
Từ khi Chiến tranh Lạnh chấm dứt, vấn đề đấu tranh địa chính trị nổi cộm trong sinh hoạt quốc tế. Các cường quốc trên thế giới trong thế kỷ XXI đã có những quan tâm và cạnh tranh đặc biệt về địa chính trị. Ví dụ, vùng Biển Đông là một không gian địa chính trị vì ở đó Trung Quốc muốn xác lập quyền lực của mình, bất chấp một số quốc gia cũng đã có quyền lực ở đó từ lâu.
Tranh chấp địa chính trị ở Biển Đông không chỉ là tranh chấp chủ quyền biển đảo giữa Trung Quốc với các quốc gia trong vùng, Biển Đông cũng là mối tranh chấp quyết liệt giữa Trung Quốc với các cường quốc trên thế giới, vì Biển Đông là con đường hàng hải của thế giới. Các cường quốc có quyền lợi ở Biển Đông không để Trung Quốc ngăn cản tự do hàng hải (FONOP) làm tổn hại thương mại thế giới.
Biển Đông vốn là tự do hàng hải nhưng đầu thế kỷ XX, Trung Quốc vẽ ra một không gian gọi là đường 9 đoạn để nhận đó là biên giới của quốc gia mình. Thế giới không chấp nhận đường 9 đoạn (bây giờ là 10 đoạn) nên cuộc tranh chấp ở đây vẫn còn đang diễn ra hàng ngày.
Biển Đông chỉ là vùng tranh chấp nổi bật nhưng không phải là duy nhất. Từ sau Chiến tranh Lạnh, vấn đề tranh chấp địa chính trị rất nổi cộm trong quan hệ quốc tế.
Vậy địa chính trị là gì?
Vấn đề địa chính trị không mới mẻ gì, nó đã có từ thời cổ đại. Các học giả đã đưa ra nhiều khái niệm và học thuyết về vấn đề này, nhưng không có những tiêu chuẩn chính xác thế nào là địa chính trị (geo-politics). Theo một số nhà nghiên cứu thì thuật ngữ “địa chính trị” đã xuất hiện trong một cuốn sách có tên Địa lý chính trị mà tác giả là nhà chính trị học Thụy Điển Kjellen. Cuốn sách này được nhà địa lý người Đức Friedrich xuất bản và khai sinh ra khái niệm địa chính trị vào năm 1897. Sau đó, nhà ngoại giao Mỹ Robert Strausz Hupe thường đề cập đến vấn đề địa chính trị khi ông giảng dạy tại Đại học Pennsylvania. Nhà chiến lược hàng hải Anh là Halford Mackinder cũng đã dùng cụm từ geo-politics trong sách của mình.
Định nghĩa địa chính trị theo thực tế có thể như sau: “Một quốc gia thi hành quyền chính trị trên một không gian địa lý mà quốc gia đó cho là có quan hệ mật thiết đến an ninh và quyền phát triển của mình”.
Nếu không gian địa chính trị này nằm kế cận hai thực thể quốc gia có mâu thuẫn với nhau, sự tranh chấp sẽ xảy ra. Để giải quyết tranh chấp này, người ta thường biến vùng “địa chính trị” thành “vùng đệm”, nghĩa là người ta sẽ đặt ra các quy tắc cho vùng đệm miễn sao nó không làm tổn hại đến an ninh hay sự phát triển của một bên. Hội nghị quốc tế sẽ được triệu tập để thương lượng, dàn xếp cho vùng tranh chấp địa chính trị thành vùng đệm, nghĩa là trung lập.
