Phù Nam từ một góc nhìn mới (kỳ 1)

Phù Nam là một thực thể lịch sử tồn tại trong khoảng 7 thế kỷ đầu Công nguyên nhưng để lại một di sản văn hóa rất đồ sộ. Vì nhiều lý do mà lịch sử của vương quốc này cho đến nay vẫn còn nhiều điều bí ẩn. Từ một cách nhìn mới, có thể thế thấy trên nhiều mặt, Phù Nam không hoàn toàn giống với những gì được các nhà nghiên cứu trước đây mô tả.

Quá trình nhận thức về lịch sử vương quốc Phù Nam

Nhận thức về lịch sử vương quốc Phù Nam là một quá trình. Trước khi Louis Malleret phát hiện ra di chỉ khảo cổ học Óc Eo vào năm 1944 người ta chỉ biết đến những dấu vết của một quốc gia cổ đại trên vùng đất Nam Bộ qua những ghi chép trong thư tịch Trung Hoa hoặc những bia cổ còn sót lại trên mặt đất. Người Pháp cũng đã từng đặt ra nhiều nghi vấn về những công trình thủy lợi cổ được tìm thấy trên các bản đồ không ảnh từ những năm 1930. Trong các thư tịch cổ Trung Quốc, sách Dị Vật chí của Dương Phù đời Đông Hán (23-220) là cuốn nói đến vương quốc Phù Nam sớm nhất, nhưng khi ấy những ghi chép trong sách còn hết sức sơ lược và mơ hồ[1]. Có nhiều tư liệu cho thấy những năm sau đó thương nhân và sứ giả Phù Nam thường xuyên có sự giao lưu với Giao Châu ở phía Bắc. Trong hơn nửa thế kỷ nằm dưới ách cai trị của Đông Ngô (210-263) những hoạt động ở Giao Châu, bao gồm cả quan hệ với Phù Nam cũng được ghi nhận trong các tài liệu lịch sử chính thức như Ngô thư trong bộ Tam Quốc chí[2]. Trong sách này những danh xưng Phù Nam quốc (扶南国), Phù Nam vương (扶南王) được sử dụng để chỉ dân cư và người đứng đầu quốc gia vùng đồng bằng Nam Bộ trong những thập niên đầu thế kỷ thứ III. Căn cứ vào những thông tin trong các thư tịch cổ Trung Hoa, từ cuối thế kỷ XIX, một số học giả châu Âu đã đưa ra giả thuyết về sự tồn tại của một vương quốc có tên Phù Nam trong khoảng thời gian từ đầu công nguyên đến khoảng thế kỷ VI-VII[3]. Sau này nhận thức về vương quốc ở vùng Nam Bộ còn được bổ sung thêm các tư liệu bi ký bằng chữ Phạn. Dựa vào đó có thể hình dung phạm vi của vương quốc Phù Nam được phân bố chủ yếu trong vùng hạ lưu sông Mê Kông và một phần ở khu vực biên giới Đông – Nam Campuchia.

Khi nhà khảo cổ học người Pháp Louis Malleret vào khai quật ở cánh đồng Óc Eo (nay thuộc huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang), hàng loạt nền móng kiến trúc xuất lộ và nhiều hiện vật được đưa lên khỏi lòng đất. Các di tích kiến trúc được phát hiện phần lớn là móng các công trình xây dựng bằng gạch vồ kiểu Ấn Độ. Cùng với đó còn thấy nhiều vật liệu kiến trúc khác với mật độ dày và quy mô phân bố khá rộng, cho phép hình dung về sự tồn tại của một đô thị. Những hiện vật tìm được phản ánh trình độ khá cao về cả đời sống vật chất và tinh thần của cư dân đô thị này. Sự hiện diện của nhiều loại tiền vàng, bạc, đồng kẽm còn là chỉ dấu về sự phát triển của thương mại. Phát hiện thu hút sự quan tâm đặc biệt của giới khoa học là hai đồng vàng giống với đồng tiền có in hình Antoninus Pius và Marcus Aurelius. Mặc dù việc lý giải bằng cách nào những hiện vật có nguồn gốc Nam Âu này đến được Óc Eo vẫn còn là một bí ẩn cần được dày công nghiên cứu, nhưng sự hiện diện tiền La Mã là minh chứng thuyết phục cho sự phát triển mạnh mẽ của một thương cảng quốc tế.

