
Xung đột giữa Israel và thế giới Hồi giáo đã kéo dài suốt hơn bảy thập niên kể từ khi nhà nước Israel ra đời năm 1948. Trong cuộc đối đầu dai dẳng đó, Iran nổi lên như đối thủ cứng rắn nhất của Israel. Sau Cách mạng Hồi giáo 1979, chính quyền Tehran thể hiện lập trường thù địch với Israel, không công nhận sự tồn tại của nhà nước Do Thái và hậu thuẫn nhiều lực lượng vũ trang chống Israel. Nổi bật nhất, Iran cung cấp tài chính, vũ khí cho phong trào vũ trang Hamas ở Palestine và tổ chức Hezbollah ở Lebanon – những “cánh tay nối dài” đe dọa trực tiếp Israel. Thông qua Lực lượng Vệ binh Cách mạng Hồi giáo (IRGC), Tehran xuất khẩu ảnh hưởng và hệ tư tưởng Hồi giáo của mình ra khắp Trung Đông, biến Iran trở thành “cái gai” trong mắt Israel cũng như các cường quốc phương Tây. Từ góc nhìn của phương Tây, Iran bị xem là nhà nước bảo trợ khủng bố, gây mất ổn định khu vực và đe dọa các đồng minh chủ chốt của Mỹ tại Trung Đông. Chính vì vậy, suốt hàng chục năm qua, Mỹ và Israel luôn coi Iran là đối thủ chiến lược nguy hiểm nhất tại Trung Đông, và mâu thuẫn giữa hai bên ngày càng gay gắt qua từng biến cố lịch sử.
Lo ngại hạt nhân của Iran và phản ứng của phương Tây
Một trong những nguyên nhân cốt lõi khiến Israel và phương Tây quyết liệt với Iran là tham vọng hạt nhân của Tehran. Chính quyền Iran luôn khẳng định chương trình hạt nhân của họ chỉ phục vụ mục đích dân sự. Tuy nhiên, việc Iran âm thầm mở rộng năng lực làm giàu uranium làm dấy lên lo sợ rằng Tehran muốn chế tạo vũ khí hạt nhân – điều mà Israel xem là mối đe dọa sinh tồn đối với mình. Quả thực, một Iran sở hữu bom hạt nhân không chỉ tạo lợi thế răn đe vượt trội, làm đảo lộn cán cân sức mạnh khu vực, mà còn trực tiếp đe dọa sự tồn vong của nhà nước Do Thái (vốn nằm trong tầm bắn tên lửa Iran). Các nước phương Tây cũng lo ngại viễn cảnh Iran có vũ khí hạt nhân sẽ châm ngòi cuộc chạy đua vũ trang trong thế giới Ả Rập.
Để ngăn chặn Iran, cộng đồng quốc tế đã nhiều lần đàm phán với Tehran. Dưới thời Tổng thống Mỹ Barack Obama, thỏa thuận hạt nhân lịch sử mang tên JCPOA đã đạt được năm 2015, theo đó Iran đồng ý hạn chế nghiêm ngặt chương trình hạt nhân (chỉ làm giàu uranium ở mức 3,67% và cho phép thanh sát quốc tế) đổi lại phương Tây dỡ bỏ cấm vận kinh tế. Thỏa thuận này từng được ca ngợi là giải pháp ngoại giao giúp trì hoãn đáng kể tham vọng hạt nhân của Iran. Tuy nhiên, đến năm 2018, Tổng thống Mỹ Donald Trump đơn phương rút Mỹ khỏi JCPOA với lý do thỏa thuận chưa đủ mạnh, và tái áp đặt các biện pháp trừng phạt khắc nghiệt lên Tehran. Phản ứng trước áp lực “tối đa” từ Washington, Iran dần giảm tuân thủ JCPOA và tăng tốc các hoạt động hạt nhân bị cấm. Đến năm 2021, Tehran đã nâng mức làm giàu uranium lên 60% – cao nhất từ trước tới nay và chỉ còn một bước kỹ thuật ngắn là đạt cấp độ vũ khí. Cơ quan năng lượng nguyên tử quốc tế (IAEA) sau đó kết luận Iran đã vi phạm các cam kết của mình theo Hiệp ước không phổ biến hạt nhân (NPT).
