
Đới Lạp, nhân vật từng được coi là “đáng sợ nhất Trung Quốc”, là người đứng đầu cơ quan mật vụ của Tưởng Giới Thạch trong Chiến tranh Thế giới thứ 2. Cuốn sách “Đới Lạp và cơ quan mật vụ Trung Quốc” (Spymaster: Dai Li and the Chinese Secret Service) của tác giả Frederic Wakeman Jr. là một cuốn tiểu sử chi tiết dựa trên các kho lưu trữ tình báo được công bố về “Himmler của Trung Quốc”, người tạo ra tổ chức gián điệp và phản gián lớn nhất thế giới thời bấy giờ.
Cuốn sách kể câu chuyện về Đới Lạp, “một cảnh sát mật phi thường”, và về bộ máy gián điệp khổng lồ mà ông ta đã xây dựng nên. Quan trọng hơn, khi kể lại chi tiết về sự dính líu của Mỹ với Đới Lạp, câu chuyện đã đưa ra một bài học có liên quan tới ngày nay, về bản chất của các mối quan hệ tình báo giữa các đồng minh, chúng có thể trở nên sai lầm như thế nào, và cách Cơ quan Tình báo Chiến lược Hoa Kỳ trong Thế chiến II (OSS) khéo léo xử lý một mối quan hệ đã trở nên tồi tệ ra sao.
Đới Lạp là một điệp viên lão luyện và là tay chân thân cận của nhà lãnh đạo Trung Hoa Dân Quốc Tưởng Giới Thạch trong Chiến tranh Thế giới thứ II, từng được người Anh ví như “Himmler của Trung Quốc”. Là người đứng đầu Cục Điều tra và Thống kê của Ủy ban Quân sự Quốc dân Đảng, hay còn gọi là Juntong, Đới Lạp đã kiểm soát hàng chục nghìn điệp viên ở Trung Quốc và ở các quốc gia có cộng đồng người Hoa. Các nguồn tin chính thức cho rằng Đới Lạp có tới 100.000 điệp viên tác nghiệp vào năm 1945, “Có 50.000 điệp viên thường trực điều hành tài sản, và lên tới khoảng 500.000 điệp viên và người cung cấp thông tin, khiến Juntong trở thành tổ chức gián điệp lớn nhất thế giới vào thời điểm đó”. Chủ yếu nhắm vào các đối thủ chính trị của Tưởng Giới Thạch và những người cộng sản, Juntong đã thực hiện “đủ kiểu công việc gián điệp và tình báo”.
Đới Lạp sinh năm 1897 tại vùng đồi núi của tỉnh Chiết Giang. Ngay từ khi còn là một thiếu niên, ông ta đã được xem là có khiếu lãnh đạo, nhưng cũng là “một kẻ gây rối nghiện tình dục và cờ bạc”. Bị bắt vì gian lận khi chơi bài, ông ta bỏ trốn rồi nhập ngũ, rồi lại đào ngũ – nhưng trước đó đã kịp kết nối với Lục hội, một nhóm côn đồ khét tiếng kiểm soát thế giới ngầm ở Thượng Hải. Mối liên hệ này sau này sẽ rất có ích cho Đới Lạp.
Năm 1921, khi đang sống “vất vưởng” ở Thượng Hải, Đới Lạp đã gặp Tưởng Giới Thạch và làm một số việc vặt cho ông ta. Năm 1926, có lẽ là nhờ sự giúp đỡ của Lục hội, Đới Lạp được nhận vào Học viện Quân sự Hoàng Phố, nơi Tưởng Giới Thạch làm Hiệu trưởng. Để lấy lòng Tưởng, người muốn sử dụng ông ta như một cận vệ, Đới Lạp đã báo cáo với Tưởng về sự trong sáng về mặt tư tưởng của các học viên đồng môn. Những người ông ta xác định là cộng sản đã bị loại bỏ trong một cuộc thanh trừng tại Hoàng Phố vào năm 1927.