Bản đồ minh họa vương quốc Phù Nam, năm 200 Công nguyên. Nguồn: Bách khoa toàn thư Britannica (Lưu ý: Bản đồ thể hiện các đường biên giới hiện đại)

Sau phát hiện của Malleret, do chiến tranh nên công việc nghiên cứu khảo cổ học hầu như không có tiến triển nào đáng kể trong vòng hơn 30 năm. Các ấn phẩm liên quan đến Phù Nam chủ yếu là các công trình khảo cứu dựa vào các thư tịch cổ, những bi ký người Pháp đã công bố hoặc tìm hiểu lịch sử các địa danh. Hạn chế lớn của các nhà nghiên cứu trước năm 1975 là chưa đi sâu làm rõ mối quan hệ giữa những truyền thuyết và ghi chép trong cổ tịch về Phù Nam với những phát hiện khảo cổ học của Malleret và các học giả Pháp về văn hóa Óc Eo. Hơn nữa, các nhà nghiên cứu này hầu như không thấy có sự khác biệt rất căn bản giữa hai thời trước và sau khi vương quốc Phù Nam bị diệt vong[4]. Sau năm 1975 các cuộc khai quật khảo cổ học được tiếp tục thực hiện, nhưng chủ yếu theo yêu cầu nhận thức lịch sử – văn hóa của các tỉnh thuộc Nam Bộ. Kết quả những cuộc khai quật này đã kiểm chứng và mở rộng thành tựu nghiên cứu của Malleret, góp phần dựng nên bức tranh tương đối hoàn chỉnh về địa bàn phân bố và phân lập được các giai đoạn phát triển của văn hóa Óc Eo, từ đó cho cái nhìn cụ thể hơn về đời sống của cư dân Óc Eo[5]. Tuy nhiên có một hạn chế lớn trong nhận thức khoa học thời kỳ này là không quan tâm đúng mức đến việc tìm nguồn gốc chủ nhân văn hóa Óc Eo và lịch sử phát triển của vương quốc Phù Nam.

Một nhân tố mới trong công cuộc nghiên cứu văn hóa Óc Eo sau 1995 là sự góp mặt của các nhà khảo cổ học nước ngoài với sự tham gia của các học giả Pháp, Đức, Nhật Bản, trong đó đặc biệt phải kể đến vai trò của Piere-Yves Manguin, đại diện của Viện Viễn Đông Bác cổ. Những phát hiện mới trong các cuộc khai quật khảo cổ học trên đất Việt Nam và Campuchia đã cho thấy mối liên hệ mật thiết giữa trung tâm Óc Eo với vùng Ankor Borei (tỉnh Takeo). Tại Hội thảo “Văn hóa Óc Eo và Vương quốc Phù Nam” tổ chức năm 2004, một định hướng nghiên cứu quan trọng về Phù Nam đã được đưa ra. Đó là sự phân lập tiến trình lịch sử phát triển của Phù Nam thành hai thời kỳ: thời kỳ vương quốc (từ đầu Công nguyên đến đầu thế kỷ III) và thời kỳ đế chế (từ thế kỷ III đến đầu thế kỷ VII). Định hướng này phù hợp với các nguồn tư liệu thư tịch và khảo cổ, mở đường cho việc nghiên cứu lịch sử Phù Nam trong mối liên hệ rộng lớn với các vùng đất nằm ngoài lãnh thổ Việt Nam[6].

Một số vấn đề có tầm quan trọng đặc biệt trong nhận thức về Phù Nam là đặc điểm cư dân và thời kỳ “hậu Phù Nam”. Năm 2006, Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam đã cho ấn hành cuốn Lược sử vùng đất Nam Bộ Việt Nam, trong đó các tác giả dựa trên cứ liệu về ngôn ngữ, đặc trưng văn hóa… đã chứng minh cư dân chủ yếu đã xây dựng nên nhà nước Phù Nam thuộc ngữ hệ Nam Đảo (Malay-Polynesia). Những cư dân thuộc nhóm Môn-Khmer đến Nam Bộ phần đông là từ thế kỷ VII, sau khi Chân Lạp đánh bại Phù Nam. Cuốn sách này cũng chỉ ra rằng trong suốt thời gian khoảng mười thế kỷ (từ thế kỷ VII – XVII) vùng đất Nam Bộ hầu như không có sự quản lý chặt chẽ, hoàn toàn thiếu vắng các đơn vị hành chính và gần như bị bỏ hoang, cư dân thưa thớt và kém phát triển[7]. Một bước tiến quan trọng trong nhận thức khoa học về vương quốc Phù Nam là những kết quả nghiên cứu liên ngành quá trình hình thành và phát triển vùng đất Nam Bộ được công bố trong 10 tập chuyên khảo vào năm 2017, trong đó có một tập tập trung nghiên cứu giai đoạn lịch sử Nam Bộ từ thế kỷ VII trở về trước, tương ứng với quá trình hình thành và phát triển của Phù Nam[8].