Nếu Ukraine được nhìn dưới góc nhìn địa chính trị thì đây chính là không gian tranh chấp giữa Nga và Tây Âu, vì Nga và Tây Âu có truyền thống mâu thuẫn từ trong lịch sử xa xưa. Vì các nước Tây phương vốn hãnh diện với nền văn hoá chịu ảnh hưởng La Mã, họ xem thường văn minh của Slav vốn ảnh hưởng của Chính Thống giáo. Các nước phương Tây luôn cảnh giác với sự “Tây tiến” của các Đế chế Nga hoàng, nếu có cơ hội họ sẽ ra tay đẩy lùi văn minh Slav về phương Đông và muốn các Đế chế Nga phải thừa nhận mình là quốc gia phương Đông.
Ngược lại, Nga không chấp nhận là một quốc gia không đủ tư cách tham dự việc châu Âu. Nga luôn xem mình là quốc gia châu Âu. Sự va chạm văn hoá này kéo dài nhiều thế kỷ, nhưng chẳng có hồi kết.
Vào những năm Cách mạng Tháng Mười (1917) mới mở ra, một số học giả Nga lưu vong đã lập ra một học thuyết mới, gọi là “nền văn minh Á – Âu”, nghĩa là nước Nga, về mặt địa lý là một không gian mênh mông chạy dài từ Âu sang Á. Văn hoá Nga kết tinh tất cả tinh hoa của Á và Âu, tạo ra một nền văn minh riêng biệt, trung gian giữa Á và Âu. Học thuyết “văn minh Á – Âu” này bị chìm khuất, không mấy ai chú ý, nhất là trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh. Những năm gần đây có nhiều người nhắc đến học thuyết này, có cả ông Putin cũng nhắc tới.
Một thử nghiệm: Putin bị từ chối vào NATO
Trong chương trình “The Putin Interview”, Tổng thống Nga Vladimir Putin tiết lộ rằng, trong lần gặp Tổng thống Mỹ Bill Clinton, ông ngỏ ý muốn gia nhập NATO, đó là năm 2000. Ông Putin nói với Tổng thống Clinton ý định Nga gia nhập NATO. Clinton trả lời “Tại sao không?”. Oliver Stone tiết lộ như vậy trong chương trình phỏng vấn Putin năm 2017.
Người ta còn biết năm 1990, trước khi Liên Xô sụp đổ, Gorbachev cũng đã ngỏ ý muốn gia nhập NATO nhưng bị từ chối.
Một bài viết trên báo Times còn cho biết không phải một lần mà ba lần Nga đã tỏ ý muốn gia nhập NATO nhưng không bao giờ ý muốn đó thành hiện thực. Lý do gì 3 lần Nga (một lần khi còn là Liên Xô) đều bị từ chối không cho gia nhập NATO?
– Vì tinh thần kì thị không cho Nga gia nhập vào gia đình châu Âu.
– Vì Nga là nước mạnh hơn bất cứ nước châu Âu nào, nếu Nga sinh hoạt trong NATO, Nga sẽ dẫn đầu vi phạm địa vị của Mỹ.
– NATO là một tổ chức quân sự, nếu Nga vào NATO thì NATO không còn lí do tồn tại.
Sau ba lần tỏ ý muốn tham gia sinh hoạt với NATO nhưng đều bị từ chối, Nga đã hiểu Tây phương muốn gì và sẽ làm gì, nên Nga bắt đầu chuẩn bị đối phó. Putin là người biết điểm mạnh, điểm yếu của ta và địch, nên ông đã chuẩn bị đối phó với việc cấm vận.
Giữa Nga và Mỹ, vấn đề Ukraine không phải là vùng địa chính trị quan trọng. Ukraine chỉ quan trọng với các nước Tây Âu, Đông Âu (nhất là Ba Lan) và các nước Baltic. Nhưng Mỹ đã dẫn đầu các nước NATO, cả Đông Âu, Tây Âu và Baltic để chặn đầu cầu Ukraine, để ngăn cản triệt để những bước phát triển của Nga về hướng Tây. Mỹ có lí do chiến lược của mình, xuất phát từ nhận thức “bảo thủ” muốn giữ vững địa vị bá chủ lục địa Âu – Á. Nếu Nga tiến tới, Mỹ mất chân đứng ở châu Âu, thì địa vị của Mỹ ở châu Á cũng không tồn tại được nên bằng mọi cách phải làm nước Nga tan rã hay ít nhất là suy sụp để Mỹ rảnh tay cùng các nước ở NATO chống Trung Quốc, một kẻ thù nguy hiểm hơn Nga nhiều. Giữa Mỹ và Nga còn vùng đệm là châu Âu, nhưng giữa Mỹ và Trung Quốc không có vùng đệm nào hết.