Trường Quân sự Hoàng Phố và các cựu học viên của ngôi trường này chính là cơ sở để Tưởng Giới Thạch tạo dựng quyền lực cho mình. Những người trung thành với ông ta di chuyển qua lại giữa một loạt hiệp hội, hội kín và các tổ chức bình phong. Len lỏi trong tất cả các tổ chức này là bộ máy gián điệp cá nhân của Tưởng gồm các tổ chức tình báo bí mật mà ông ta cho phép đấu đá lẫn nhau để tranh giành tiền bạc và quyền lực.
Năm 1928, Tưởng Giới Thạch thành lập một đơn vị tình báo gồm 10 người có tên là Nhóm liên lạc và giao cho Đới Lạp phụ trách. Nhóm này phải cạnh tranh với nhiều tổ chức khác, và sau này được gọi là “phôi thai của tất cả các tổ chức tình báo quân sự của đảng và nhà nước”. Để củng cố vị thế của mình, Đới Lạp đã thành lập “Nhóm 10”, gồm những người tốt nghiệp Trường Quân sự Hoàng Phố mà ông ta đưa vào “biên chế” trả lương riêng của mình và trở thành cốt lõi trong “cơ quan mật vụ” cá nhân của ông ta.
Năm 1932, khi Tưởng Giới Thạch cần thông tin tình báo mà những người khác không thể cung cấp, ông ta đã chỉ đạo Đới Lạp biến Nhóm 10 thành một Sở Dịch vụ Đặc biệt chính thức. Nhóm 10 đã trở thành hơn một trăm người, và sự trỗi dậy của Đới Lạp bắt đầu. Đới Lạp trở thành nguồn tin tình báo chính trị chính của Tưởng, và vào năm 1938, Tưởng thành lập một cơ quan an ninh độc lập mới là Juntong. Đới Lạp được bổ nhiệm làm người đứng đầu Juntong.
Trước khi chiến tranh với Nhật Bản nổ ra, các hoạt động của Đới tập trung ở Thượng Hải, nơi ông ta mua chuộc cảnh sát và tận dụng các kỹ năng của đồng bọn trong Hội Áo xanh. Bắt cóc và tra tấn trở thành công cụ để thu thập thông tin tình báo và tiêu diệt các kẻ thù của Tưởng cùng những người cộng sản. Buôn bán ma túy và các loại hàng lậu khác là phương tiện để bổ sung cho ngân sách khi các hoạt động và quyền lực của Đới Lạp ngày càng gia tăng. Đới Lạp là người duy nhất được phép mang vũ khí khi vào gặp Tưởng Giới Thạch. Ông ta trở thành người đàn ông đáng sợ nhất ở Trung Quốc. Nhiều bà mẹ dùng tên ông ta làm “ông ba bị” dọa trẻ con.
Sau cuộc tấn công của Nhật Bản vào Trân Châu Cảng tháng 12/1941, người Mỹ bắt đầu đổ xô vào Trung Quốc, một số người có những ý tưởng lớn để giành chiến thắng trong cuộc chiến và tiếp cận được các nguồn quỹ để thực hiện điều đó. Đới Lạp chưa bao giờ hòa đồng với người nước ngoài và tránh giao dịch với họ. Sau đó, ông ta gặp một sĩ quan Hải quân Mỹ cởi mở với các ý tưởng của ông ta – Chỉ huy Milton E. Miles, người được coi là hiểu biết nhất về Trung Quốc trong Hải quân Hoa Kỳ. Miles được cử đến Trung Quốc vào đầu năm 1942 để thiết lập các trạm thời tiết và “để chế giễu người Nhật”.
Đới Lạp đưa Miles đi thăm Trung Quốc bị chiếm đóng và gây ấn tượng với ông ta về việc Juntong có thể hoạt động dễ dàng như thế nào sau phòng tuyến của Nhật Bản. Trước khi chuyến đi kết thúc, Đới đề xuất thành lập một đội quân du kích Trung Quốc gồm 50.000 người dưới sự kiểm soát của Trung – Mỹ. Không tham khảo ý kiến Washington, Miles đồng ý, và hai người bắt đầu tiến hành việc thành lập tổ chức mà sau này trở thành Tổ chức Hợp tác Trung – Mỹ (SACO) để thực hiện hoạt động gián điệp, các chiến dịch đặc biệt và tình báo tín hiệu. Phía Trung Quốc sẽ cung cấp nhân lực; Hoa Kỳ cung cấp phần còn lại. Đới Lạp sẽ là Giám đốc SACO, Miles là Phó Giám đốc.
