới – đó là Trung Quốc. Nhận định của họ đã cho thấy rõ dự đoán của các nhà nghiên cứu là không sai. Hiện tại, đầu tư vào công nghệ của Trung Quốc bằng cả Mỹ và châu Âu hợp lại, nhất là lĩnh vực xe điện, pin, tấm điện mặt trời, trí tuệ nhân tạo… Suy rộng hơn thì thấy rằng sự phát triển của thế giới quyết định bằng sự phát triển của công nghệ nên Mỹ không thể chậm trễ được. Họ phải gấp rút sản xuất các loại chip công nghệ cao. Chip công nghệ cao là đầu tư chiến lược, chip sẽ khống chế cuộc sống của chúng ta. Không có thứ gì chúng ta dùng mà lại không có chip.
Việt Nam là điểm rơi bắt buộc mà Mỹ chọn là nơi sản xuất. Họ cũng có thể sản xuất ở các nước khác, nhưng ở Việt Nam có vị thế hơn vì địa lý. Ngoài lợi ích về kinh tế thì lợi ích địa chính trị làm cho Việt Nam trở thành một điểm đến buộc Mỹ phải tính tới.
3. Sự hợp tác với Hoa Kỳ đem lại cho Việt Nam điều gì?
Vừa qua Đại sứ Mỹ tại Việt Nam đã có một bản báo cáo rất chi tiết về kết quả hợp tác giữa hai nước và qua báo cáo này đã cho thấy rằng sự hợp tác với Hoa Kỳ đem lại lợi ích rất lớn cho cả hai bên.
Vậy làm ăn với Mỹ có lợi gì? Nền kinh tế của Mỹ đã phát triển vào đỉnh cao của thế giới. Họ là nước đứng đầu thế giới về kinh tế, vậy nên khi làm ăn với Mỹ không chỉ thu được lợi nhuận mà còn học được hệ thống kinh tế của họ. Khi họ hợp tác, họ quan hệ với nước nào thì họ xây dựng cho nước đó một hệ thống sinh thái. Họ không chỉ kết bạn mà còn tạo ra những khả năng với các tương tác để làm việc với Mỹ tốt hơn, ít rủi ro hơn.
Ta có thể tin được rằng Mỹ muốn Việt Nam độc lập và phát triển phồn vinh. Điều đó nằm trong các quyền lợi của nước Mỹ, nhiều đời Tổng thống Mỹ đã khẳng định vấn đề này. Việt Nam không được coi là đồng minh của Mỹ nhưng Mỹ muốn Việt Nam về kinh tế là đáng tin cậy. Hệ sinh thái của Việt Nam, môi trường kinh doanh của Việt Nam, vấn đề xã hội của Việt Nam có tốt thì mới có thể hỗ trợ trực tiếp cho sản xuất hợp tác đầu tư của Hoa Kỳ. Mỹ đánh giá Việt Nam là nước trí tuệ, dân trí không thấp, tinh thần khởi nghiệp cao và ta thấy rằng “khi mình gặp khó thì không bó cái khôn”.
Việt Nam làm gì để hợp tác với Hoa Kỳ?
Trong những năm vừa qua, Việt Nam thực sự đã có những bước tiến rất khả quan, nhất là trong lĩnh vực xóa đói giảm nghèo đã được phát triển một cách tương đối tốt. Còn tuyệt đối thì vẫn còn nhiều việc phải làm và việt Nam sẽ còn làm được nhiều hơn thế nữa. Mốc này không chỉ nằm ngoài giá trị về kinh tế mà xa hơn nữa là sự lớn mạnh của các doanh nghiệp Việt Nam trong nước và kinh tế. Việt Nam sẽ quyết định được sự tự chủ của đất nước mình.
Người Việt Nam phải biết mình đang ở đâu. Mình được trời cho cái bất động sản lớn nhất là một vị trí của quốc gia nên mình phải biết sống một cách khéo léo hơn để khỏi rơi vào cảnh bạc mệnh như dân tộc chúng ta đã đi qua cuộc chiến tranh khốc liệt. Đất nước mình không thể trở thành một Ukraine hay một nước nào khác, như vậy mình phải mạnh. Có mạnh mới tự cường tự chủ được và không bị bắt nạt.