Chiến lược của Tổng thống Joe Biden
Mỹ xây dựng một chiến lược đối phó với tình hình thế giới để cố duy trì địa vị “cảnh sát quốc tế” của mình bằng một chiến lược lỗi thời. Joe Biden hăm hở nhập cuộc tại Ukraine, dùng Ukraine làm cuộc chiến tranh uỷ nhiệm, kéo toàn khối NATO vào phe tạo mâu thuẫn sâu sắc giữa NATO và Nga, để Mỹ củng cố quyền lực ở Tây Âu.
Với những đòn trừng phạt cấm vận, Joe Biden và ekip của ông hi vọng Nga sẽ suy yếu về kinh tế, phải mất thời gian khá dài Nga mới phục hồi được. Nhưng ông Biden không ngờ sự cấm vận nặng nề của Mỹ đã tạo ra sự rối loạn chính trị cho Tây Âu. Các đảng cầm quyền ở Tây Âu đều thất bại trong các cuộc bầu cử.
Riêng nước Nga chẳng hề hấn gì mà còn có cơ hội để phát triển sức mạnh bản thân. Nga – Trung tạm thời đoàn kết thách thức Mỹ bằng cách thúc đẩy một khối kinh tế – chính trị đối đầu G-20 của Mỹ, khối BRICS. Khối này đã quy tụ một số quốc gia có dân số lớn và GDP cao. Tuy nhiên, hiện nay BRICS chưa có một hoạt động kinh tế nào ngoài việc tỏ ý chí muốn có một thực thể độc lập với hệ thống kinh tế – tài chính của phương Tây và Mỹ. BRICS là hướng đi mới của thế giới đa cực, mới chỉ là gợi ý nhưng rất đáng lo ngại cho Mỹ. Dù đường còn xa nhưng BRICS sẽ ngày càng tập họp các nền kinh tế mới nổi thành một lực lượng thoát ly ảnh hưởng của đồng dollar Mỹ.
Những việc Mỹ làm với Nga như cấm vận, đóng băng tài sản, tịch thu tài sản của các tỷ phú Nga… những việc làm “bạo chúa” này làm các nền kinh tế lớn trên thế giới phải hết sức cảnh giác và tìm đường rời khỏi quỹ đạo của đồng dollar.
Dollar là sức mạnh duy nhất mà Mỹ có trong tay để duy trì thế giới đơn cực. Nhưng trong cuộc chạm trán với Nga, Mỹ đã tận dụng sức mạnh của đồng dollar làm cho nó mất hết những đặc tính tốt đẹp mà các nước có thể dựa vào đó mà gửi gắm tài sản. Ngược lại, tài sản gửi ở Mỹ (kể cả trái phiếu) cũng không còn là nơi an toàn tuyệt đối. Thế giới sẽ không ngạc nhiên nếu một đồng tiền mới ra đời, và nhiều nước sẽ dùng đồng tiền này làm dự trữ. Tuy chưa là hiện thực nhưng người ta đã nhìn thấy trước tương lai đó ở đường chân trời.
Không ai phủ nhận giá trị đồng USD còn rất mạnh, nhưng từ cuối thế kỷ XX, đồng tiền xanh này đã phải đối diện với nhiều thử thách. Sức mua của đồng Dollar Mỹ đã bị giảm trầm trọng ngay trong nội địa. Bắt đầu từ Covid-19, nạn lạm phát bùng nổ, hàng tiêu dùng không đủ cung ứng thị trường. Mặc dù chính phủ Mỹ cố gắng giảm lạm phát bằng cách tăng lãi suất (do FED ấn định), lãi suất tăng ảnh hưởng đầu tư làm thị trường hàng tiêu dùng không đủ khả năng cung ứng.