Bia Tháp Mười. Đây là một bia đá cổ có khắc chữ viết, cao 189 cm, rộng 91 cm, được tạo tác vào thời Phù Nam (khoảng thế kỷ II đến thế kỷ III), được tìm thấy ở Tháp Mười (Đồng Tháp). Hiện vật đang được trưng bày trong Bảo tàng Lịch sử Thành phố Hồ Chí Minh. Ảnh: Bùi Thụy Đào Nguyên

Cho đến nay giới khoa học vẫn chưa tìm được những tài liệu xác thực đáng tin cậy về thời điểm xuất hiện của nhà nước Phù Nam. Hầu hết các nhà nghiên cứu đều dựa vào câu chuyện đậm chất huyền thoại được ghi chép trong cổ tịch Trung Hoa về cuộc hôn nhân của “nữ vương” bản địa với một nhân vật đến từ Ấn Độ. Cốt lõi lịch sử của câu chuyện mang tính huyền thoại này được chứng thực bằng các dữ kiện khảo cổ. Những dấu vết còn lại tại nơi được cho là cảng thị Óc Eo cho thấy đây không phải chỉ là sản phẩm ngoại nhập. Vào thời kỳ cận Óc Eo vùng đất này đã phát triển nghề trồng lúa năng suất cao, đạt tới trình độ một nền văn minh nông nghiệp thực sự. Có thể thấy khá rõ sự kết hợp giữa văn hóa nông nghiệp trồng lúa của cư dân bản địa với những những tác nhân thương mại, tôn giáo đến từ bên ngoài. Trên nền tảng một nền nông nghiệp trồng lúa nước phát triển cao, sự xuất hiện vào khoảng thế kỷ I – II, một đô thị với những quần thể kiến trúc dày đặc, trong đó có những kiến trúc tôn giáo quy mô lớn cùng hệ thống kênh mương chằng chịt và rất nhiều đồ trang sức tinh xảo làm bằng chất liệu quý hiếm là những minh chứng sinh động về cơ sở vật chất, nền tảng xã hội và đời sống tinh thần ở trình độ khá cao mà tương ứng với nó phải là một tổ chức nhà nước đã phát triển.

Trên cơ sở các loại tư liệu hiện có và kết quả nghiên cứu cho đến nay, có thể coi những những phát hiện khảo cổ học ở Óc Eo và những dạng thức tương tự ở các địa điểm khác là dấu vết vật chất của vương quốc Phù Nam được nhắc đến trong các thư tịch và bi ký cổ. Nhà nước Phù Nam xuất hiện vào khoảng thế kỷ thứ nhất. Đó là kết quả của sự tương tác giữa những yếu tố nội sinh là trình độ phát triển của một nền sản xuất nông nghiệp trồng lúa nước năng suất cao và tương ứng với nó là một xã hội được tổ chức tương đối chặt chẽ với những yếu tố ngoại sinh chủ yếu là hoạt động thương nghiệp và tôn giáo đến từ văn minh Ấn Độ[9]. Từ trước Công nguyên hoạt động thương mại có tính liên vùng giữa Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương đã diễn ra khá nhộn nhịp, thông qua đó hình thành mối quan hệ giao thoa giữa hai nền văn minh Ấn Độ và Trung Hoa. Trong quá trình này có một dải đất đóng vai trò hết sức quan trọng. Đó là eo Kra, một vùng đất hẹp trên bán đảo Malacca ngăn cách vịnh Thái Lan với biển Andaman, tại khu vực nằm kẹp giữa sông Kra Buri và vịnh Sawi (rộng khoảng hơn 40 km). Trong điều kiện giao thông đường thủy khi đó, từ bờ biển vùng đất Nam Bộ tới biển Andaman để đi tiếp tới Ấn Độ nếu qua đường eo biển Malacca phải mất khoảng 10 ngày. Trong khi đó biển Tây Nam Bộ tới eo Kra chỉ mất hơn 1 ngày. Các thương nhân thời cổ đại đã chọn phương thức chuyển tải hàng hóa qua eo đất Kra để giảm đi thời gian vận chuyển hàng hóa và để tránh gió ngược và sóng lớn khi biển động. Kra trở thành vùng trung chuyển hàng hóa lớn nhất thời kỳ đó. Các thương nhân Ấn Độ đã sớm nhận ra cách Kra không xa có một vùng đất trù phú, cư dân tương đối đông đúc và nhất là có một nền sản xuất nông nghiệp rất phát triển. Đó chính là vùng tương đương với một phần miền Tây Nam Bộ ngày nay. Họ đã lưu lại và xây dựng vùng đất này trở thành một căn cứ quan trọng cho hoạt động thương mại và truyền bá văn hóa. Nhà nước Phù Nam hình thành chính là sản phẩm của quá trình này.

Nhà nước và phạm vi lãnh thổ thời kỳ vương quốc

Vào năm 2008, Phan Huy Lê đưa ra luận điểm về hai giai đoạn phát triển của nhà nước Phù Nam với tên gọi tương ứng là giai đoạn Phù Nam quốc và giai đoạn Phù Nam đế chế[10]. Đây là một khái quát khoa học rất quan trọng, không chỉ có ý nghĩa phân lập các giai đoạn phát triển của lịch sử Phù Nam, mà còn mở ra hướng nghiên cứu các di tích của văn hóa Óc Eo và Phù Nam ở những không gian ngoài Nam Bộ.

