Nhìn lại 5 năm trở lại đây, Covid-19 đã gây ra những ảnh hưởng nghiêm trọng đến nền kinh tế Việt Nam qua nhiều phương diện. Trong giai đoạn Covid, việc đóng cửa nhà máy, hạn chế di chuyển, và thiếu hụt nguyên vật liệu đã khiến sản xuất đình trệ. Xuất khẩu gặp khó khăn do các thị trường quốc tế thu hẹp và gián đoạn logistics. Ngành du lịch, chiếm tỷ trọng lớn trong GDP, chịu ảnh hưởng nặng nề do đóng cửa biên giới và hạn chế đi lại. Lượng khách quốc tế giảm mạnh, khiến hàng ngàn doanh nghiệp lữ hành, khách sạn và dịch vụ phải tạm ngừng hoạt động hoặc phá sản. Nhiều doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và vừa, buộc phải đóng cửa hoặc thu hẹp quy mô kinh doanh. Tăng trưởng GDP của Việt Nam năm 2020 chỉ đạt 2,91%, mức thấp nhất trong hàng chục năm qua.

Việt Nam bước ra khỏi đại dịch và vẫn tiếp tục đối mặt với nhiều thách thức do dư âm của dịch bệnh. Thách thức lớn nhất chính là thúc đẩy nền kinh tế vượt qua những trì trệ của đại dịch. Khó khăn còn lớn hơn khi trì trệ đến từ tâm trạng nhiều cán bộ và doanh nghiệp. Nhiều văn bản luật, nghị định không phù hợp với yêu cầu phát triển hoặc chồng chéo, luật sau phủ định luật trước, dẫn đến hồi tố nhiều vụ việc. Điều đó đã tạo tâm lý sợ sai, sợ trách nhiệm đã trở thành một rào cản đối với sự phát triển. Nhiều cán bộ nhà nước sợ đưa ra quyết định vì lo ngại có thể vi phạm các quy định pháp luật. Nhiều doanh nghiệp lo ngại khi tham gia các dự án vì sợ sai phạm. Nhiều dự án lớn, đặc biệt là trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng và đầu tư công, bị đình trệ vì các bên liên quan không dám quyết định. Môi trường kinh doanh vì thế kém năng động. Cả doanh nghiệp và cán bộ đều chọn cách an toàn, không dám thử nghiệm hoặc đề xuất các giải pháp mới, khiến nền kinh tế mất đi cơ hội đổi mới.

Như vậy, những trì trệ từ nguyên nhân dịch bệnh bên ngoài lẫn tâm lý lo lắng bên trong đã ít nhiều cản trở Việt Nam cất cánh. May mắn là bối cảnh công nghệ Thời đại 4.0 và trí tuệ nhân tạo (AI) lại mở ra ngay sau đó, mang lại nhiều cơ hội lớn cho Việt Nam. Việt Nam đã là một trung tâm sản xuất công nghệ cao và có tiềm năng trở thành trung tâm công nghệ AI của khu vực Đông Nam Á nhờ năng lực  và vị thế nội tại mạnh mẽ. Thời đại 4.0 và AI mở cánh cửa hiện đại hóa nền kinh tế và gia tăng vị thế quốc tế của Việt Nam, giúp đất nước có thể trở thành một điểm sáng về công nghệ và đổi mới sáng tạo trong khu vực.

Các nhà lãnh đạo tinh hoa hiện nay của Việt Nam đã nhận thức rõ những thực tế kể trên và trong thời gian qua đã quyết định phải tăng tốc để đưa đất nước vượt lên khỏi những trì trệ và tận dụng cơ hội. Sự tăng tốc trước hết nằm ở tư tưởng, tư duy của giới tinh hoa. Đảng xác định một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Kỷ nguyên vươn mình là khái niệm mang ý nghĩa lớn, với nội hàm về một kỷ nguyên mới trong đó có sự chuyển động mạnh mẽ, dứt khoát, quyết liệt, vượt qua mọi thách thức nhằm đạt được những thành tựu vĩ đại. Đó là kỷ nguyên đột phá trong bối cảnh mới, để vươn lên trở thành nước mạnh, sánh vai với các cường quốc năm châu. Mục tiêu cụ thể trong kỷ nguyên mới là đến năm 2030, Việt Nam trở thành nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045 trở thành nước phát triển, có thu nhập cao, phát huy được bản sắc của dân tộc đối với quốc tế.