Chính quyền kế nhiệm của Tổng thống Joe Biden cố gắng đưa Mỹ quay lại JCPOA, nhưng các vòng đàm phán trong các năm 2021-2023 không đạt kết quả do bất đồng về điều kiện và do Iran đã đạt được những tiến bộ khó đảo ngược trong công nghệ hạt nhân. Trong khi đó, Israel ngày càng mất kiên nhẫn. Giới lãnh đạo Israel nhiều lần tuyên bố sẽ không bao giờ để Iran sở hữu vũ khí hạt nhân và ám chỉ sẵn sàng dùng giải pháp quân sự nếu ngoại giao thất bại – tương tự như cách Israel từng không kích phá hủy lò phản ứng hạt nhân của Iraq năm 1981 và của Syria năm 2007. Thực tế, các nỗ lực ngoại giao suốt ba đời tổng thống Mỹ (Obama, Trump, Biden) đều không ngăn được Iran tiến gần ngưỡng năng lực chế tạo bom hạt nhân. Từ góc nhìn của Israel và phương Tây, lựa chọn quân sự là tất yếu trong việc kiềm chế chương trình hạt nhân Iran.
Khía cạnh địa chính trị ở Trung Đông
Bên cạnh hồ sơ hạt nhân, Iran còn là một thế lực địa chính trị lớn mà phương Tây muốn kiềm tỏa. Tại Trung Đông, Iran tự xem mình là lãnh tụ của “trục kháng cự” chống lại ảnh hưởng của Mỹ và Israel. Thông qua việc hậu thuẫn chính phủ Syria, các dân quân Shiite ở Iraq, Hezbollah ở Lebanon, Houthis ở Yemen và Hamas ở Palestine, Tehran đã mở rộng một “vòng cung ảnh hưởng” thách thức trực tiếp các đồng minh của Mỹ trong khu vực. Không những vậy, Iran còn tăng cường gắn kết với các cường quốc Á – Âu như Nga và Trung Quốc. Năm 2024, Iran chính thức được kết nạp vào khối BRICS mở rộng – cùng với những quốc gia như Nga và Trung Quốc đang muốn định hình BRICS thành một đối trọng với phương Tây. Về quân sự, Tehran và Moscow xích lại gần nhau do cùng chịu cấm vận của Mỹ. Iran thậm chí bị cáo buộc cung cấp máy bay không người lái và tên lửa cho Nga sử dụng trong cuộc xung đột Ukraine. Quan hệ đối tác Iran – Trung Quốc cũng đi lên sau khi hai nước ký hiệp ước hợp tác chiến lược 25 năm vào 2021, với các dự án đầu tư hàng chục tỷ USD của Bắc Kinh vào dầu khí và hạ tầng Iran.
Từ góc độ Washington và các thủ đô phương Tây, việc Iran ngả về phía Nga – Trung Quốc là một thách thức nghiêm trọng đối với ảnh hưởng của họ ở Trung Đông. Do đó, làm suy yếu Iran sẽ đồng nghĩa với việc bẻ gãy một mắc xích quan trọng trong liên minh các nước chống phương Tây, cũng như mở ra cơ hội để Mỹ mở rộng lại tầm ảnh hưởng tại vùng Vịnh. Từ năm 2024, Mỹ và đồng minh đã có nhiều bước đi cứng rắn nhằm cô lập Iran. Về ngoại giao, Mỹ tìm cách thúc đẩy các nước Ả Rập hình thành mặt trận chung chống Tehran – tiêu biểu là nỗ lực làm trung gian hòa giải cho quan hệ Israel – Ả Rập Xê-út. Phương Tây cũng tiếp tục gia tăng cấm vận kinh tế, trừng phạt các quan chức và thực thể Iran với hy vọng làm Tehran suy yếu và giảm nguồn lực cho các hoạt động can thiệp khu vực. Về quân sự, Washington duy trì hiện diện đáng kể ở vùng Vịnh (hải quân Mỹ thường xuyên tuần tra eo biển Hormuz) và hỗ trợ nâng cao năng lực phòng thủ cho Israel cùng các nước Ả Rập thân thiện. Năm 2024, Mỹ đã cùng Israel và một số đồng minh Trung Đông âm thầm thiết lập một cơ chế phòng thủ tên lửa chung, thể hiện qua việc khi Iran phóng tên lửa nhằm vào Israel thì các tàu chiến và căn cứ Mỹ lập tức tham gia đánh chặn. Những động thái này nằm trong chiến lược rộng hơn nhằm bao vây Iran: cô lập về chính trị, bóp nghẹt về kinh tế và sẵn sàng răn đe quân sự, qua đó tạo tiền đề để Mỹ lấy lại ảnh hưởng tại Trung Đông vốn bị suy giảm sau một thập kỷ Mỹ tập trung vào các khu vực khác.