Từ tiếp cận thuần túy khảo cổ học, các học giả cũng chỉ ra sự khác biệt hai giai đoạn đó theo diễn biến địa tầng và di vật. Theo hướng này Pierre-Yves Manguin đã nêu ý kiến về hai giai đoạn phát triển của Óc Eo – Phù Nam. Theo đó, những dấu tích liên quan đến hoạt động buôn bán, đào kênh tưới tiêu và đi lại có niên đại sớm hơn thế kỷ III, còn các di tích nền kiến trúc, mộ táng và tượng tôn giáo phần lớn đều xuất hiện từ thế kỷ IV và V[11]. Những công trình nghiên cứu của các học giả nước ngoài, hoặc dựa trên thư tịch, bi ký hoặc dựa vào tư liệu khảo cổ học trong thời gian gần đây, cũng đã từng phân lịch sử Phù Nam thành hai giai đoạn sớm muộn với tính chất xã hội khác nhau[12]. Giai đoạn sớm có thể tương đương với thời Vương quốc và giai đoạn muộn ứng với thời kỳ Đế chế.

Những tư liệu hiện còn không cho phép hình dung cụ thể về cấu trúc, tính chất và hoạt động của bộ máy nhà nước Phù Nam thời kỳ vương quốc. Ngay cả những người đứng đầu Phù Nam cũng không có tài liệu nào chép lại đầy đủ và hệ thống. Dựa vào những ghi chép tản mạn trong thư tịch cổ Trung Hoa, đối chiếu với thông tin trên các bi ký, các chuyên gia nghiên cứu đã đưa ra một phổ hệ những người đứng đầu nhà nước Phù Nam tương ứng với thời kỳ vương quốc (từ thế kỷ I đến thế kỷ III Công nguyên), nhưng những thông tin để xây dựng phổ hệ này vẫn chưa phải đã hoàn toàn chính xác, nhất là tên gọi và thời gian trị vì. Tuy nhiên bảng thế thứ này cũng giúp cho người đọc có được hình dung cụ thể về vương triều Phù Nam.

Các quốc vương Phù Nam thời kỳ vương quốc[13]

Thế thứ Phiên âm Gốc chữ Hán Thời gian trị vì (SCN) Ghi chú
01 Hỗn Điền – Liễu Diệp 混塡 – 葉柳 Thế kỷ I Trong giai đoạn ba thế kỷ đầu công nguyên, thế thứ, hoạt động và thời gian trị vì của những người đứng đầu vương quốc Phù Nam chưa được xác định thật đầy đủ.
02 Hỗn Bàn Huống 混盤況 Thế kỷ II
03 Hỗn Bàn Bàn 盤盤 Thế kỷ III

Theo thế thứ có phần phỏng đoán trên đây thì thủ lĩnh đầu tiên của Phù Nam là sự kết hợp giữa Liễu Diệp, người phụ nữ đứng đầu cư dân bản địa và Hỗn Điền là một người nước ngoài. Đôi vợ chồng này cùng nhau cai trị vương quốc và truyền lại cho con (?). Họ Hỗn (混) chỉ xuất hiện tiếp theo hai đời trong thời gian gần hai thế kỷ là điều không bình thường. Rất có thể trong khoảng thời gian ấy đã có nhiều sự thay đổi thủ lĩnh, nhưng vì sử liệu Trung Hoa chỉ ghi lại những vị quân vương trị vì lâu dài hoặc có những hoạt động nổi bật. Học giả Michael Vickery đã đưa ra nhận xét đáng lưu ý về triều đại cầm quyền ở Phù Nam trong khoảng ba thế kỷ đầu là việc truyền ngôi bắt đầu theo nguyên tắc phụ hệ (họ Hỗn), nhưng sự thay đổi diễn ra tương đối thường xuyên và sử sách Trung Hoa đã không chép đầy đủ[14].

Trong các sách cổ Trung Hoa các từ quốc (国), vương (王) được dùng để nói về quốc gia và người đứng đầu Phù Nam, nhưng qua những tư liệu liên quan không khó để nhận ra cơ cấu và cách thức tổ chức chính quyền Phù Nam không giống với mô hình Trung Hoa. Đã từng có nhiều ý kiến luận giải mang tính giả thuyết về nhà nước của vương quốc này. Về đại thể các chuyên gia đều thống nhất cho rằng nhà nước Phù Nam là một dạng thức tổ chức quyền lực chịu ảnh hưởng của nền văn minh Ấn Độ. Người đưa ra ý tưởng này khá sớm và có ảnh hưởng rộng rãi là George Cœdès, Giám đốc Viện Viễn Đông Bác cổ Pháp (EFEO). Theo đó, Phù Nam là một trong số những nhà nước ở vùng Đông Nam Á được hình thành trong quá trình Ấn Độ hóa và nằm trong một khái niệm chung là nhà nước Ấn Độ hóa (État hindouisé)[15]. Tuy nhiên hình hài cụ thể của nhà nước đó ra sao thì vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau. Đa số các học giả sử dụng khái niệm Vương quốc (Kingdom) một cách ước lệ để trình bày các vấn đề liên quan đến Phù Nam, nhưng chưa đi sâu phân tích cấu trúc và hoạt động của nhà nước.

