Từ khi thành lập tới nay, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đồng hành cùng dân tộc, từ cuộc Cách mạng khai sinh ra nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà tới thống nhất đất nước và Đổi mới Hội nhập, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đưa ra những quyết định quan trọng, giúp đất nước vượt qua muôn vàn trở ngại, đạt được những thành tựu lớn lao.

Tuyên bố thành lập Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vào ngày 02/9/1945 là một bước ngoặt lịch sử trọng đại, nhưng cũng vô cùng khó khăn vì những thách thức lớn lao mà Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh phải đối mặt. Tình hình chính trị năm 1945 rất phức tạp. Quân đội Nhật đã đầu hàng Đồng minh, nhưng Pháp muốn tái chiếm Đông Dương, trong khi Trung Hoa Dân Quốc cũng có tham vọng chiếm giữ miền Bắc dưới danh nghĩa quân Đồng Minh vào giải giáp quân Nhật. Các thế lực chính trị trong nước cũng bất đồng, đe dọa sự tồn tại của chính quyền cách mạng non trẻ. Một số tổ chức, đảng phái chính trị như Việt Nam Quốc dân Đảng (VNQDĐ) và Đại Việt, do không đồng tình với đường lối của Việt Minh, đã tìm cách chống phá hoặc tranh giành quyền lực.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập tại Quảng trường Ba Đình ngày 2/9/1945. Ảnh tư liệu

Chính quyền cách mạng vừa giành được độc lập, chưa có kinh nghiệm quản lý một quốc gia sau gần 100 năm bị thực dân thống trị. Việt Nam sau Thế chiến II cũng bị tàn phá nặng nề, nạn đói năm 1945 ập tới và hàng triệu người vẫn chịu cảnh đói khổ. Ngân khố quốc gia gần như trống rỗng. Sau gần một thế kỷ dưới ách đô hộ của thực dân Pháp, hơn 90% dân số Việt Nam mù chữ.

Dù đối mặt với thù trong giặc ngoài như vậy, Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn kiên quyết đưa ra quyết định chiến lược là thành lập nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Đảng không chờ đợi khi mọi điều kiện đều đã thuận lợi mà vừa thành lập chính quyền, vừa đấu tranh với kẻ thù, tìm kiếm sự công nhận quốc tế và song song với đó là cải thiện dân trí cũng như đời sống nhân dân. Chính quyền non trẻ phát động phong trào “Hũ gạo cứu đói,” chia đất cho dân cày, khuyến khích tăng gia sản xuất. Chính phủ tổ chức các lớp bình dân học vụ, mở rộng việc học hành cho mọi tầng lớp nhân dân. Trên hết, Chính quyền mới tuyên bố các quyền tự do, dân chủ, bình đẳng cho mọi công dân và nhanh chóng soạn thảo Hiến pháp nhằm xây dựng nền tảng pháp lý cho quốc gia độc lập. Chính những bước đi đầy táo bạo nhưng đúng đắn này đã xây dựng được niềm tin trong lòng dân. Niềm tin và lòng yêu nước của toàn dân đã giúp chính quyền non trẻ đứng vững, đặt nền móng cho một nước Việt Nam độc lập.

Quyết định chấp nhận Hiệp định Genève năm 1954 dẫn đến đình chiến và tạm thời chia đôi đất nước tại vĩ tuyến 17, cũng là một quyết định khó khăn và đầy thách thức đối với Đảng. Chấp nhận Hiệp định, Đảng phải hy sinh mục tiêu thống nhất đất nước ngay lập tức. Đây là quyết định rất đau lòng vì nhân dân Việt Nam đã phải chiến đấu gian khổ để giành độc lập và hơn bao giờ hết mong muốn Tổ quốc được thống nhất. Nhưng với tầm nhìn chiến lược, các nhà lãnh đạo Đảng hiểu rằng cuộc đàm phán tại Genève không chỉ liên quan đến Việt Nam mà còn chịu ảnh hưởng lớn từ các cường quốc như Liên Xô, Trung Quốc, Pháp và Mỹ. Việt Nam không có quyền tự quyết hoàn toàn mà phải chấp nhận một phần tính toán lợi ích của các nước lớn. Nếu từ chối Hiệp định, chiến tranh sẽ tiếp tục, có thể dẫn đến tổn thất lớn hơn cho nhân dân và đất nước.