Mục tiêu cụ thể trong kỷ nguyên mới là đến năm 2030, Việt Nam trở thành nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045 trở thành nước phát triển, có thu nhập cao. Ảnh minh họa

Đây là xác định hết sức đúng đắn nhưng đầy khát vọng. Để đạt mục tiêu trở thành quốc gia có thu nhập cao vào năm 2045, ước tính nền kinh tế Việt Nam cần tăng trưởng với tốc độ bình quân hàng năm 6% liên tục trong 25 năm tới và phải tăng hơn gấp ba thu nhập theo đầu người hiện nay. Kỷ nguyên mới đòi hỏi tốc độ tăng trưởng tương lai còn cao hơn tốc độ tăng trưởng đầy ấn tượng trước đây của Việt Nam kể từ thập kỷ 1990. Mới đây, trong Hội nghị Tổng kết kinh tế năm 2024, Thủ tướng Chính phủ đã lạc quan xác định cả nước phấn đấu đưa tăng trưởng những năm tiếp theo lên 2 con số.

Chúng ta không thể tăng trưởng như vậy nếu không tăng tốc trong tư duy của cả hệ thống chính trị, doanh nghiệp, người dân. Chính vì thế, người lãnh đạo cao nhất của Đảng đã tuyên bố cần “khơi dậy mạnh mẽ hào khí dân tộc, tinh thần tự chủ, tự tin, tự lực, tự cường, tự hào dân tộc, khát vọng phát triển đất nước, kết hợp chặt chẽ sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại” để vươn tới mục tiêu này. Đảng xác định thời điểm bắt đầu kỷ nguyên mới là Đại hội XIV, từ đây, mọi người dân Việt Nam, trăm triệu người như một, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đoàn kết nhất trí, chung sức đồng lòng, tranh thủ tối đa thời cơ, thuận lợi, đẩy lùi nguy cơ, thách thức, đưa đất nước phát triển toàn diện, mạnh mẽ, bứt phá và cất cánh. Có thể khẳng định, tăng tốc tư tưởng chính là điểm khởi đầu quan trọng để đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình.

Điểm tăng tốc thứ hai là tăng tốc về cải cách thể chế, pháp luật. Cơ quan lập pháp thực sự đã quyết liệt chung tay với Đảng và Chính phủ thúc đẩy sự phát triển của đất nước. Chỉ trong năm 2024, Quốc hội đã thông qua 31 luật và 42 nghị quyết, chiếm gần 50% tổng số nhiệm vụ lập pháp đã hoàn thành từ đầu nhiệm kỳ đến nay. Đặc biệt, các luật cập nhật mới và sửa đổi được Quốc hội thông qua đều liên quan tới những vấn đề sát sườn cho công cuộc phát triển kinh tế và ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động doanh nghiệp như quy hoạch, đất đai, tài nguyên, môi trường. Quốc hội cũng thúc đẩy thảo luận Luật Nhà giáo nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật về nhà giáo, khắc phục các bất cập trong quản lý nhà nước về nhà giáo hiện nay, kiến tạo các chính sách đột phá để phát triển đội ngũ nhà giáo.

Quốc hội đã nhanh chóng quyết định chủ trương đầu tư đường sắt tốc độ cao trục Bắc – Nam và ủng hộ chủ trương đầu tư dự án điện hạt nhân Ninh Thuận, mở ra cơ hội lớn cho sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước. Phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia về phát triển văn hóa giai đoạn 2025 – 2035 cũng là một điểm sáng nhằm phát triển bền vững về con người và bảo đảm môi trường sống an toàn, lành mạnh cho nhân dân. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Bảo hiểm Y tế được thông qua, cho phép người có thẻ bảo hiểm y tế mắc bệnh hiếm, bệnh hiểm nghèo được lên thẳng cơ sở khám chữa bệnh cấp chuyên sâu mà không cần thủ tục chuyển tuyến, tăng cường niềm tin của nhân dân. Quốc hội cũng đã thông qua Nghị quyết về Quy hoạch không gian biển quốc gia thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050, tạo lập cơ sở cho quản lý các hoạt động khai thác, sử dụng tài nguyên và bảo vệ môi trường biển hiệu quả.