Việc này không phải chỉ vì Covid-19, mà bắt đầu từ việc khuyến khích công nghiệp nhẹ của Mỹ ra nước ngoài đầu tư, làm nước Mỹ trống rỗng ngành công nghiệp nhẹ, thị trường Mỹ phụ thuộc vào nhập khẩu. WTO cho phép hàng Trung Quốc tràn ngập thị trường Mỹ. Hàng Trung Quốc xâm nhập từ trong bếp của các gia đình Mỹ, quần áo, giày dép tới đồ điện tử…
Khi đưa công nghiệp tiêu dùng của Mỹ ra nước ngoài, không phải Mỹ không có toan tính. Trước hết là để dãn mật độ công nghiệp, tránh ô nhiễm, tiếp theo là chi phí sản xuất ở nước ngoài rẻ. Sản phẩm sản xuất ở nước ngoài nhập khẩu trở lại nước Mỹ, dân Mỹ, những người thuộc thành phần lợi tức thấp có đủ hàng hoá để dùng, khoảng cách giàu nghèo sẽ giảm bớt.
Sau hết là tâm lý nước Mỹ bá chủ một thế giới đơn cực, việc đưa vốn liếng, kỹ thuật ra nước ngoài chỉ là thực hiện “dòng chảy” trong một thế giới phẳng. Qua việc đầu tư, Mỹ sẽ chi phối nền kinh tế của các quốc gia nhận đầu tư. Các quốc gia này sẽ phụ thuộc vào quyết định kinh tế của Mỹ, đầu tư nhiều hay ít, Mỹ sẽ tạo sức ép lên các chính phủ nhận đầu tư. Đây là thủ đoạn kinh tế, nhưng cũng là phương cách “cai trị” thế giới đơn cực. Chính phủ nào dám trái ý vi phạm trật tự thế giới đơn cực, thị trường kinh tế của họ sẽ rung động vì giảm đầu tư, thị trường lao động xáo trộn và nhiều hệ luỵ khác. Rút cục, trật tự thế giới dưới sự lãnh đạo của Mỹ sẽ ổn định. Đó là những gì Mỹ tính toán từ nhiều thập niên trước. Với nhiều nước đang phát triển thì Mỹ đã thành công, nhưng với Trung Quốc thì khác.
Kỹ thuật và vốn Mỹ đến Trung Quốc thì hàng hoá Trung Quốc giá rẻ tràn ngập Mỹ. Trung Quốc chiếm lĩnh thị trường Mỹ, tạo thành thế “cài răng lược”, không có cách gỡ. Tăng thuế lên hàng Trung Quốc thì người tiêu thụ Mỹ sẽ phải gánh chịu, lạm phát sẽ tăng nhanh, đồng dollar mất giá.
Kêu gọi các công ty Mỹ trở về sản xuất trong nước, mong phục hồi công nghiệp nhẹ để sản xuất hàng tiêu dùng, đây là chuyện lý thuyết ít tính thực tiễn. Việc di chuyển cơ sở sản xuất từ nơi này đến nơi kia không dễ dàng gì. Vả lại, sản xuất ở Mỹ giá thành sẽ đắt hơn, hàng tiêu dùng đắt hơn, rồi những hậu quả xã hội sẽ xảy ra tiếp theo. Nếu cho rằng giá nhân công ở Trung Quốc bây giờ cũng cao, giá lao động rẻ không còn tồn tại ở Trung Quốc nữa thì cũng có thể là như vậy, nhưng yếu tố thị trường tiêu thụ của xứ tỷ dân vẫn làm doanh thu của các công ty ở địa bàn này vẫn hấp dẫn.