Một nước phát triển bắt nguồn từ văn hóa xã hội. Chúng ta thử xem nhiều nước có xuất phát điểm hơn chúng ta rất nhiều, họ không mắc vào chiến tranh, họ hợp tác với Hoa Kỳ rất lâu, ví dụ như Philippines và Đài Loan. Philippines hợp tác với Mỹ và đầu tư với Mỹ lâu nhưng lại không phát triển bằng Đài Loan, đó cũng là nơi được Mỹ đầu tư như Philippines. Họ hơn hẳn Philippines, đó là bắt nguồn từ văn hóa, về lịch sử. Philippines đã bị thực dân Bồ Đào Nha làm cho người dân nước này không tự tin vào chính mình, dựa nhiều vào nước ngoài, không có niềm tin vào nhà nước.
Việt Nam mình phải biết mình, phải sống làm sao không phật lòng những người có khả năng gây khó cho mình. Cụ thể là song song với việc kết giao làm ăn với Mỹ thì phải kết giao chặt chẽ với những nước như Trung Quốc, Nga, Nhật Bản, Ấn Độ, Hàn Quốc… Cơ hội kinh tế hiện nay trong thời điểm thế giới đang phân cực, xung đột ở mọi nơi, đối đầu xung đột giữa các nước lớn trở nên rất căng thẳng. Một thực tế đang diễn ra, Hoa Kỳ không chơi được với Trung Quốc và Nga. Trong khi đó, Việt Nam lại chơi được với tất cả mọi người do sự ứng xử khéo léo của chiến lược ngoại giao Việt Nam trong thời gian vừa qua. Mở ra Việt Nam làm bạn với các nước, đa dạng hóa, đa phương hóa, cân bằng, chủ động và độc lập. Đó là sự hậu thuẫn, có một giá trị rất lớn để Việt Nam nắm bắt được thời cơ, cơ hội và trong đó là cơ hội hợp tác với Mỹ lên một tầm mới. Các nhà bình luận cho rằng Việt Nam lúc này là điểm đến của các nước.
Các nước cần đến Việt Nam. Về tương lai, có thể Việt Nam là chỗ trung chuyển và là trung gian trong mối quan hệ bang giao quốc tế và khu vực. Việt Nam có một thế để tạo ra một lực có thể làm được một số việc mà trước đây không thể thì bây giờ đã làm được điều đó. Ví dụ, Việt Nam đã làm cho những người bạn truyền thống thấy được việc Việt Nam chơi với nước này không có nghĩa Việt Nam đã phải trả giá cho quan hệ đó. Quan hệ của chúng ta với các nước là để thúc đẩy cho sự phát triển, mọi người đều phát triển và rõ ràng những người bạn qua chuyện này cũng có thể có lợi trong các mối quan hệ với người bạn mới của Việt Nam. Thời điểm này tạo cho Việt Nam các vận hội mới. Đây là một cơ hội thực sự sẽ làm thay đổi lịch sử của đất nước.
Tuy nhiên các nhà quan sát tình hình thế giới cho rằng bên cạnh những cơ hội như vậy Việt Nam có nắm bắt được những cơ hội này hay không. Điều này không phải chỉ là quyết định của nhà nước mà là chuyển biến của cả dân tộc. Cụ thể là:
Các doanh nghiệp cũng như người dân phải bớt mong đợi vào nhà nước. Mỗi khi có một chuyện gì đó thì yêu cầu nhà nước giúp đỡ, họ quên rằng nhà nước cũng chỉ là một “doanh nghiệp” vì có thu có chi, chỉ có một điều đó là nhà nước có khả năng hơn doanh nghiệp trong việc phát hành tiền tệ hoặc huy động nguồn nhân lực vốn của toàn dân. Nhưng điều này không thể làm mãi được. Việc in tiền giải cứu chỉ là ngắn hạn, nhất thời. Trong một thời gian nhất định thì phải điều chỉnh. Đầu tư nước ngoài đến Việt Nam trong đó có Hoa Kỳ sẽ tạo ra vòng xoáy của đồng tiền, lan tỏa đồng tiền rất mạnh. Một tỷ đô la đầu tư vào Việt Nam sẽ lan tỏa, tạo ra hiệu ứng gấp 10, gấp 100 lần, từ đó kéo Việt Nam ra khỏi bờ vực suy thoái mà toàn cầu đang mắc phải. Nếu không có những cơ hội này thì chắc rằng vòng suy thoái của Việt Nam lúc này sẽ sa vào không khác gì các nước khác. Có thể từ 5-10 năm nữa sự hy vọng sẽ kéo Việt Nam ra khỏi vòng xoáy suy thoái.