Trên cơ sở những đánh giá thực tế, Đảng đã đưa ra quyết định đầy khó khăn nhưng đúng đắn. Đảng cũng đã nỗ lực rất lớn để khẳng định với nhân dân rằng việc chấp nhận Hiệp định chỉ là một bước lùi chiến thuật để bảo toàn lực lượng và chuẩn bị cho một cuộc đấu tranh lâu dài nhằm thống nhất đất nước. Đảng tuyên truyền cho nhân dân hiểu rằng việc ký Hiệp định Genève là giải pháp phù hợp nhất lúc đó và chia cắt đất nước chỉ là tạm thời để bảo toàn lực lượng, giúp Miền Bắc được giải phóng và trở thành căn cứ địa vững chắc để xây dựng lực lượng, phát triển kinh tế, hỗ trợ cách mạng miền Nam.

Lịch sử sau này đã chứng minh quyết định đúng đắn này là cơ sở để nước ta có điều kiện tiến hành kháng chiến chống Mỹ. Một lần nữa, niềm tin của nhân dân và sự nhạy bén của Đảng đã tạo tiền đề cho cuộc đấu tranh lâu dài tới thắng lợi cuối cùng.

Giải phóng miền Nam bằng con đường vũ trang tiếp tục là một trong những quyết định mang tính lịch sử và đầy khó khăn của Đảng. Quyết định được đưa ra tại Hội nghị Trung ương lần thứ 15 (1959) trong bối cảnh thách thức lớn về nhiều mặt. Mỹ là cường quốc quân sự hàng đầu thế giới, đã không chỉ viện trợ mà đưa lực lượng quân sự lớn, các cố vấn và các phương tiện chiến tranh hiện đại vào miền Nam. Mỹ cũng đã hỗ trợ xây dựng một chính quyền ở miền Nam với hệ thống quân đội và quản trị chặt chẽ, tạo thành một chướng ngại lớn cho cách mạng miền Nam. Việc đối đầu trực tiếp với Mỹ đồng nghĩa với việc chấp nhận một cuộc chiến lâu dài và hao tổn lớn về người và của.

Trong nội bộ Đảng cũng có những ý kiến khác nhau về con đường giải phóng miền Nam, nên tiếp tục sử dụng đấu tranh chính trị hay kết hợp cả đấu tranh chính trị và vũ trang. Việc quyết định chuyển sang đấu tranh vũ trang cần cân nhắc kỹ lưỡng để tránh rủi ro lớn. Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, miền Bắc tuy đã được giải phóng nhưng vẫn đang trong quá trình khôi phục kinh tế, cơ sở hạ tầng lạc hậu, và nguồn lực hạn chế. Việc hỗ trợ cho miền Nam cần một nền kinh tế mạnh làm hậu phương, nhưng miền Bắc vào thời điểm đó chưa có tiềm lực kinh tế lớn để duy trì một cuộc chiến lâu dài. Phong trào cách mạng miền Nam bị tổn thất nặng nề sau Hiệp định Genève, nhiều cán bộ, chiến sĩ phải tập kết ra Bắc và chính quyền Ngô Đình Diệm thực hiện chính sách “tố cộng, diệt cộng” để đàn áp khốc liệt. Việc khôi phục cơ sở và xây dựng lực lượng để thống nhất đất nước không hề dễ dàng.

Tuy vậy, trước sự can thiệp ngày càng mạnh mẽ của Mỹ và nhận thấy con đường đấu tranh hòa bình không đạt được mục tiêu thống nhất, Đảng quyết định con đường vũ trang là lựa chọn duy nhất để giải phóng miền Nam. Đảng xác định phải kết hợp đấu tranh chính trị, ngoại giao, và quân sự một cách linh hoạt, trong đó đấu tranh vũ trang đóng vai trò then chốt. Sau này, các chiến dịch lớn như Tết Mậu Thân (1968) và Chiến dịch Hồ Chí Minh (1975) chứng minh tính đúng đắn của chiến lược này.