Việc Washington phê duyệt thỏa thuận SACO cũng đồng thời yêu cầu Miles phải được bổ nhiệm làm Giám đốc hoạt động OSS tại Trung Quốc. Giám đốc OSS “Wild Bill” Donovan phản đối ý tưởng này, nhưng vì OSS cần một căn cứ tại Trung Quốc cho các hoạt động ở châu Á, nên ông ta đã đồng ý “liên minh không vui vẻ với Miles và Đới Lạp”. OSS được phép vào Trung Quốc “với tư cách là đối tác cấp dưới của cơ quan tình báo của Tướng Đới Lạp “. Người của OSS và Hải quân Hoa Kỳ bắt đầu đến căn cứ của Đới Lạp, Happy Valley, ở bên ngoài Trùng Khánh để đào tạo mọi thứ cho người của Đới, từ chiến tranh du kích đến điều tra tội phạm, thậm chí là một “trường FBI” để đào tạo cảnh sát mật của Đới.
Nhưng ngay từ đầu đã có nhiều vấn đề. Cảnh sát mật của Đới được chỉ đạo chống lại kẻ thù của Tưởng Giới Thạch ở trong nước, chứ không phải người Nhật. Và còn có vấn đề tra tấn: Happy Valley, nơi có một nhà ăn sạch sẽ và nhà vệ sinh kiểu phương Tây dành cho người Mỹ, cũng có “một nhà tù u ám với những câu chuyện chẳng mấy vui vẻ”. Có Miles, người khăng khăng rằng không được giữ bí mật bất cứ điều gì với người Trung Quốc; họ sẽ làm việc trực tiếp với người Mỹ và mọi thứ sẽ được chia sẻ. Có Đới Lạp, người đã nhúng tay cản trở các hoạt động của OSS. Các điệp viên Thái Lan tự do xâm nhập vào Thái Lan đã bị trì hoãn và một số người đã bị giết. Đới Lạp có kế hoạch riêng của mình. Ông ta sẽ xâm lược Thái Lan với lực lượng gồm 10.000 du kích Trung Quốc cải trang thành người Thái – trên 10.000 con ngựa Tây Tạng.
Tình hình càng trở nên phức tạp hơn khi phe Đồng minh nghi ngờ Đới Lạp đang trao đổi bí mật với tình báo Nhật. Tháng 10/1943, Giám đốc OSS Donovan được lệnh thu thập thông tin tình báo tại các khu vực do cộng sản kiểm soát ở Trung Quốc. Donovan nói với Roosevelt, “Chúng tôi không thể thực hiện công việc của mình như một cơ quan tình báo Hoa Kỳ trừ khi chúng tôi hoạt động như một cơ quan hoàn toàn độc lập, độc lập với Trung Quốc và các đồng minh khác của chúng ta”, Tổng thống đồng ý.
Donovan đã đến Trung Quốc vào cuối năm 1943. Trong bữa tối tại tư dinh của Đới Lạp, Donovan nói với Đới rằng OSS sẽ hoạt động đơn phương bên trong Trung Quốc. Đới trả lời rằng ông ta sẽ xử tử bất kỳ điệp viên OSS nào bị phát hiện hoạt động ngoài khuôn khổ thỏa thuận SACO. Donovan đập tay xuống bàn và hét lên, “Với mỗi điệp viên của chúng tôi bị các người giết, chúng tôi sẽ giết một trong những vị tướng của các người!”. Ngày hôm sau, Donovan gặp Tưởng Giới Thạch, Tưởng đã nói về chủ quyền của Trung Quốc và yêu cầu OSS hành động theo đó.