Tóm lại, đối với phương Tây, Iran không chỉ là một “mối nguy hạt nhân” mà còn là vật cản cuối cùng ngăn cản trật tự Trung Đông theo ý họ. Nếu Iran bị khuất phục hoặc thay đổi chế độ theo hướng thân phương Tây, Mỹ sẽ dễ dàng củng cố vị thế lãnh đạo trong khu vực, còn Nga và Trung Quốc sẽ mất đi một đồng minh chiến lược. Đây chính là động cơ sâu xa khiến phương Tây ủng hộ mạnh mẽ Israel trong các nỗ lực kiềm chế Iran.
Chiến dịch quân sự và tình báo của Israel
Sau cuộc chiến đẫm máu với Hamas ở Gaza cuối năm 2023, Israel nhanh chóng chuyển hướng tập trung sang đối phó Iran – mà họ coi là “kẻ chủ mưu” đứng sau nhiều nhóm vũ trang thù địch. Bước sang năm 2024, Tel Aviv phát động một loạt chiến dịch tình báo, phá hoại và tấn công phủ đầu nhằm làm suy yếu mạng lưới lực lượng thân Iran cũng như răn đe trực tiếp Tehran. Tháng 2/2024, một vụ nổ bí ẩn đã xảy ra trên tuyến đường ống dẫn khí đốt quan trọng ở miền Tây Iran, gây gián đoạn cung cấp năng lượng cho nhiều thành phố – truyền thông khu vực cho rằng đây là hành động phá hoại do Israel tiến hành. Chưa dừng lại ở đó, đầu tháng 4/2024, không quân Israel mở cuộc không kích táo bạo vào Lãnh sự quán Iran tại Damascus (Syria) – một cơ sở được Iran sử dụng để hỗ trợ hậu cần cho lực lượng thân chính phủ Syria. Vụ tập kích đã san phẳng tòa nhà lãnh sự và làm 16 người thiệt mạng, bao gồm 2 tướng lĩnh IRGC của Iran.
Mùa hè và đầu thu 2024, cuộc chiến trong bóng tối giữa Israel và Iran leo thang với những vụ ám sát chính trị chấn động. Ngày 31/7/2024, Ismail Haniyeh – thủ lĩnh hàng đầu của Hamas – bị tiêu diệt trong một vụ không kích tại ngoại ô Tehran khi đang có chuyến thăm bí mật tới Iran. Đây là đòn cảnh cáo mạnh mẽ gửi tới cả Hamas lẫn Tehran (nước bảo trợ cho Hamas), thể hiện rằng Israel sẵn sàng tấn công ngay trên đất Iran để trừ khử kẻ thù. Chưa đầy hai tháng sau, ngày 27/9/2024, đến lượt Hassan Nasrallah – lãnh đạo tối cao của Hezbollah – thiệt mạng trong một vụ không kích chính xác do Israel tiến hành ở Beirut, Lebanon. Hezbollah là đồng minh quan trọng nhất của Iran trong thế giới Ả Rập, và việc Nasrallah bị loại bỏ là tổn thất lớn cho Tehran trong cuộc đấu ảnh hưởng. Song song đó, Israel cũng tiếp tục truy quét tàn dư Hamas: ngày 16/10/2024, Yahya Sinwar – thủ lĩnh Hamas tại Gaza – bị lực lượng đặc nhiệm Israel ám sát. Rõ ràng, năm 2024 chứng kiến một chiến dịch “cắt tỉa” có hệ thống của Israel nhằm vào các thủ lĩnh chủ chốt của các nhóm vũ trang do Iran hậu thuẫn. Chiến dịch này làm cho các nhóm thân Iran như Hamas, Hezbollah rơi vào tình trạng rối loạn vì mất lãnh đạo, đồng thời gián tiếp giáng đòn uy tín vào Tehran.