Thắng lợi của quyết định này còn xuất phát từ lòng yêu nước nồng nàn của nhân dân ta. Đảng đã xây dựng được niềm tin quyết chiến quyết thắng trong nhân dân ở cả hai miền, biến những khó khăn thành hành động của từng người dân, vượt qua muôn ngàn thách thức để đạt được mục tiêu thiêng liêng với Tổ quốc. Không có niềm tin sắt đá của nhân dân và sự hi sinh của toàn dân tộc, khát vọng độc lập, thống nhất đất nước không thể đạt được. Chiến thắng năm 1975 đã một lần nữa khẳng định sự kết hợp giữa quyết định đúng đắn của Đảng và niềm tin của người dân sẽ tạo nên những thắng lợi lịch sử.

Thống nhất đất nước ngay sau khi giải phóng miền Nam năm 1975 tiếp tục là một quyết sách chiến lược lớn của Đảng, dù phải đối mặt vô vàn trở ngại. Sau khi giải phóng miền Nam, sự khác biệt giữa hai miền Nam – Bắc là rất lớn. Miền Bắc đã xây dựng hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa từ năm 1954, trong khi miền Nam chịu sự cai trị của chính quyền Việt Nam Cộng hòa với sự hậu thuẫn của Mỹ. Hệ thống chính trị, pháp luật và hành chính giữa hai miền hoàn toàn khác nhau. Miền Bắc là nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, dựa trên công hữu về tư liệu sản xuất, còn miền Nam có nền kinh tế thị trường chịu ảnh hưởng từ phương Tây. Sau ngày giải phóng, nhiều lực lượng của chính quyền Việt Nam Cộng hòa và các tổ chức phản động vẫn tìm cách chống phá. Một số nhóm vũ trang được sự hậu thuẫn của nước ngoài vẫn hoạt động ở nhiều vùng miền và từ hải ngoại, tìm mọi cách lật đổ chính quyền. Sau nhiều năm chia cắt, nhân dân hai miền có sự khác biệt trong tư duy, lối sống và quan điểm chính trị. Việc thống nhất đòi hỏi phải hàn gắn vết thương chiến tranh, xây dựng lòng tin và sự đồng thuận của toàn dân. Về mặt quốc tế, nhiều nước trong đó có cả các quốc gia bạn bè cũng chưa hẳn đã muốn một nước Việt Nam thống nhất hùng mạnh ngay thời điểm đó.

Quyết định Tổng tuyển cử ngày 25/4/1976 để nhanh chóng thống nhất hai miền Nam – Bắc dưới một chính quyền duy nhất là một quyết định lịch sử, mang tính chiến lược của Đảng ta. Ảnh tư liệu TTYXVN

Trước những khó khăn đó, Đảng vẫn quyết tâm thu giang san về một mối và đưa ra các quyết sách quan trọng để tạo dựng niềm tin trong nhân dân. Về mặt chính trị, Đảng thực hiện chính sách hòa hợp, hòa giải dân tộc, không trả thù, tạo điều kiện cho những người từng phục vụ chính quyền cũ hòa nhập vào xã hội. Về mặt kinh tế, Đảng tập trung khôi phục sản xuất, khuyến khích tăng gia lao động, ổn định đời sống nhân dân. Quyết định Tổng tuyển cử ngày 25/4/1976 để nhanh chóng thống nhất hai miền Nam – Bắc dưới một chính quyền duy nhất là một quyết định lịch sử, mang tính chiến lược. Quyết định này phản ánh tầm nhìn dài hạn của Đảng, tạo dựng một nước Việt Nam thống nhất cũng chính là biện pháp tốt nhất để khơi dậy sự đoàn kết, niềm tự hào dân tộc. Dù phải đối mặt với biết bao trở ngại, sự tin tưởng của dân và quyết định sáng suốt của Đảng đã giúp đất nước thống nhất vượt qua khó khăn và từng bước ổn định, phát triển.