Nếu các công ty Mỹ trở về thì phí tổn di chuyển, thời gian tái sản xuất đâu có dễ dàng gì. Một số công ty nước ngoài đã rút khỏi Trung Quốc, nhưng con số không đáng bao nhiêu. Họ di chuyển đến những thị trường kế cận với thị trường Trung Quốc để né thuế của Mỹ, nhưng vẫn có liên hệ gần gũi với thị tường tỷ dân cả đầu ra lẫn đầu vào.
Nếu nói rằng Cách mạng 4.0 làm các thị trường lao động giá rẻ không còn giá trị, không còn hấp dẫn nữa, điều này đúng cho tương lai nhưng không phải bây giờ. Vả lại, tổ chức một nhà máy sản xuất theo kiểu mới nghĩa là lao động được thay bằng robot, trí tuệ được thay bằng AI, sẽ phải trả một phí tổn bằng thiết bị mới, các dây chuyền sản xuất sẽ phải thay đổi hết. Khâu đặc biệt quan trọng là đã có công ty hay doanh nghiệp nào có đủ nhân sự để điều hành một nhà máy như thế chưa? Giá tiền một robot có rẻ không?
Những toan tính của Mỹ là chủ quan dựa trên tư tưởng là thế giới đơn cực sẽ tồn tại lâu dài. Mỹ làm một trong những nhiệm vụ lãnh đạo là phân công lao động, sản xuất cho thế giới. Nước Mỹ làm vai trò quản lý cho guồng máy kinh tế toàn cầu. Mỹ có những ưu thế để tin rằng mình có thể làm như thế: Thứ nhất, Mỹ có nền khoa học – kỹ thuật rất cao, chỉ cần Mỹ không cung cấp công nghệ là nền kinh tế nhận đầu tư khó lòng vươn lên được. Thứ hai, Mỹ có đồng tiền Dollar là tiền quốc tế, các cơ quan quản lý tiền tệ thế giới như IMF, WB đều trong tay Mỹ. Thứ ba, Mỹ có sức mạnh quân sự, chính trị khắp nơi trên thế giới. Mỹ sẵn sàng tạo ra các biến cố chính trị hay quân sự ở bất cứ đâu nếu cần.
Những nước bị Mỹ vùi dập bằng quân sự hay chính trị thì hàng thế kỷ chưa ngóc đầu lên được. Đòn trừng phạt của Mỹ rất ác liệt, làm phá sản những quốc gia thuộc vào loại “có máu mặt” như Iraq, Libya, Serbia… Những nước chỉ bị Mỹ ra đòn chính trị bằng cái gọi là Cách mạng màu, không có vấn đề quân sự, cũng rất điêu đứng. Đó là các thứ “hoa” cách mạng ở các nước Đông Âu, vụ Euromaidan đã đưa Ukraine lọt hẳn vào quỹ đạo của Mỹ để Mỹ sai xử trong bàn cờ chống Nga. Hậu quả ra sao không cần bàn.
Đến đây, xin kể lại một câu chuyện trên báo chí Mỹ, cụ thể là tạp chí Time. Lúc ông Tổng thống Serbia là Slobodan Milosevic đang chuẩn bị đánh nhau với Mỹ, một kí giả người Đức nói với ông rằng: “Ông nên tìm một giải pháp hơn là chiến tranh, chiến tranh với Mỹ kinh hoàng lắm, nước tôi đã trải qua chiến tranh với Mỹ tôi biết”. Ông Slobodan Milosevic nói: “Thế Việt Nam thì sao?” Ký giả người Đức trả lời: “Nước ông không phải là nước Việt Nam và ông cũng không phải là Hồ Chí Minh”.
Việt Nam luôn là một ngoại lệ lịch sử, Đế quốc Mông Cổ không làm gì được, Đế quốc Mỹ cũng chẳng làm gì được, dù hai Đế quốc này đều hùng mạnh nhất thế giới ở thời đại của nó. Lịch sử Việt Nam có nhiều tự hào, nhưng bây giờ hãy trở lại với Ukraine.