Đáng chú ý, cuối tháng 10/2024, Israel lần đầu tiên công khai tiến hành không kích các mục tiêu nằm sâu trong lãnh thổ Iran. Ngày 26/10, nhiều cơ sở phòng không và địa điểm liên quan đến chương trình tên lửa của Iran đã bị tập kích từ trên không. Đây là bước leo thang nghiêm trọng vì trước đó các hoạt động trên đất Iran thường được Israel tiến hành bí mật hoặc không thừa nhận. Việc Tel Aviv giờ công khai tấn công Iran cho thấy họ đã sẵn sàng chấp nhận rủi ro đối đầu trực tiếp, có lẽ do nhận định rằng sức mạnh răn đe của Iran đã suy giảm sau hàng loạt tổn thất.
Chuỗi chiến dịch từ 2024 đến đầu 2025 của Israel đã khiến Tehran bị “chảy máu dần” cả về quân sự lẫn uy tín. Nhiều nhân vật chóp bu trong mạng lưới ảnh hưởng của Iran bị loại bỏ liên tiếp, tạo ra khoảng trống lãnh đạo và tâm lý hoang mang. Điều này làm dấy lên đồn đoán rằng Israel sẵn sàng nhắm tới cả những mục tiêu cao nhất của chế độ Iran. Thực tế, các nguồn tin tình báo Mỹ tiết lộ rằng Israel từng vạch kế hoạch ám sát Đại giáo chủ Ali Khamenei, lãnh tụ tối cao của Iran. Tất cả những diễn biến này đã “dọn đường” cho một cuộc đối đầu quân sự trực diện chưa từng có giữa Israel và Iran.
Sáng sớm Thứ Sáu ngày 13/6/2025, Israel phát động chiến dịch không kích phủ đầu quy mô lớn nhắm thẳng vào trung tâm đầu não của Iran. Ước tính khoảng 200 máy bay chiến đấu cùng nhiều máy bay không người lái – bao gồm cả những UAV cỡ nhỏ Israel bí mật thâm nhập vào Iran từ trước – đồng loạt tấn công các mục tiêu trọng yếu trên khắp lãnh thổ Iran. Đợt tập kích bất ngờ này đã ngay lập tức quét sạch phần lớn ban chỉ huy cao cấp của quân đội Iran và phá hủy nghiêm trọng các cơ sở hạt nhân chủ chốt của Tehran. Trong số các mục tiêu bị tấn công có những nhân vật cốt cán của chương trình hạt nhân – nhiều tướng lĩnh IRGC và nhà khoa học hạt nhân hàng đầu của Iran đã bị loại bỏ chỉ trong đêm đầu tiên. Đồng thời, lực lượng phòng không Iran – bao gồm cả hệ thống radar và tên lửa đất đối không – cũng chịu tổn thất nặng nề, tạo điều kiện cho không quân Israel giành quyền kiểm soát bầu trời Iran.
Thủ tướng Israel Benjamin Netanyahu trong bài diễn văn gửi tới người dân Iran qua video ngay sau đợt không kích đầu tiên đã nhấn mạnh mục tiêu của Israel là “loại bỏ mối đe dọa hạt nhân và tên lửa đạn đạo” từ chế độ Tehran. Đồng thời, ông không giấu giếm hy vọng rằng chiến dịch này cũng sẽ mở ra cơ hội để “người dân Iran đạt được tự do” khỏi ách thống trị của chính quyền Hồi giáo. Việc Netanyahu kêu gọi người dân Iran “đứng lên” và khẳng định “chế độ (Iran) chưa bao giờ suy yếu như bây giờ” cho thấy Israel cố gắng khoét sâu mâu thuẫn nội bộ Iran, khuyến khích một cuộc nổi dậy lật đổ chính quyền. Israel dường như đã hạn chế tối đa thương vong cho thường dân Iran. Theo các chuyên gia, điều này có dụng ý chiến lược: tránh kích động tâm lý đoàn kết dân tộc ở Iran, đồng thời chứng tỏ Israel nhắm vào chế độ chứ không phải người dân – qua đó hy vọng người dân Iran sẽ không ủng hộ chính quyền nữa. Từ việc lựa chọn mục tiêu cho đến những tuyên bố chính trị, có thể thấy ngay từ đầu chiến dịch, Israel đã hàm ý mục tiêu sâu xa hơn là làm lung lay tận gốc chính quyền Tehran chứ không đơn thuần chỉ phá hủy cơ sở hạ tầng hạt nhân.