Nhìn vào lịch sử phát triển của thế giới, nhất là nước Mỹ. Một câu hỏi đặt ra là tại sao họ có những đồng minh như nước Anh, là vì họ chia sẻ nền văn hóa xã hội. Người Anh cũng nghĩ như Mỹ và người Mỹ nghĩ giống như người Anh, thành thử họ có lòng tin với nhau. Nền văn hóa của Mỹ được như ngày hôm nay về sự phát triển sáng tạo công nghệ là nhờ một phần lớn từ nền văn hóa của nước Anh. Từ tính hệ thống, tính khoa học và một phần của đức tính chính xác, chỉn chu, của người Đức và các nền văn hóa khác như Pháp… Mỗi thứ du nhập vào Mỹ một chút và cuối cùng là sức mạnh nằm ở chỗ nó hệ thống hóa mọi chuyện, nó không phụ thuộc vào sự tùy tiện của con người.
Con người là mối rủi ro hơn nhất trong mọi chuyện vì tính tùy tiện, sự sân si của nó dẫn đến cái tham một cách vô lý mà không lường trước được, không tiên lượng được. Vì vậy cần phải có một hệ thống để mọi người có lòng tin mà chơi được với nhau.
Những gì mình đang sống như hiện nay xuất phát từ gốc vài trăm năm trước đã hình thành tạo ra nó và chắc chắn nó là như vậy. Nhưng con người, đặc biệt là con người Việt Nam thì chắc chắn cũng là như vậy. Chúng ta phải tin rằng khi người ta thấy được cơ hội và có lòng tin vào một giá trị nào đó trong tương lai cho con cháu của họ thì họ có những quyết định rất táo bạo.
Tại sao Việt Nam lại phát triển chậm, có rất nhiều nguyên nhân thôi thúc như nhu cầu, kinh tế và đời sống thiếu chiến lược lâu dài. Khi khởi nghiệp thì phần lớn công việc hàng ngày của các chủ doanh nghiệp là sa vào công tác quản lý với sự năng động, thông minh nên các doanh nghiệp rất thành công. Với thành quả như vậy nên các doanh nghiệp đều quen với cách quản lý, đấy là sự phát triển ở cấp độ thấp, thường là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Nhưng khi doanh nghiệp phát triển vượt bậc thì họ cần phải có một quản trị để quản một hệ thống và chính người chủ doanh nghiệp không thể tự quản và kiểm tra được. Đây là một yếu điểm, là một tồn tại của các doanh nghiệp Việt Nam. Hệ thống quản trị sẽ tự quản và kiểm tra các hoạt động của doanh nghiệp. Một nhược điểm nữa cũng thường xuất hiện của các chủ doanh nghiệp là họ sợ giao cho hệ thống thì họ sẽ mất quyền, đây là một sự hiểu sai. Một nhà kinh tế đã vạch ra lập luận rất kỹ đó là hệ thống quản trị cho phép người lãnh đạo, người chủ doanh nghiệp buông gánh nặng quản lý hàng ngày. Buông nhưng không bỏ. Giá trị sở hữu là quan trọng thì điều này họ vẫn đảm bảo. Người chủ doanh nghiệp vẫn có quyền kiểm tra, phát hiện, điều chỉnh khi có những vấn đề mới xuất hiện để tránh rủi ro. Hệ thống quản trị cho phép công ty phát triển một cách bền vững, nó còn góp phần vào phát triển kinh tế vĩ mô của đất nước bằng các giá trị thương hiệu quốc gia dựa trên tổng giá trị của các công ty. Hệ thống quản trị còn cho phép sự kế thừa những tài sản mà mình tạo ra.
Thực tế trong điều hành của doanh nghiệp, thậm chí của nhà nước nhiều người vẫn chưa hiểu rõ, chưa phân biệt rõ vấn đề này. Quản trị khác với quản lý, quản lý là xử lý các công việc hàng ngày của công ty, gắn với các luật pháp, quy trình… Còn quản trị là hệ thống kiểm soát để có một mức độ kỷ cương tối thiểu để khi người lãnh đạo muốn làm gì thì sẽ làm được với mức độ rủi ro thấp nhất có thể. Ví dụ trong một hệ thống rất quan trọng đó là kỷ cương đúng mức, là cần phải có những thành viên độc lập trong hội đồng quản trị. Các chuyên gia về kinh tế nhận xét là chưa thấy một công ty nào trong nước chú ý tới các thành viên độc lập trong hội đồng quản trị. Họ làm vì luật bắt buộc phải như vậy, nhưng họ không thấy được giá trị của người này. Người độc lập trong hội đồng quản trị có một giá trị rất lớn, họ đảm bảo được các kỷ cương của hệ thống.