Để kệ Miles tiếp tục với các hoạt động của Đới Lạp, Donovan đã bí mật thiết lập một cơ chế thu thập thông tin tình báo riêng của OSS mà không báo cho cả Miles lẫn Đới. Donovan đã tìm được một đồng minh trong Tư lệnh Không quân số 14, Tướng Claire Chennault. Chennault từng là cố vấn hàng không của Tưởng Giới Thạch từ năm 1937. Ông không cần Đới Lạp và đã từ chối lời đề nghị hợp tác ban đầu. Nhưng khi chiến tranh mở rộng, máy bay ném bom của Chennault cần nhiều thông tin tình báo hơn những gì người Trung Quốc có thể cung cấp. Ông đã tạo ra mạng lưới điệp viên người Mỹ của riêng mình, hoạt động sau các phòng tuyến của Nhật Bản.
Chennault đồng ý hợp tác với Donovan. Kết quả là Đội ngũ nhân viên kỹ thuật và Tài nguyên không quân và lục quân số 5329 (AGFRTS). OSS sẽ điều hành các hoạt động bên trong lãnh thổ Nhật Bản bằng cách sử dụng tư lệnh Không quân số 14 làm vỏ bọc để che mắt phía Trung Quốc. Sau này Donovan viết rằng: “AGFRTS đã thành công trong khi SACO thất bại, và các kết quả đã được nhìn thấy ngay lập tức”. Các điệp viên OSS phía sau chiến tuyến đã thu thập thông tin tình báo về vận tải đường sắt và đường thủy của Nhật Bản và các mục tiêu khác, thẩm vấn tù nhân, huấn luyện du kích, đôi khi tham gia vào chiến tranh du kích và thực hiện nhiều hoạt động quan trọng khác.
Ngược lại, “không có thông tin tình báo hoặc hoạt động nào có kết quả đến từ SACO”, Donovan báo cáo với Roosevelt vào tháng 11/1944. Nhiều nhà sử học khác cũng đồng tình với nhận định này. Chính Đới Lạp và “đế chế bí mật” của ông ta đã được hưởng lợi. Sau chiến tranh, Đới Lạp đã nổi lên ở đỉnh cao quyền lực. Nhưng khi quá trình tái định vị hậu chiến bắt đầu, ông ta bắt đầu tin rằng Tưởng Giới Thạch có ý định loại bỏ Juntong. Mùa xuân năm 1946, tin đồn về việc Đới Lạp sắp “về vườn” lan truyền khắp nơi. Vào ngày 17/3/1946, chiếc máy bay chở Đới Lạp đã đâm vào những ngọn đồi ở bên ngoài Nam Kinh. Đới Lạp đã chết, nhưng nhiều người không tin điều đó. Một số người cho rằng vụ tai nạn do phe cộng sản gây ra, những người khác thì nói do một quả bom do OSS cài. Tin đồn phổ biến nhất là Đới Lạp đã tự giả chết.
Nhưng Đới Lạp đã chết thực sự, và đó là do thời tiết xấu, không phải do OSS. Ông ta được chôn cất trên một sườn đồi bên ngoài Nam Kinh.
Được một số người cho là anh hùng, nhưng nhiều người lại coi như ác quỷ, Đới Lạp đã tạo ra cỗ máy gián điệp lớn nhất thời bấy giờ. Tuy nhiên có nhiều đánh giá trái chiều về hiệu quả của bộ máy tình báo này. Thành công lớn nhất của nó là chống lại những kẻ thù trong nước của Tưởng Giới Thạch và những người bất đồng chính kiến với chế độ của ông ta, một phần là chống lại người Nhật và những người cộng tác với họ, nơi mà việc thu thập thông tin tình báo bị phụ thuộc vào mối quan hệ thương mại béo bở giữa người Trung Quốc và người Nhật dưới chiêu bài xâm nhập lẫn nhau. Với mục tiêu chính của Juntong là Đảng Cộng sản Trung Quốc, dường như chỉ có những thành công rất hạn chế.■
Minh Thư dịch
(Nguồn: Tạp chí Nghiên cứu tình báo của CIA, Tập 53, 2009)