Trong một tác phẩm công bố năm 1985[16], Kenneth R. Hall đã cố khái quát đặc trưng của các nhà nước ở Đông Nam Á khi đưa ra khái niệm chính quyền bá chủ (Hegemony), theo đó quốc gia không có biên giới rõ ràng mà phụ thuộc vào sức mạnh của chính quyền, rất khác so với loại hình nhà nước lãnh thổ (Territorial State) xuất hiện rất sớm ở vùng Đông Bắc Á. Đặc trưng này đã được O. W. Wolters, một chuyên gia lịch sử Đông Nam Á, khái quát bằng khái niệm Mandala[17]. Trong tiếng Sanskrit, Mandala (मण्डल) có nghĩa là một trung tâm trong hệ thống hoàn chỉnh[18]. Ấn Độ giáo và Phật giáo đã sử dụng Mandala như một biểu tượng thiêng liêng với các hình cánh sen, hoặc các hình tròn tỏa ra từ vòng trung tâm. Các môn phái khác nhau của đạo Phật đều coi Mandala như một mô hình hoàn hảo của vũ trụ.

Có thể việc lấy Mandala để mô tả hệ thống quyền lực nhà nước ở Đông Nam Á thời cổ của Wolters có tính thuyết phục tương đối cao nên sau đó rất nhiều học giả đã mặc nhiên sử dụng khái niệm này như một kiểu dạng nhà nước đặc trưng cho thế giới Đông Nam Á, trong đó có Phù Nam. Theo quan niệm này, trong thời kỳ Vương quốc, Phù Nam có một nhà nước trung tâm đóng giữ kinh đô ngay tại khu vực thương cảng Óc Eo.

Khi đưa ra kiểu dạng nhà nước Mandala, Wolters có ý diễn tả tình trạng chính trị không bền vững và thường xuyên phát sinh những nhóm quyền lực vùng ven do điều kiện tự nhiên phân tán, chia cắt, dân cư thưa thớt và các quan hệ quyền lực lỏng lẻo. Tuy nhiên, quan niệm này mới chỉ xét từ góc độ quyền lực chính trị. Sức mạnh của nhà nước Phù Nam trong giai đoạn đầu chủ yếu lại nằm ở vị thế kinh tế. Với vị trí của một thương cảng quốc tế, trung tâm kinh tế Óc Eo đã có sức thu hút mạnh mẽ các vùng ven, tạo nên một hệ thống hoàn chỉnh và có mối liên hệ hữu cơ chặt chẽ. Tổ chức nhà nước kiểu Mandala, với tính chất mềm dẻo, linh hoạt, rất phù hợp với những hoạt động kinh tế.

Phạm vi phân bố của các di tích thuộc thời kỳ đầu của vương quốc Phù Nam chủ yếu nằm trong khu vực Tứ giác Long Xuyên. Lãnh thổ quốc gia khi ấy không có một biên giới xác định mà biến động tùy thuộc vào sức mạnh của chính quyền trung tâm. Không gian “lõi” của vương quốc này tương ứng với vùng Tứ giác Long Xuyên ngày nay. Trên phạm vi không gian này, trong khoảng thời gian thế kỷ I đến thế kỷ IV đã xuất hiện quá trình tụ cư khá trù mật ở chân núi Ba Thê và các khu đất cao thuộc cánh đồng Óc Eo. Tại đây các nhà khảo cổ đã phát hiện ở các di chỉ Gò Cây Me, Gò Tư Trăm, Gò Cây Thị và Gò Óc Eo. Đặc biệt trên sườn núi Linh Sơn, đã tìm thấy một mộ vò đựng than tro. Kiểu miệng loại vò này có rất nhiều nét điển hình ảnh hưởng phong cách gốm Arikamendu (Ấn Độ)[19]. Phát hiện này cho phép hình dung về sự xuất hiện của các tăng lữ đầu tiên ở khu vực này. Rất có thể đây chính là mộ của một trong số những người từng hoạt động trong hệ thống đền tháp trên núi Linh Sơn.

Rất đáng chú ý là trong thời kỳ này, bên cạnh dấu vết cư trú, đã thấy xuất hiện hệ thống hào lũy đất bao quanh khu vực Gò Cây Thị, Gò Óc Eo và kênh đào làm đường giao thông đi lại. Trong khi đào cắt một đoạn kênh trong khu vực đó, các nhà khảo cổ đã phát hiện một chiếc mái chèo bằng gỗ. Rất có thể là đây chính là hệ thống hào lũy của cảng thị Óc Eo – Phù Nam trong thời kỳ đầu. Căn cứ các chứng cứ khảo cổ học, phạm vi phân bố cư dân của Phù Nam trong giai đoạn vương quốc chủ yếu bám theo khu vực kinh tế phát triển mạnh ở Óc Eo, tương ứng với vùng mà sau này được gọi với cái tên Tứ giác Long Xuyên. Kinh đô đầu tiên của Phù Nam được các sử liệu nhắc đến là Na Phật Na (Naravarangara) được các nhà nghiên cứu đoán định là nằm trong phạm vi vùng đất này.