Việt Nam làm ăn với Mỹ thì buộc mình phải theo hệ thống của họ. Điều đó sẽ giúp cho mình có phương pháp làm việc và giúp cho phía đối tác có một lòng tin đối với mình hơn. Điều đó có nghĩa là Mỹ sẽ áp đặt hệ thống quản trị lên hoạt động của doanh nghiệp mình. Người Mỹ đến Việt Nam thì họ sẽ chú trọng tìm được những người mà họ có thể hợp tác được. Những người đó có đủ khả năng thực hiện được những lời hứa. Nó không chỉ phụ thuộc vào khả năng của con người họ, nó phụ thuộc vào môi trường có cho phép thực hiện lời cam kết hay không.
Trong giới doanh nghiệp nước ngoài, thậm chí cả một số nhà ngoại giao. Họ đưa ra nhận xét Việt Nam rất thân thiện, chính sách thì cởi mở. Chính phủ mở ra những khả năng rất tốt và đưa ra rất nhiều lời cam kết, chỉ có điều, giữa hứa và làm đều khác nhau. Nhiều người hứa nhưng mà không làm được cho nên họ rất mất lòng tin và đó cũng là điều lo lắng của các doanh nghiệp nước ngoài. Chúng ta phải rất coi trọng và chú ý tiếng nói của người nước ngoài. Làm sao cho những điều làm được thì hãy hứa.
Nhìn vào các nước, họ đã ở một trình độ cao trong hệ thống quản trị, người Nhật xử lý rủi ro tốt hơn người Mỹ nhưng người Mỹ thì phải rõ ràng đâu đó thì họ mới làm. Chúng ta đã nhìn thấy được lợi ích hợp tác làm ăn với Mỹ thì phải tìm mọi cách để người Mỹ có thể tin rằng họ có thể làm được việc gì đó ở Việt Nam. Đây cũng là một vấn đề để chúng ta tận dụng thời cơ này hoàn thiện nội lực của mình, đáp ứng các yêu cầu của phía Mỹ.
Thế giới diễn biến rất sôi động trong một bối cảnh phân cực, chỉ Việt Nam mới nói chuyện được với các quốc gia. Việt Nam luôn hứa trải thảm đỏ để đón các nhà đầu tư, cho nên chúng ta phải tìm mọi cách thực hiện được lời hứa đấy. Không nên hứa những vấn đề nằm ngoài khả năng. Người nước ngoài đánh giá rất tốt về Việt Nam, về cái cần cù, chịu khó, chủ động và họ đánh giá rất cao về tinh thần khởi nghiệp mạnh mẽ của Việt Nam. Tuy nhiên cũng có nhiều vấn đề Việt Nam chưa đạt đến tầm quản lý hiện đại. Ví dụ, như luật pháp, vấn đề giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực nó sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến làm ăn. Chúng ta chưa có một đội ngũ nhân lực đủ tốt cho nên phải chuẩn bị cho giáo dục để tạo ra những người tốt hơn từ năng lực đến kỹ năng, ý thức về văn hóa doanh nghiệp thì môi trường sản xuất mới tốt hơn, dễ dàng hợp tác với Mỹ và ngược lại người Mỹ làm việc với người Việt Nam tốt hơn.
Việc hợp tác chiến lược toàn diện với Hoa Kỳ sẽ tạo cho tất cả các doanh nghiệp trong nước có cơ hội tiếp cận với nền sản xuất hiện đại. Mong muốn trong chiến lược của Mỹ là họ muốn xây dựng một hệ sinh thái ở Việt Nam. Khi làm ăn với nước Nhật trong những năm vừa qua thì các công ty lớn của Nhật phải mang theo hệ sinh thái của họ vào Việt Nam bao gồm những yêu cầu cụ thể, họ cần tìm những đối tác ở trong nước để hợp tác với họ. Vì vậy, từ việc đào tạo, tư vấn kỹ năng, tư vấn chính sách, thiết kế môi trường… các doanh nghiệp trong nước đều có cơ hội tham gia. Khác với người Nhật, người Mỹ sẽ cùng với Việt Nam xây dựng hệ sinh thái tại Việt Nam để đảm bảo yêu cầu sản xuất của họ. Đây là điều rất có lợi cho Việt Nam.
Cơ hội này lãnh đạo hai nước đã thỏa thuận và những thông tin về hợp tác của hai bên đều đã được công bố. Phần còn lại là do các doanh nghiệp nắm bắt cơ hội thế nào, làm thế nào đó là vấn đề tạo ra một nội lực.