Trong nỗ lực cải cách thể chế, năm 2024, Đảng đã lãnh đạo cuộc cải cách hành chính sâu rộng nhằm tinh gọn bộ máy nhà nước, nâng cao hiệu lực và hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị. Quá trình này bao gồm việc sắp xếp, hợp nhất các cơ quan, đơn vị, giảm số lượng biên chế và ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý hành chính. Chính phủ đã lên phương án thực hiện việc giảm số lượng các đơn vị trong các bộ, cơ quan ngang bộ và cơ quan thuộc Chính phủ. Việc giảm số lượng cán bộ, công chức, viên chức được thực hiện đồng bộ với sắp xếp tổ chức bộ máy. Công việc này phải xong trong tháng 12/2024 và hoàn thành trong quý 1 năm 2025. Theo thông tin từ Bộ Nội Vụ, dự kiến cơ cấu tổ chức Chính phủ còn 13 bộ, 04 cơ quan ngang bộ (giảm 05 bộ), 05 cơ quan thuộc Chính phủ (giảm 03 cơ quan), giảm 12/13 Tổng cục và tương đương, 500 cục và tương đương thuộc Bộ, thuộc Tổng cục, 177 Vụ thuộc bộ, cơ quan ngang bộ và tương đương; giảm 190 đơn vị sự nghiêp công lập thuộc Bộ. Hệ thống Đảng cũng thực hiện tinh gọn, nhiều ban Đảng sáp nhập. Hệ thống đào tạo lý luận và nghiên cứu lý luận của Đảng cũng tập trung vào một khối ở Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.

Sự tăng tốc thứ ba tới từ nỗ lực hành động quyết liệt của Chính phủ trong thời gian qua để hoàn thành nhanh chóng mọi mục tiêu phát triển.  Về cơ sở hạ tầng, trong năm 2024, dự án đường sắt tốc độ cao Bắc – Nam đã được Chính phủ Việt Nam thúc đẩy và thông qua với tiến độ nhanh chóng. Dự án có tổng mức đầu tư kỷ lục 67 tỷ USD này sẽ là dự án lớn nhất được triển khai của Việt Nam, phấn đấu hoàn thành toàn tuyến vào năm 2035, trước 10 năm so với dự kiến trước đó. Để đảm bảo tiến độ và hiệu quả, Chính phủ sẽ áp dụng 19 cơ chế, chính sách đặc thù, đặc biệt cho riêng dự án này, nhằm huy động tối đa nguồn lực và sự tham gia của các doanh nghiệp trong nước. Việc thông qua nhanh chóng dự án đường sắt tốc độ cao Bắc – Nam thể hiện quyết tâm của Chính phủ và Quốc hội trong việc hiện đại hóa hạ tầng giao thông, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội và nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân. Chính phủ tăng tốc chỉ đạo dự án đường sắt Lào Cai – Hà Nội – Hải Phòng kết nối với Côn Minh (Trung Quốc).

Chính phủ Việt Nam cũng đã đặt mục tiêu đầy tham vọng, hoàn thành 3.000 km đường bộ cao tốc vào cuối năm 2025. Để đạt được mục tiêu này, Bộ Giao thông Vận tải đã triển khai kế hoạch chi tiết, bao gồm việc khởi công 19 dự án và hoàn thành 50 dự án trong năm 2025. Đặc biệt, tuyến đường bộ cao tốc Bắc – Nam được ưu tiên với kế hoạch nối thông toàn tuyến trong năm 2025. Đối với khu vực Đồng bằng sông Cửu Long, mục tiêu đặt ra là hoàn thành 600 km đường bộ cao tốc vào năm 2026, trong đó tuyến cao tốc Cần Thơ – Cà Mau dự kiến hoàn thành trước ngày 31/12/2025, nhằm kết nối thông suốt từ Lạng Sơn đến Cà Mau. Để làm được như vậy, Chính phủ đã tập trung nguồn lực, tháo gỡ khó khăn, đẩy nhanh tiến độ giải phóng mặt bằng. Việc hoàn thành 3.000 km đường bộ cao tốc vào năm 2025 góp phần tạo không gian phát triển mới, kết nối các vùng kinh tế và góp phần đẩy nhanh tăng trưởng của đất nước.

Về hàng không và cảng biển, Chính phủ tăng tốc mở rộng nhà ga hành khách T2, Cảng hàng không Quốc tế Nội Bài, giúp nâng công suất thiết kế của của Nội Bài lên 30 triệu hành khách mỗi năm. Nhà ga T3 sân bay Tân Sơn Nhất cũng được tăng tốc để dự kiến hoàn thành dịp 30/4/2025, nâng tổng công suất khai thác ở sân bay Tân Sơn Nhất lên 50 triệu khách mỗi năm. Chính phủ đã chỉ đạo tăng tiến độ triển khai dự án sân bay Long Thành, Đồng Nai, dự án xây dựng lớn nhất Việt nam hiện nay, cố gắng đáp ứng kế hoạch đưa vào khai thác trước ngày 31/8/2026. Chính phủ cũng đã gấp rút phê duyệt quy hoạch cảng biển theo đó đến năm 2030, hệ thống cảng biển Việt Nam sẽ đáp ứng thông qua lượng hàng hóa từ 1.249 đến 1.494 triệu tấn, đặc biệt ưu tiên phát triển các khu bến cảng cửa ngõ quốc tế Lạch Huyện, Cái Mép – Thị Vải và cảng trung chuyển quốc tế Cần Giờ. Trong nhóm 15 cảng biển loại 1, các cảng biển Thanh Hóa, Đà Nẵng, Khánh Hòa, TP.HCM quy hoạch tiềm năng thành cảng biển đặc biệt. Chính phủ cũng chỉ đạo quyết liệt, yêu cầu rút ngắn tiến độ hơn nữa, hoàn thành vành đai 4 nối Hà Nội với các tỉnh xung quanh vào cuối năm 2025.