Di tích Gò Cây Thị A (một trong những di chỉ thuộc nền văn hóa Óc Eo) ở thị trấn Óc Eo, huyện Thoại Sơn, An Giang, Việt Nam. Ảnh: Bùi Thụy Đào Nguyên

Chủ nhân của văn hóa Óc Eo là gốc và là bộ phận chủ yếu của cư dân Phù Nam. Những phát hiện ở di chỉ Gò Cây Tung (An Giang) có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định đặc trưng văn hóa của những cư dân tiền Óc Eo. Tại đây một tầng cư trú dày với những hiện vật phong phú đã được phát hiện. Trong số các hiện vật có loại rìu đá hình tứ giác có một gờ nổi ở giữa lưỡi. Loại rìu này gần giống loại “bôn có mỏ” (beaked adze) được tìm thấy ở Malaysia và Indonesia. Các nhà Đông Nam Á học đều cho rằng loại hình bôn có mỏ là một trong những đặc trưng để nhận biết văn hóa Mã Lai – Đa đảo (Malayo-Polynésien). Khu vực phân bố của loại hình bôn có mỏ đã được xác định là địa bàn sinh tụ của cư dân nói tiếng Mã Lai – Đa Đảo hay Nam Đảo (Austronésien). Cùng với công cụ rìu, bôn, ở gò Cây Tung còn tìm thấy các loại đồ gốm rất giống với những hiện vật đã được tìm thấy ở Malaysia. Đó là những đồ đựng miệng loe có nhiều gờ. Tại nhiều di chỉ ở các địa phương khác nhau như Giồng Cá Vồ, Giồng Phệt, Long Bửu (Thành phố Hồ Chí Minh), Gò Cao Su (Long An), Lộc Giang (An Giang)… những di vật và mộ táng được phát hiện đều khẳng định Óc Eo là một nền văn hóa có nguồn gốc bản địa, có quan hệ mật thiết với văn hóa Sa Huỳnh ở miền Trung mà chủ nhân chủ yếu là những cư dân Mã Lai – Đa Đảo.

Cùng với việc phát hiện di tích Óc Eo, L. Malleret và Bouscarde còn tìm thấy ở Rạch Giá một di tích với nhiều đồ gốm rất giống với những hiện vật tìm thấy ở Óc Eo. Điều này cho phép hình dung về đặc điểm nhân chủng của cư dân Óc Eo, nhất là qua 6 hộp sọ cùng nhiều xương tay chân người tìm thấy ở đây. Kết quả giám định của nhà nhân chủng học Génet Varcin cho thấy tất cả những sọ người này đều thuộc giống người tiền Mã Lai (Proto-Malay), giống với loại hình chủng tộc của những cư dân Thượng nói tiếng Mã Lai – Đa Đảo ở Tây Nguyên. Gần đây, ở di chỉ Gò Tháp (Đồng Tháp) và Óc Eo (An Giang) các nhà khảo cổ học Việt Nam đã tìm thấy hai sọ cổ cũng mang những đặc điểm nhân chủng Indonesien (một cách gọi khác của Proto-Malay)[20]. Dấu vết táng thức để lại trong các ngôi mộ chum rất gần gũi với những mộ táng đặc trưng của cư dân Miền Trung, nơi mà tính chất văn hóa Mã Lai – Đa Đảo đã được khẳng định. Điều này càng định thêm những nhận định được chép trong thư tịch cổ Trung Hoa. Theo sách Tấn thư thì tang lễ và hôn nhân của Phù Nam gần giống với Lâm Ấp.

Cổ vật Óc Eo (đồ đất nung, nắp đậy) trưng bày tại Bảo tàng Lịch sử Thành phố Hồ Chí Minh. Ảnh: Phương Huy

Về phương diện ngôn ngữ, tác giả sách Lương thư đã nêu một nhận xét rất quan trọng, theo đó, tiếng nói của cư dân Phù Nam không khác mấy so với tiếng vùng Tì Kiển. Đây là tên gọi trong thư tịch cổ Trung Hoa của địa danh Pekan, một vùng nằm ở Đông Nam bán đảo Mã Lai. Lương thư là bộ chính sử của một triều đại Trung Hoa có quan hệ thường xuyên và mật thiết với Phù Nam và các nước trong vùng Đông Nam Á nên nhận định tiếng nói phổ biến ở Phù Nam giống với tiếng của người Mã Lai, khác hẳn với các cư dân nói tiếng Nam Á ở vùng Đông Nam Á lục địa là một căn cứ đáng tin cậy. Về chữ viết, theo các nhà nghiên cứu thì Phù Nam sử dụng chữ Phạn (Sanskrit) có nguồn gốc từ Ấn Độ. Nhiều chuyên gia Đông Nam Á trong những thập niên cuối thế kỷ XX cũng có nhận định bộ phận chủ yếu của cư dân Phù Nam là những người Mã Lai – Đa Đảo[21]. Họ là cộng đồng người đã định cư ở vùng đất Nam Bộ từ khá sớm, là những người đã tạo dựng nên một nền nông nghiệp phát triển làm tiền đề cho sự xuất hiện nhà nước vào đầu Công nguyên. Có thể khi ấy còn có các nhóm cư dân khác, nhưng họ là cư dân chủ thể của vương quốc Phù Nam.