Nội lực có nghĩa là phải đánh giá được mình đang ở đâu, mình có thể làm được gì, và mình muốn tiếp cận các cơ hội nào, đòi hỏi điều kiện nào và mình phải chuẩn bị ra sao, đó là những vấn đề tạo nên nội lực quan trọng nhất. Sự thực nội lực không phải chỉ kỹ năng, mà kỹ năng thì có thể học được. Nhưng việc đào tạo giờ cũng đã thay đổi rất nhiều. Các trường đại học đào tạo kỹ sư bán dẫn nhưng chưa chắc đã kiếm được việc làm ngay sau khi ra trường. Việc đào tạo theo lối cũ phải tập trung nguồn vốn đầu tư rất lớn, kể cả thuê giáo sư có tay nghề cao, nhưng kết quả là kỹ sư không kiếm được việc làm vì nó đã lạc hậu so với tình hình phát triển. Cho nên để tăng cường nội lực thì các nhà chuyên gia kinh tế chỉ ra rằng Việt Nam nên tiếp cận với những công ty, những tập đoàn lớn về công nghệ cao để thỏa thuận với họ cùng đào tạo những nhân sự mà mình cần. Đây là cơ hội rất lớn, Chính phủ, các doanh nghiệp Việt Nam cần phải nắm bắt nó. Vừa qua họ đánh giá rất cao Thủ tướng Phạm Minh Chính đã làm việc với nhiều doanh nghiệp về công nghệ bán dẫn và chip, và đã đạt được các thỏa thuận trực tiếp với họ về việc đào tạo nguồn nhân lực cho sản xuất chip. Trước mắt có đến 50.000 người Việt Nam do các doanh nghiệp Mỹ, Đài Loan trực tiếp đào tạo.
Tuy vậy, kỹ năng làm việc thì doanh nghiệp nước ngoài có thể đào tạo giúp mình. Nhưng văn hóa doanh nghiệp lại là trách nhiệm của Chính phủ, của doanh nghiệp Việt Nam phải xây dựng. Dựa trên những giá trị văn hóa truyền thống của Việt Nam, những khát vọng mưu cầu hạnh phúc, những giá trị về lòng yêu nước, những giá trị thân thiện với mọi người và tôn trọng chữ tín… tất cả những giá trị này tạo ra cho người nước ngoài tin tưởng vào các doanh nghiệp Việt Nam. Đó là cái cốt lõi trong văn hóa doanh nghiệp. Chúng ta phải làm sao, sống như nào để tạo được chữ tín với người mình hợp tác. Chữ tín được khẳng định là mình nói cái gì thì mình làm cái đó, cái gì không làm được thì mình không hứa. Những thông tin nắm được cho thấy rằng doanh nghiệp Mỹ rất coi trọng vấn đề chữ tín khi làm ăn với Việt Nam. Điều này không chỉ với người Mỹ mà nước nào vào làm ăn ở Việt Nam cũng mong như vậy. Chữ tín của Việt Nam được thể hiện trong việc tổ chức nội lực của các công ty là vấn đề quản trị chứ không phải là quản lý, làm sao xây dựng được hệ thống kỷ cương để gây lòng tin với đối tác, để họ cùng với chúng ta thực hiện một công việc, một sản phẩm nào đó và chúng ta thể hiện là cùng đồng hành với họ, thực hiện yêu cầu của họ. Chúng ta phải làm cho Mỹ thấy được hệ thống quản trị đảm bảo kỷ cương, đảm bảo được cam kết của mình đối với họ.
Lịch sử phát triển của chúng ta ngay từ thời mở cửa những năm đầu thập niên 90, chúng ta cũng có rất nhiều cơ hội để làm ăn nhưng cốt lõi là vấn đề nội lực thì chúng ta chưa đáp ứng được. Nhất là chưa nắm bắt được nhu cầu của đối tác, chưa tận dụng cơ hội đặc biệt là vấn đề xây dựng văn hóa doanh nghiệp ở một mức độ nhất định nên chúng ta gặt hái được kết quả một cách hạn chế.
Ngày nay trong quan hệ với các đối tác chiến lược toàn diện là các cường quốc trên thế giới như Mỹ, Trung Quốc chúng ta đã có rất nhiều kinh nghiệm về xây dựng nội lực. Nhưng để đáp ứng được yêu cầu của các đối tác chúng ta phải có một tư duy mới để nhận biết được những biến đổi của thời đại, điều chỉnh thể chế năng động phù hợp với tình hình phát triển, để đón nhận thời cơ và cơ hội, nhất là xây dựng được một hệ thống quản trị trong đó giá trị văn hóa trong doanh nghiệp đi vào thực chất. Điều đó sẽ là điều kiện để chúng ta hợp tác làm ăn với nước ngoài đặc biệt là thực hiện hợp tác chiến lược toàn diện với Hoa Kỳ mà Chính phủ hai nước đã ký.■