Cảng hàng không quốc tế Long Thành (tỉnh Đồng Nai) là dự án trọng điểm quốc gia, là sân bay lớn nhất nước ta trong tương lai với diện tích gần 54 km2, công suất phục vụ lên đến 100 triệu hành khách/năm, tương đương dân số Việt Nam. Ảnh minh họa

Về hạ tầng điện, Chính phủ đã gấp rút xây dựng và khánh thành dự án đường dây 500 kV mạch 3 vốn đầu tư gần 1 tỷ USD, với gần 520 km đường dây mạch kép giúp kéo điện ra miền Bắc. Dự án dự kiến 3 năm nhưng được triển khai thần tốc trong 6 tháng thể hiện quyết tâm lớn của Chính phủ không để lặp lại tình trạng thiếu điện ở miền Bắc trong mùa cao điểm. Chính phủ đặc biệt thúc đẩy các giải pháp phát triển năng lượng sạch, năng lượng tái tạo trong năm 2024, hướng tới mục tiêu tỷ lệ các nguồn năng lượng tái tạo trong tổng cung năng lượng đạt khoảng 15 – 20% vào năm 2030 và 25 – 30% vào năm 2045.

Hạ tầng số cũng được Chính phủ thúc đẩy quyết liệt với tốc độ chưa từng thấy. Việt Nam đã xác định dữ liệu là nguồn tài nguyên mới, đóng vai trò then chốt trong quá trình chuyển đổi số quốc gia. Chính phủ đã phê duyệt “Chiến lược Dữ liệu Quốc gia đến năm 2030” với mục tiêu xây dựng hạ tầng dữ liệu mạnh mẽ, kết nối, chia sẻ và an toàn, phục vụ phát triển kinh tế – xã hội toàn diện. Dự án này do Tổng Bí thư Tô Lâm làm Trưởng ban.

Các mục tiêu lớn như đưa tỷ trọng kinh tế số lên 20% GDP, phổ cập dịch vụ mạng di động 4G/5G và đảm bảo tỷ lệ dân số có tài khoản thanh toán điện tử trên 50% đều được thúc đẩy mạnh mẽ. Đến năm 2030, Việt Nam sẽ trở thành quốc gia số, tiên phong thử nghiệm các công nghệ và mô hình mới để đổi mới căn bản hoạt động quản lý, điều hành của Chính phủ, hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cũng phương thức sống của người dân. Việc triển khai đồng bộ các chiến lược và chương trình này thể hiện quyết tâm của Việt Nam trong việc tận dụng cơ hội từ cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư để thúc đẩy tăng trưởng và nâng cao chất lượng cuộc sống nhân dân.

Đảng xác định nguồn nhân lực chính là yếu tố đặc biệt quan trọng và cần tăng tốc đầu tư bài bản để phát triển lâu dài, hiệu quả. Việt Nam đã đặt mục tiêu đào tạo 50.000 kỹ sư công nghệ bán dẫn đến năm 2030, một mục tiêu đầy tham vọng. Các trường đại học và doanh nghiệp cũng đang tăng tốc đào tạo nhân lực lĩnh vực trí tuệ nhân tạo (AI), đáp ứng yêu cầu thị trường lao động. FPT năm vừa qua cũng đã động thổ Trung tâm trí tuệ nhân tạo ở Quy Nhơn để thực hiện mục tiêu này. Chính phủ cũng đã chỉ đạo cho các đơn vị liên quan thúc đẩy đề án về đào tạo nguồn nhân lực cho ngành điện hạt nhân để phục vụ cho việc Việt Nam bước chân vào lĩnh vực mới mẻ này. Các trường Đại học thuộc nhóm ngành xây dựng và giao thông cũng đã gấp rút khai giảng chương trình kỹ sư chuyên ngành Đường sắt tốc độ cao và Đường sắt đô thị nhằm đáp ứng nhu cầu nhân lực chất lượng cao, tự sản xuất thiết bị, xây dựng cơ sở hạ tầng cho các dự án hạ tầng giao thông trọng điểm, đặc biệt là tuyến đường sắt tốc độ cao Bắc Nam.