Đồ trang sức Phù Nam được trưng bày tại Bảo tàng An Giang. Ảnh: Bùi Thụy Đào Nguyên

Thành phần cư dân chủ yếu của vương quốc Phù Nam bao gồm năm bộ phận:

1. Quý tộc, hoàng gia: Đây là bộ phận có vị trí chính trị độc tôn nên có đặc quyền và những điều kiện vật chất đặc biệt. Qua những đồ trang sức và các hiện vật còn lại trong các di chỉ gắn với đời sống cung đình có thể thấy được mức độ hưởng thụ của tầng lớp quý tộc, hoàng gia thời kỳ này.

2. Tầng lớp tăng lữ: Mật độ dày đặc các phế tích kiến trúc liên quan đến tôn giáo cho thấy vai trò đặc biệt của tầng lớp tăng lữ trong xã hội Phù Nam. Thần quyền đã được kết chặt chẽ với vương quyền theo truyền thống Bà La Môn.

3. Tầng lớp thương nhân: Nhà nước Phù Nam hình thành dưới tác động mạnh mẽ của các thương nhân ngoại quốc và sự hưng thịnh nhanh chóng của quốc gia này cũng gắn với hoạt động thương mại nên thương nhân là tầng lớp giàu có và có ảnh hưởng lớn trong đời sống xã hội.

4. Tầng lớp thợ thủ công và dân nghèo thành thị: Họ là những người lao động, đời sống phụ thuộc vào sự phát triển của kinh tế và chính sách cai trị của nhà cầm quyền.

5. Nông dân trồng lúa và đánh cá ở các vùng nông thôn, ven biển: Họ là những người tạo nên những sản phẩm quan trọng bậc nhất để nuôi sống xã hội và tạo nền tảng cho phát triển kinh tế, nhưng lại có đời sống tương đối nghèo nàn. Theo Khang Thái và Chu Ứng được nhà Đông Ngô phái đến Phù Nam vào đầu thế kỷ thứ III thì người dân ở đây “vẫn còn trần truồng, trừ đàn bà mặc vải có lỗ để xỏ đầu vào”. Hai người từng nhận xét rằng đây là một nước tươi đẹp, nhưng thật không tốt khi để người dân không có gì để mặc như vậy[22].

Bên cạnh những hiện vật là đồ trang sức bằng vàng, ngọc và các chất liệu quý khác mà rõ ràng chủ nhân của chúng là những người giàu sang quyền quý, những di vật tìm thấy trong văn hóa Óc Eo thời vương quốc cũng không hiếm gặp những đồ gốm thô sơ bình dân. Đặc biệt một số tượng người, trong đó có chân đèn tìm thấy ở Óc Eo cho thấy sự khác biệt rõ rệt về thân phận của các tầng người khác nhau trong xã hội Phù Nam.■ (còn nữa)

TSKH Vũ Minh Giang

Chú thích

[1] 楊孚 (1936): 異物志 (Dương Phù: Dị vật chí), 商務印書館 (Thương vụ ấn thư quán), 上海 (Thượng Hải), tr. 9.

[2]  陳壽 (2016): 三国志六十, 吳書 卷十五, 百度自由 的网络百科全书. 北京 (Trần Thọ: Tam Quốc chí, quyển 60. Ngô thư quyển 50. Bách khoa thư mở Baidu. Bắc Kinh).

[3]  Pelliot, P. (1903): Le Fou-nan, BEFEO, tom 3, Hanoi, tr. 248-327.

[4] Trong thời kỳ trước 1975, nhà nghiên cứu về Phù Nam có nhiều công bố nhất là Lê Hương với công trình tiêu biểu là Sử liệu Phù Nam xuất bản tại Sài Gòn năm 1974.

[5] Kết quả các cuộc khai quất khảo cổ học trong vòng 20 năm (1975-1995) đã được Lê Xuân Diệm, Đào Linh Côn, Võ Sĩ Khải công bố trong sách Văn hóa Óc Eo, những khám phá mới vào năm 1995 tại NXB KHXH, Hà Nội.

[6] Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam (2008): Văn hóa Óc Eo & Vương quốc Phù Nam, NXB Thế giới, Hà Nội.

[7] Vũ Minh Giang (Chủ biên). (2006): Lược sử vùng đất Nam Bộ Việt Nam, NXB Thế giới, Hà Nội.

[8]  Vũ Minh Giang – Nguyễn Việt (2017): Vùng đất Nam Bộ tập II Từ cội nguồn đến thế kỷ VII, NXB Chính trị Quốc gia – Sự thật, Hà Nội.