Quyết định đổi mới năm 1986 tại Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam lại là một bước ngoặt quan trọng trong lịch sử phát triển đất nước. Đây cũng là một quyết định không hề dễ dàng mà vấp phải vô số trở ngại. Hệ thống quản lý quan liêu bao cấp và cơ chế tập trung hóa cao đã bộc lộ nhiều yếu kém, nhưng vẫn còn đó tâm lý e ngại thay đổi trong nhiều bộ phận của hệ thống chính trị. Đổi mới đồng nghĩa với việc từ bỏ nhiều nguyên tắc truyền thống của nền kinh tế kế hoạch hóa để bước vào kinh tế thị trường. Điều này gây lo ngại rằng việc mở cửa kinh tế có thể dẫn đến chệch hướng, mất kiểm soát, xa rời con đường xã hội chủ nghĩa. Một số người còn do dự, lo sợ rằng sự thay đổi quá lớn có thể gây bất ổn chính trị, đặc biệt trong bối cảnh quốc tế có nhiều biến động, Liên Xô đứng trước nguy cơ tan rã. Về mặt đối ngoại, Việt Nam vẫn đang bị các nước phương Tây và một số quốc gia trong khu vực áp đặt cấm vận. Việt Nam cũng vẫn phải duy trì lực lượng quân sự lớn để bảo vệ biên giới và hỗ trợ chính quyền ở Campuchia, gây áp lực lớn lên ngân sách và nguồn lực quốc gia.

Dù phức tạp như vậy, lãnh đạo Đảng xác định nếu Việt Nam không thay đổi, nguy cơ tụt hậu thêm nữa là nhãn tiền. Tình trạng thiếu lương thực, thực phẩm và hàng tiêu dùng thiết yếu làm đời sống người dân rơi vào khó khăn. Nhân dân mong đợi Đảng và Nhà nước có những giải pháp đột phá để cải thiện tình hình. Để tạo niềm tin và đáp ứng kỳ vọng của nhân dân, Đảng đã đưa ra quyết định đổi mới về mọi mặt, chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đảng quyết định mở cửa hội nhập quốc tế, thu hút vốn đầu tư nước ngoài và tham gia các tổ chức kinh tế khu vực và thế giới. Cuộc sống của người dân được cải thiện sau Đổi mới càng làm cho niềm tin vào chính sách này ngày một tăng lên.

Nhìn lại, có thể thấy quyết định Đổi mới năm 1986 là một quyết định khó khăn nhưng mang tính đột phá và sáng tạo, xuất phát từ nhu cầu cấp bách của thực tiễn trong nước và quốc tế. Để đưa ra quyết định này, Đảng đã thể hiện sự dũng cảm, tầm nhìn xa và khả năng thích ứng linh hoạt với thực tế. Thành công của công cuộc đổi mới sau đó đã chứng minh tính đúng đắn và sáng suốt của quyết định này, đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng, hội nhập vào dòng chảy kinh tế thế giới và từng bước trở thành một quốc gia vững mạnh như ngày nay.

Nhìn lại lịch sử có thể thấy mỗi quyết định lớn lao của Đảng Cộng sản Việt Nam, dù phải đối mặt với những khó khăn và trở ngại ban đầu, đều được thực hiện thành công nhờ tầm nhìn đúng đắn và niềm tin rộng khắp của nhân dân. Điều này không chỉ là yếu tố quyết định đến sự thành công của các chính sách lớn mà còn là nền tảng của mối quan hệ mật thiết giữa Đảng và nhân dân. Các quyết định lớn của Đảng luôn gắn liền với khát vọng chung của dân tộc. Những khát vọng và mục tiêu chung đó đã chạm đến trái tim của nhân dân, tạo nên sự đồng thuận và niềm tin vào con đường mà Đảng lựa chọn.

Sự kiên định của các nhà lãnh đạo Đảng trong các giai đoạn khó khăn là bài học còn nguyên giá trị tới ngày nay. Dù phải đối mặt với hoài nghi, Đảng luôn giữ vững lập trường, kiên trì thực hiện các quyết sách và giải thích rõ ràng với nhân dân về tính cần thiết và ý nghĩa của các quyết định đó. Đảng luôn duy trì sự gần gũi với nhân dân, lắng nghe ý kiến và tâm tư của các tầng lớp trong xã hội, đồng hành cùng nhân dân. Các quyết định lớn đều được triển khai với sự tham gia của toàn dân, tạo nên sức mạnh đoàn kết.  Đảng cũng luôn chú trọng công tác tuyên truyền để giải thích các quyết định lớn một cách rõ ràng, dễ hiểu. Điều này giúp người dân nhận thức được ý nghĩa và mục tiêu của các quyết sách, từ đó sẵn sàng ủng hộ và tham gia. Những kết quả tích cực từ các chính sách này đã củng cố thêm lòng tin của người dân, giúp đất nước vượt qua những giai đoạn khó khăn nhất và tiến lên trên con đường phát triển.