Trong những ngày tiếp theo, chiến dịch không kích của Israel mở rộng cả về cường độ lẫn phạm vi mục tiêu. Sau khi đã đánh mạnh vào các cơ sở hạt nhân và quân sự (như căn cứ không quân, cơ sở làm giàu uranium nổi, nhà máy chế tạo tên lửa), Israel chuyển sang tập kích các mục tiêu thuộc hạ tầng kinh tế và chính quyền Iran. Israel oanh tạc các cơ sở năng lượng – bao gồm mỏ khí đốt South Pars (mỏ khí lớn nhất thế giới của Iran) và một kho nhiên liệu lớn gần Tehran, gây ra những đám cháy khổng lồ. Israel đã tấn công tổng cộng hàng trăm mục tiêu trên khắp Iran, từ các nhà máy sản xuất công nghiệp, sân bay, trạm radar, trụ sở cảnh sát cho đến văn phòng điều hành mạng lưới nhà thờ Hồi giáo ở Tehran. Rõ ràng, Israel đang cố gắng làm tê liệt hoàn toàn guồng máy nhà nước Iran, khiến nền kinh tế của Iran thêm tê liệt, từ đó gia tăng áp lực lên chế độ cầm quyền. Giới phân tích phương Tây nhận định việc Israel mở rộng mục tiêu sang lĩnh vực dân sự cho thấy nước này không chỉ muốn phá chương trình hạt nhân mà còn muốn đẩy Iran vào khủng hoảng toàn diện, với tính toán sau cùng là thúc đẩy một sự thay đổi chế độ ở Tehran.
Về phía Iran, sau cú sốc ban đầu, Tehran tuyên bố sẽ “mở cánh cổng địa ngục” để trả đũa Israel. Iran đã phóng hàng loạt tên lửa đạn đạo tầm trung nhằm vào các thành phố lớn của Israel, đồng thời huy động máy bay không người lái vũ trang tấn công các mục tiêu chiến lược. Lần đầu tiên kể từ năm 1973, người dân Israel phải hứng chịu cảnh tên lửa địch rơi vào các trung tâm đô thị. Còi báo động rít vang không ngớt tại Tel Aviv, Jerusalem, Haifa – những thành phố lớn nhất của Israel. Iran còn tuyên bố đã sử dụng chiến thuật và công nghệ mới khiến các hệ thống phòng thủ của Israel bắn nhầm lẫn nhau, giúp một số tên lửa vượt qua được lưới chắn dày đặc của đối phương. Có thể nói, các vụ tấn công trả đũa của Iran đã có tác động tâm lý lớn khi lần đầu tiên từ trước đến nay các thành phố Israel bị tên lửa Iran bắn trúng trực tiếp.
Phương Tây công khai đứng về phía Israel trong cuộc đối đầu này. Tổng thống Mỹ Donald Trump (nhậm chức từ đầu 2025) lập tức tuyên bố Mỹ không dính líu vào cuộc tấn công Iran nhưng Mỹ ủng hộ “quyền tự vệ của Israel trước sự gây hấn của Iran”. Ông Trump ca ngợi chiến dịch không kích của Israel là quyết đoán và bày tỏ hy vọng Iran sẽ phải quay lại bàn đàm phán sau khi “đã phải chiến đấu một trận”. Mỹ cũng nhanh chóng cung cấp bổ sung đạn đánh chặn cho hệ thống phòng thủ tên lửa của Israel, đồng thời điều động thêm tàu chiến đến Địa Trung Hải như một lời răn đe ngầm gửi tới Iran. Ngay cả khi Israel tấn công, Mỹ cũng tuyên bố không dính líu tới việc này. Nhưng Israel không thể đánh bại Iran như mong muốn, gây áp lực cho Mỹ phải vào cuộc.