[9]  Vũ Minh Giang – Nguyễn Việt (2017): Vùng đất Nam Bộ tập II Từ cội nguồn dến thế kỷ VII, Sđd, t.175.

[10] Tác giả sử dụng từ “đế chế” thay cho “đế quốc” tương ứng với từ tiếng Anh “empire”, “emperial” với ý đồ giảm nhẹ ý nghĩa hiện đại có thể gây nhầm lẫn khi so sánh Phù Nam với các đế quốc Ba Tư, La Mã, Hán đương thời. Trong sách này, chúng tôi tán đồng sử dụng từ “đế chế” cho Phù Nam kể từ khi các vua Phù Nam mở rộng lãnh thổ kiểm soát bằng các hoạt động quân sự.

[11] Manguin P-Y (2009): The Archaeology of Fu Nan in the Mekong River Delta: The Ocs Eo Culture of Viet Nam, Yale Uni Press, trong Tingley N. (ed.) Arts of Ancient Viet Nam – From River Plain to Open Sea, tr. 103-118.

[12] Ví dụ Vickery, M, 2003, Funan Reviewed: Deconstructing the Ancients. Trong: Bulletin de l’Ecole française d’Extrême-Orient. Tome 90-91, 2003. pp. 101-143. Vickery dựa vào thư tịch và bi ký đã chia lịch sử Phù Nam thành hai thời kỳ: Thời trị vì của các tước hiệu bản địa trở thành dòng họ như Hỗn (Hun) và Phạm (Pan?Pong) được coi như thời trước sử (prehistory) và thời kỳ lịch sử (historic) của các tước hiệu Ấn Độ như Chandra (Chiên Đàn), Kaundinya (Kiều Trấn Như) và các varman (Bạt Ma).

Manguin, Piere-Yves 2009, The Archaeology of Fu Nan in the Mekong River Delta: The Oc Eo Culture of Viet Nam, cũng đã chia khảo cổ học Phù Nam làm hai giai đoạn: Giai đoạn đầu là “Kiểm soát đồng bằng ngập nước và quá trình tụ cư thành thị (Control of flood plains and urban development)”, và giai đoạn sau là “quá trình Ấn Độ hóa (Indianization)”.

[13] Tập hợp từ các công trình của Georges Cœdès: La Stele de Ta-Prohm, Bulletin de l’Ecole francaise d’Extreme-Orient (BEFEO), Hanoi, VI, 1906; Histoire ancienne des États hindouisés d’Extrême-Orient, Hanoi, 1944; Les états hindouisés d’Indochine et d’Indonésie, Paris, 1948. Lê Hương (1974): Sử liệu Phù Nam, NXB Nguyên Nhiều, Sài Gòn; Lương Ninh (2006), Nước Phù Nam, NXB Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.

[14] Michael Vickery (2003–2004): Funan reviewed: Deconstructing the Ancients, Bulletin de l’École française d’Extrême-Orient, Vol. 90/91, tr. 116.

[15]  Cœdès George (1944): Histoire ancienne des États hindouisés d’Extrême-Orient, Imprimerie d’Extrême-Orient.

[16] Hall Kenneth R. (1985): Maritime Trade and Strate Development in early Southeast Asia, University of Hawaii Press.

[17]  Wolters, O.W. (1999): History, Culture and Region in Southeast Asian Perspectives. Institute of Southeast Asian Studies, Revised Edition.

[18] Mandala được phiên âm sang tiếng Hán là Mạn đà la (曼 陀 羅), và được dịch nghĩa là Luân viên cụ túc (輪圓具足) nghĩa là vòng tròn hoàn chỉnh.

[19] Arikamendu là một cảng biển ở bờ đông nam Ấn Độ nhìn ra vịnh Bengal. Khảo cổ học đã xác nhận vị trí quan trọng của cảng biển này trong hành trình thương mại từ Địa Trung Hải, qua Ấn Độ Dương, vịnh Bengal tới Đông Nam Á. Những hiện vật khai quật được ở các cảng biển Đông Nam Á thời Phù Nam – Óc Eo ghi nhận dấu hiệu trao đổi đồ gốm Arikamendu rất rõ nét.

[20] Trần Văn Giàu (Chủ biên) (1987): Địa chí văn hóa TP. HCM tập I, NXB Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 113.

[21] Hal Kenneth R. (1982): The “Indianization” of Funan: An Economic History of Southeast Asia’s First State, Macmillan, London; Michael Vickery: Funan Reviewed: Deconstructing the Ancients, Bulletin de l’École française d’Extrême-Orient, Vol. 90/91 (2003-2004).

[22]  康泰, 朱应: 扶南 . 中国 古籍 百度自由的网络百科全书 (Khang Thái, Chu Ứng: Phù Nam truyện, Trung Quốc cổ tịch mạng Bách khoa thư mở Baidu).

BÌNH LUẬN

BÀI VIẾT LIÊN QUAN