Tổng Bí thư Tô Lâm khẳng định, đất nước muốn phát triển, phải tinh gọn bộ máy, tăng cường hiệu lực, hiệu quả. Ảnh: Phạm Thắng

Quyết định tinh giản bộ máy hiện nay của Đảng Cộng sản Việt Nam cũng là một quyết sách đặc biệt quan trọng nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả của hệ thống chính trị, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong giai đoạn mới. Như mọi quyết định lớn trong lịch sử Đảng, việc thực hiện chủ trương này đối mặt với nhiều thách thức lớn.

Hệ thống chính trị Việt Nam đã tồn tại lâu dài với nhiều cơ quan, tổ chức có chức năng, nhiệm vụ phức tạp, chồng chéo. Tinh giản bộ máy đòi hỏi phải tái cấu trúc toàn diện, điều chỉnh chức năng nhiệm vụ của các cơ quan, có thể làm mất đi hoặc suy giảm quyền lợi của một bộ phận trong bộ máy nhà nước, dẫn đến sự chậm chễ, trì hoãn. Một số cá nhân, tổ chức cũng có thể không sẵn sàng thay đổi vì tinh giản bộ máy đồng nghĩa với việc giảm biên chế, khiến nhiều cán bộ, công chức mất việc làm hoặc bị thuyên chuyển.

Tuy vậy, lãnh đạo Đảng thấu hiểu sự cần thiết phải tinh giản để giành nguồn lực lớn hơn cho phát triển. Quan trọng không kém, đây là quyết định rất hợp lòng dân. Người dân kỳ vọng rằng việc tinh giản bộ máy sẽ mang lại hiệu quả cao hơn trong quản lý và điều hành, nâng cao chất lượng phục vụ nhân dân. Chính vì thế, chủ trương tinh giản bộ máy đã được thực hiện quyết liệt và thể hiện quyết tâm chính trị cao từ các nhà lãnh đạo Đảng và Nhà nước. Song song với triển khai, Đảng tăng cường giáo dục, nâng cao tinh thần trách nhiệm và đạo đức công vụ của đội ngũ cán bộ, công chức, và đảm bảo quá trình tinh giản được thực hiện công khai, minh bạch, tạo sự đồng thuận trong xã hội. Đảng tuyên truyền thông điệp đúng đắn, tinh giản không chỉ là giảm về số lượng, mà còn tập trung vào nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của bộ máy.

Hiểu rằng xung quanh quyết định lớn này còn nhiều tâm tư, đụng chạm tới nhiều tầng lớp, Đảng cần có chiến lược phù hợp với từng bước đi cụ thể, quyết liệt nhưng không nóng vội. Đảng vững tin bởi  có niềm tin và sự ủng hộ của nhân dân. Đây chính là cội nguồn sức mạnh. Có điều này thì mọi chủ trương đều được cán bộ công chức tự giác thực hiện, mọi tâm tư sớm được giải toả và những lợi ích lớn từ chủ trương này cũng sẽ thúc đẩy quyền lợi của từng cá nhân và toàn dân tộc trong tương lai.

Quyết định tinh giản bộ máy hiện nay là một thách thức lớn, nhưng nhìn vào lịch sử của Đảng, chúng ta hoàn toàn tin tưởng, như mọi chủ trương lớn khác, quyết sách này sẽ thành công bởi sự đúng đắn và hợp lòng dân.

Nhìn lại quá trình tiến hành công cuộc cách mạng ở nước ta, thấy rằng mọi quyết sách đúng đắn của Đảng và nhà nước dù gặp khó khăn, trở ngại đến nước nào, nhưng được nhân dân tin tưởng và ủng hộ, đều giành được thắng lợi vẻ vang.■

BÌNH LUẬN

BÀI BÌNH LUẬN KHÁC