Vào rạng sáng 22/6/2025, Mỹ đã mở chiến dịch không kích phối hợp cùng Israel, nhằm đánh vào 3 cơ sở hạt nhân của Iran: Fordow, Natanz và Isfahan. Chiến dịch sử dụng 7 máy bay B-2 Spirit thả 14 quả bom “bunker buster” GBU-57 MOP, cùng hơn 30 tên lửa hành trình Tomahawk phóng từ tàu ngầm, nhằm phá hủy hạ tầng hạt nhân kiên cố, đặc biệt là cơ sở Fordow nằm sâu dưới núi. Đây là lần đầu tiên GBU-57 được sử dụng trong thực chiến. Mỹ tuyên bố tất cả các cơ sở hạt nhân của Iran đã chịu “tổn thất nghiêm trọng”.
Chính phủ Iran gọi đây là “vi phạm nghiêm trọng luật pháp quốc tế” và cảnh báo sẽ tự vệ. Họ còn khẳng định cơ sở đã được di tản, và không có rò rỉ phóng xạ. Nhiều quốc gia như Trung Quốc, Nga và EU, đã lên tiếng lo ngại việc leo thang nguy hiểm, kêu gọi đàm phán trở lại. Nhiều nghị sĩ đảng Dân chủ Mỹ, thậm chí một vài nghị sĩ đảng Cộng hoà, phê phán hành động này vi phạm hiến pháp vì không thông qua Quốc hội.
Không còn nghi ngờ gì nữa, với chiến dịch này, Mỹ và Israel kiên quyết xoá bỏ Iran. Không khó để nhận ra mục tiêu sâu xa mà Israel và phương Tây nhắm tới qua chiến dịch tháng 6/2025: đó là thay đổi chế độ ở Iran. Như phân tích của hãng tin Reuters, quy mô và cách lựa chọn mục tiêu tấn công cho thấy Israel dường như không chỉ muốn làm chậm chương trình hạt nhân Iran mà còn nuôi tham vọng “lật đổ chính quyền Tehran”. Thủ tướng Netanyahu và các cộng sự cánh hữu của ông coi cuộc xung đột này là “cơ hội lịch sử” để loại bỏ Cộng hòa Hồi giáo Iran, qua đó xóa bỏ mối đe dọa lớn nhất đối với Israel và trật tự do phương Tây dẫn dắt ở Trung Đông. Tất nhiên, phía Washington chính thức không thừa nhận chiến lược “thay đổi chế độ” – Nhà Trắng của Trump khẳng định họ tôn trọng quyền tự quyết của người Iran và mục tiêu của Mỹ chỉ là buộc Iran từ bỏ vũ khí hạt nhân. Song, nếu chính quyền giáo sĩ Iran sụp đổ trong cuộc chiến này, rõ ràng Mỹ và phương Tây sẽ hưởng lợi lớn. Việc dựng lên một chế độ thân thiện tại Tehran sẽ giúp phương Tây kiểm soát trọn vẹn bàn cờ Trung Đông, loại bỏ một đối thủ chiến lược đã thách thức họ suốt nhiều thập kỷ. Dẫu vậy, một số chuyên gia cảnh báo rằng lịch sử Trung Đông từng cho thấy thay đổi chế độ bằng can thiệp bên ngoài có thể dẫn đến những hệ lụy khôn lường – không có gì đảm bảo Iran hậu chiến sẽ ổn định hay bớt thù địch hơn với Israel. Lời cảnh báo này hoàn toàn có cơ sở, nhất là khi nhìn lại các bài học về Iraq hay Libya trong quá khứ.
Xung đột Israel – Iran trong bối cảnh cạnh tranh toàn cầu
Cuộc đối đầu quân sự Israel – Iran không chỉ đơn thuần là vấn đề Trung Đông, mà còn gắn chặt với cục diện cạnh tranh sức mạnh trên thế giới giữa phương Tây và các cường quốc Á – Âu. Iran từ lâu đã là một đồng minh chiến lược của Nga và Trung Quốc. Cả Moscow và Bắc Kinh đều có quan hệ đối tác toàn diện với Tehran nhằm đối phó ảnh hưởng của Mỹ: Nga và Iran tìm thấy điểm đồng cảm trong hoàn cảnh cùng bị Mỹ cấm vận và cô lập ngoại giao, đặc biệt sau khi chiến tranh Ukraine bùng nổ. Về phần mình, Trung Quốc coi Iran là mắt xích quan trọng trong sáng kiến “Vành đai và Con đường”, đã đầu tư hàng chục tỷ USD vào Iran và phụ thuộc vào nguồn dầu lửa từ nước này. Do đó, khi Israel (với sự hậu thuẫn ngầm của Mỹ) tấn công Iran, điều này cũng đồng nghĩa phương Tây đang đánh vào lợi ích của Nga và Trung Quốc.