Chiến lược của ông Biden là phải bảo vệ thế giới đơn cực, phải gom châu Âu về một mối kể cả Nga. Nhưng nước Nga vốn mạnh hơn bất kì nước châu Âu nào, nên phải làm cho Nga suy yếu bằng cuộc chiến tranh tiêu hao. Ukraine được Mỹ và châu Âu giao nhiệm vụ, tiền và vũ khí sẽ rót cho Ukraine một cách ồ ạt. Ukraine nhận uỷ nhiệm làm mồi nhử, lôi Nga vào cuộc chiến tiêu hao bằng hai mũi tiến công: (1) Làm Nga sa lầy trên trận địa vì vũ khí của Mỹ và phương Tây (giả định là công nghiệp quốc phòng Nga lạc hậu từ sau Chiến tranh Lạnh); (2) Làm Nga kiệt quệ về kinh tế bằng cấm vận tàn bạo.
Hậu quả của hai mũi tiến công sẽ làm chính trị Nga rối loạn, Putin sẽ bị lật đổ, phe thân phương Tây sẽ lên cầm quyền. Đòn cuối cùng là một cuộc cách mạng màu sẽ tạo ra một bù nhìn Nga của Tây phương – tất cả chỉ là ảo.
Bình định trời Tây xong, Mỹ và Tây phương sẽ dồn lực lượng vào Trung Quốc tại mặt trận Ấn Độ – Thái Bình Dương. Không vì “bận việc” Nga mà Mỹ buông lỏng mặt trận này.
Trước hết để lên dây cót tinh thần chống Trung Quốc, Chủ tịch Hạ viện Pelosi chính thức thăm Đài Loan để khẳng định Mỹ không bỏ rơi cứ điểm chiến lược Đài Loan. Các nước Nhật, Hàn, Philippines yên tâm chống Trung Quốc. Các cơ sở chiến lược tại Ấn Độ – Thái Bình Dương được củng cố gồm có:
– Liên minh quân sự với Úc, Anh. Mỹ gạt Pháp ra khỏi vai trò quân sự với Úc. Anh Mỹ trực tiếp giúp Úc hiện đại hoá hải quân bằng cách cung cấp tàu ngầm hạt nhân cho Úc, để Úc có thể mở rộng tầm hoạt động lên tận Biển Đông, canh chừng hoạt động của Trung Quốc tại Nam Cực. Hải quân Úc cũng mở rộng hoạt động tại Nam Thái Bình Dương để bảo vệ các nước Nam Mỹ chống Trung Quốc xâm nhập Mỹ Latin.
– Tổ chức Bộ tứ Kim cương gồm liên minh Mỹ – Anh – Úc – Ấn.
– Tổ chức Liên minh Ngũ Nhãn (Five Eyes).
– Tổ chức AUKUS.
Tất cả trong tình trạng báo động, giám sát mọi hành vi của Trung Quốc ở Biển Đông và hai đại dương là Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương. Vì mặt trận châu Âu chưa xong nên mặt trận với Trung Quốc chỉ ở tình trạng “sẵn sàng tác chiến”, chưa có hành động nào cụ thể.
Nói là chiến lược Joe Biden thì đó chỉ là cách gọi tên. Chiến lược này được nhóm “Deep State” (học thuyết về Nhà nước ngầm) của Mỹ chuẩn bị tỉ mỉ từ lâu. Joe Biden chỉ là người chịu trách nhiệm thi hành.
Khi chiến tranh Ukraine nổ ra, Joe Biden ban hành lệnh trừng phạt rất bài bản như là việc công bố một chương trình đã được soạn sẵn. Sau Chiến tranh Lạnh, Mỹ đã tiến hành trôi chảy việc gom cả Đông, Tây Âu vào một mối là NATO. Riêng Ukraine thì không dễ vì nó quan trọng đến sự sống còn của Liên bang Nga. Hơn nữa, Ukraine còn là một thực thể thuộc không gian hậu Xô Viết mà Mỹ và phương Tây đã hứa là tôn trọng ảnh hưởng của Nga trong không gian này.