Thành quả của tăng tốc trong tư duy, cải cách và hành động như đã nói ngay lập tức thể hiện trong những thành quả kinh tế đạt được trong năm 2024. Theo báo cáo mới nhất của Tổng cục Thống kê, GDP năm 2024 ước tính tăng 7,09% so với năm trước, đây là mức tăng trưởng nhanh bậc nhất so với các quốc gia trong khu vực và thế giới. Quy mô GDP theo giá hiện hành năm 2024 đã đạt 476,3 tỷ USD. GDP bình quân đầu người năm 2024 tương đương 4.700 USD, tăng 377 USD so với năm 2023.

Điều quan trọng không kém là niềm tin đã quay trở lại và những tư duy tiêu cực, trì trệ đã giảm bớt, thể hiện rõ nhất ở khu vực doanh nghiệp. Tính chung trong năm 2024, cả nước có hơn 233,4 nghìn doanh nghiệp đăng ký thành lập mới và quay trở lại hoạt động, tăng 7,1% so với năm trước. Bình quân một tháng có gần 19,5 nghìn doanh nghiệp thành lập mới và quay trở lại hoạt động là những tín hiệu rất đáng mừng.

Thành quả của tăng tốc là nhiều chỉ số của Việt Nam đã tăng tiến vượt mong đợi. Chỉ số đổi mới sáng tạo của Việt Nam được xếp hạng 44/133 quốc gia, nền kinh tế, tăng 2 bậc so với năm 2023. Theo xếp hạng chính phủ điện tử toàn cầu của Liên hợp quốc, Việt Nam vươn lên vị trí thứ 71/193 quốc gia, tăng 15 bậc so với năm 2022, đây là lần đầu tiên Việt Nam được xếp vào nhóm EGDI ở mức Rất cao và vươn lên vị trí xếp hạng cao nhất kể từ khi bắt đầu tham gia đánh giá EGDI của Liên hợp quốc năm 2003. Tính chung năm 2024, khách quốc tế đến nước ta đạt gần 17,6 triệu lượt người, tăng 39,5% so với năm trước và đã bằng 97,6% năm 2019 – năm chưa xảy ra dịch Covid-19. Đây là những dấu hiệu cho thấy Việt Nam đã sẵn sàng phục hồi du lịch từ khủng hoảng Covid, trở thành điểm đến của du khách toàn cầu.

Việt Nam tiếp tục gia tăng vị thế như một trung tâm sản xuất và thu hút vốn đầu tư của khu vực. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện tại Việt Nam năm 2024 ước đạt 25,35 tỷ USD, tăng 9,4% so với năm trước. Tính chung cả năm 2024, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa đạt 405,53 tỷ USD, tăng 14,3% so với năm trước, trong nhóm hàng công nghiệp chế biến chế tạo đạt 356,74 tỷ USD, chiếm 88,0%. Đáng chú ý là xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp đạt 62 tỉ USD, chiếm 25% tổng xuất khẩu của năm 2024. Đây là con số đầy ý nghĩa, minh chứng cho nỗ lực cải thiện đời sống của người lao động trong lĩnh vực nông nghiệp. Như vậy, Việt Nam vẫn giữ nguyên đà tiến của mình như một mắt xích quan trong trong chuỗi cung ứng sản xuất ở châu Á, một vị thế rất quan trọng đối với sự phát triển nhanh của Việt Nam trong tương lai.

Những thành quả trên thực sự ấn tượng trong bối cảnh tình hình kinh tế, chính trị thế giới biến động khó lường và nhiều diễn biến thiên tai ảnh hưởng nghiêm trọng tới đất nước. Nhưng đúng như nhận định của Tổng cục Thống kê, với sự vào cuộc của cả Hệ thống chính trị, sự chỉ đạo, điều hành kịp thời, quyết liệt, sát sao của Chính phủ, và nỗ lực của địa phương, cộng đồng doanh nghiệp và nhân dân cả nước, nền kinh tế nước ta đạt mức tăng trưởng vượt mọi mục tiêu đề ra. Đây là tiền đề quan trọng để bước sang năm 2025, năm bản lề khi đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình hướng tới 100 năm thành lập nước, dấu mốc ghi nhận bước chuyển từ một quốc gia nhỏ bé nghèo nàn trở thành nước phát triển sánh vai với các cường quốc năm châu, đúng như nguyện ước của Chủ tịch Hồ Chí Minh.■

BÌNH LUẬN

BÀI BÌNH LUẬN KHÁC