Phản ứng của Moscow và Bắc Kinh đối với cuộc khủng hoảng Israel – Iran vì thế rất đáng chú ý. Nga ngay lập tức lên án mạnh mẽ hành động “xâm lược” của Israel, coi đó là mối đe dọa tới an ninh khu vực. Điện Kremlin cảnh báo việc lôi kéo Iran vào chiến tranh sẽ chỉ làm tình hình Trung Đông thêm hỗn loạn. Trung Quốc thì kêu gọi cả hai bên kiềm chế và đề nghị đóng vai trò trung gian hòa giải, đồng thời bày tỏ quan ngại sâu sắc về nguy cơ gián đoạn nguồn cung dầu mỏ từ vùng Vịnh do xung đột. Trung Quốc là khách hàng nhập khẩu dầu lớn nhất của Iran cũng như nhiều nước Trung Đông. Dù giọng điệu khác nhau, cả Moscow và Bắc Kinh đều có chung lợi ích trong việc ngăn chặn một chiến thắng hoàn toàn của Israel – phương Tây ở Iran. Vì thế, nhiều khả năng họ chắc chắn sẽ hỗ trợ Iran bằng cách này hay cách khác – có thể bằng cách cung cấp tin tình báo, vũ khí hoặc hỗ trợ ngoại giao tại Liên hợp quốc – nhằm kéo dài khả năng kháng cự của Tehran. Cuộc xung đột Israel – Iran trở thành một mặt trận ủy nhiệm trong cuộc cạnh tranh Đông-Tây rộng lớn hơn, tương tự phần nào cách mà chiến trường Ukraine phản ánh đối đầu giữa NATO và Nga.
Nhìn về tương lai gần, cuộc chiến giữa Israel và Iran có thể dẫn tới vài kịch bản khác nhau tùy thuộc vào tương quan lực lượng và sự can dự của các bên thứ ba.
Kịch bản thứ nhất, hai bên xuống thang, chấp nhận đàm phán do sức ép quốc tế. Trong kịch bản lạc quan nhất, trước sức ép đồng loạt từ cộng đồng quốc tế và khi đã đánh giá đạt “mục tiêu răn đe”, Israel và Iran có thể đồng ý ngừng bắn và quay lại bàn đàm phán. Nếu kịch bản này xảy ra, Iran sau khi “hoàn tất trả đũa” có thể chịu ngồi vào thương lượng về chương trình hạt nhân và các vấn đề an ninh khu vực, đổi lại Israel ngừng tấn công. Sự xuống thang sẽ được thúc đẩy bởi các cường quốc như Nga, Trung Quốc (bảo vệ Iran) và Mỹ, EU (vì lo ngại chiến tranh lan rộng). Khi đó, một giải pháp ngoại giao kiểu “đổi hòa bình lấy hạn chế hạt nhân” có thể hình thành, tương tự logic thỏa thuận JCPOA trước đây nhưng với điều kiện cứng rắn hơn theo yêu cầu của Israel. Dù viễn cảnh này đòi hỏi rất nhiều thiện chí và nhượng bộ, nó không phải bất khả thi khi cả hai bên đều hiểu cái giá khủng khiếp của một cuộc chiến toàn diện. Kịch bản này sẽ vẫn giữ được nhà nước Hồi giáo Iran.