Vấn đề chiếm lĩnh Ukraine phải do lỗi tại Nga, Nga là kẻ gây chiến, Nga xâm lăng nên Mỹ và phương Tây phải “thực thi luật pháp quốc tế”, thi hành Hiến chương Liên Hiệp Quốc để bảo vệ Ukraine. Chẳng khó khăn gì khi muốn dồn Nga vào chân tường, buộc phải gây chiến, đó là việc Ukraine dưới sự lãnh đạo của Zelensky cứ nằng nặc đòi vào NATO. Nếu không kịp thời ngăn chặn thì vũ khí hạt nhân của NATO sẽ chỉ còn cách Điện Kremlin 20 phút. Đợi khi Ukraine vào NATO rồi mới hành động thì quá trễ. Lúc đó Nga sẽ phải đương đầu với Điều 5 của Hiến chương NATO.
Không đợi nước đến chân, nước gần đến cửa thì Nga hành động. Đó là ngày 24/2/2022, ngày nổ ra chiến tranh Ukraine. Mỹ chắc là mừng khôn tả, Nga đã mắc bẫy.
Có thể kết luận nhanh gọn là chiến lược Joe Biden đã phá sản.
Chiến lược Mỹ ảnh hưởng ngược lại Mỹ và các nước NATO
Chiến lược “hai mũi giáp công” của Mỹ và Tây Âu hối hả áp dụng cho Nga. Không phải chỉ có nước Nga phải chịu đựng, ảnh hưởng ngược của nó làm kinh tế, xã hội lẫn chính trị Mỹ và Tây Âu khốn đốn. Hậu quả mà nước Mỹ phải chịu là:
– Thâm hụt ngân sách vì phải chi trả cho các công ty sản xuất vũ khí để viện trợ Ukraine. Nợ công tăng không giới hạn (hiện thời là 36 ngàn tỷ USD).
– Giá trị đồng USD suy giảm, vật giá leo thang.
– Giai cấp trung lưu ở Mỹ phá sản rất nhiều do nạn đem công nghiệp tiêu dùng ra nước ngoài, nạn thất nghiệp lớn. Người vô gia cư trở thành gánh nặng ở khắp các thành phố lớn. Nhất là ở New York, nơi có Trụ sở Liên hợp quốc nên có nhiều khách quốc tế trú ngụ hoặc tới dự họp đều chứng kiến cảnh người vô gia cư chiếm đóng các công viên và hè phố như thế nào.
– Nạn Covid-19 lại làm trầm trọng thêm tai hoạ cho giai cấp trung lưu.
Nhà nước Mỹ đã không giải quyết tích cực vấn đề xã hội này lại còn mang tiền viện trợ Ukraine. Thật ra số tiền gọi là “viện trợ” chui vào túi giới tài phiệt đủ các ngành từ “lái súng”, giao thông vận tải, y tế, điện tử… đều có phần chia từ miếng bánh ngân sách.
Giá nhà lên cao ngất ngưởng (giá thuê cũng như giá mua nhà), nên người có thu nhập thấp không còn hi vọng có được nơi cư trú. Họ phải ở lề đường những nơi đất trống, nơi công viên. Nhà nước chỉ giải quyết một cách hời hợt, cốt lấy tiếng để thắng trong các cuộc tranh cử. Họ cũng không còn khả năng giải quyết thật sự vấn đề, chỉ nói qua nói lại, “đá bóng” cho nhau chứ không tìm cách giải quyết. Giới tài phiệt ngày càng giàu thêm nhờ vào các cuộc chiến tranh cục bộ đây đó trên thế giới.■
Nguyễn Thế Tuấn