Kịch bản thứ hai là giao tranh mở rộng, kéo dài như cuộc chiến Ukraine. Đây là kịch bản ác mộng khi xung đột vượt khỏi tầm kiểm soát, lôi kéo thêm nhiều lực lượng khu vực và có sự can dự sâu hơn của các cường quốc. Iran, trước sức ép sinh tồn, có thể kích hoạt toàn bộ mạng lưới đồng minh trong thế giới Hồi giáo để mở thêm mặt trận chống Israel. Hezbollah ở Lebanon với kho tên lửa khổng lồ có thể tham chiến, bắn hàng ngàn quả rocket vào miền bắc Israel, buộc Israel phải đối phó trên nhiều mặt trận. Các dân quân Shiite tại Iraq và Syria có thể tấn công các căn cứ có lính Mỹ đồn trú để trả thù cho Iran, biến Iraq/Syria thành bãi chiến trường giữa Mỹ và lực lượng thân Iran. Lực lượng Houthi tại Yemen – vốn đã tuyên bố phối hợp với Iran để bắn tên lửa vào Israel – sẽ tiếp tục uy hiếp Israel từ hướng Biển Đỏ. Nguy hiểm hơn, xung đột Israel – Iran có thể kích động làn sóng phẫn nộ trong thế giới Hồi giáo rộng lớn, gây sức ép lên các quốc gia như Pakistan. Pakistan tuy không liên minh chặt với Iran (do khác biệt hệ phái Hồi giáo), nhưng là quốc gia Hồi giáo duy nhất sở hữu vũ khí hạt nhân. Dư luận và các nhóm Hồi giáo cực đoan tại Pakistan đang dấy lên làn sóng ủng hộ “thánh chiến chống Israel”. Song song đó, Mỹ nhiều khả năng phải can dự sâu hơn để bảo vệ Israel: từ viện trợ quân sự khẩn cấp cho đến khả năng triển khai lực lượng phản ứng nhanh nếu đồng minh Israel lâm nguy. Nga và Trung Quốc, trong cơ hội làm Mỹ sa lầy, có thể tăng cường tiếp vận hoặc hỗ trợ quân sự cho Iran. Kịch bản này sẽ biến cuộc chiến Israel – Iran thành một cuộc xung đột ủy nhiệm nhiều tầng nấc giống chiến tranh Syria hay Ukraine – kéo dài nhiều tháng nhiều năm, tàn phá nặng nề và tiềm ẩn nguy cơ chạm ngưỡng đối đầu hạt nhân nếu bất kỳ bên nào lâm vào thế tuyệt vọng.
Kịch bản thứ ba là Chính quyền Iran sụp đổ, phương Tây dựng chính phủ mới. Đây là kịch bản mà các nhà hoạch định chính sách “diều hâu” ở Washington và Tel Aviv kỳ vọng, nhưng đi kèm rủi ro cao. Theo đó, chiến dịch quân sự liên tục của Israel cùng với bất ổn trong nước sẽ dẫn tới sự sụp đổ từ bên trong của chế độ Cộng hòa Hồi giáo Iran. Có thể xảy ra một cuộc nổi dậy quần chúng khi người dân Iran, vốn đã bất mãn với kinh tế suy sụp và sự đàn áp của chính quyền, lợi dụng thời cơ chế độ suy yếu để đứng lên lật đổ. Cũng có khả năng một bộ phận giới tinh hoa hoặc quân đội Iran tiến hành đảo chính cung đình, loại bỏ tầng lớp giáo sĩ cầm quyền nhằm cứu đất nước khỏi thảm họa chiến tranh. Dù bằng cách nào, nếu chính quyền Khamenei sụp đổ, phương Tây hẳn sẽ nhanh chóng hậu thuẫn việc thành lập một chính phủ mới thân phương Tây hơn. Đó có thể là một chính quyền chuyển tiếp bao gồm các nhân vật đối lập ôn hòa (thậm chí là Hoàng gia Iran lưu vong) hoặc một tướng lĩnh quân đội có khuynh hướng cải cách. Chính phủ mới này khả năng cao sẽ quay sang hợp tác với Mỹ – châu Âu, từ bỏ tham vọng vũ khí hạt nhân cũng như chấm dứt việc hỗ trợ các nhóm vũ trang chống Israel. Khi đó, bức tranh Trung Đông sẽ thay đổi căn bản: Israel sẽ không còn đối thủ nguy hiểm, liên minh do Mỹ dẫn đầu sẽ gần như độc bá khu vực.
Tuy nhiên, như giới phân tích cảnh báo, kịch bản “thay đổi chế độ” này tiềm ẩn nhiều ẩn số. Lịch sử Iran và khu vực cho thấy việc lật đổ một chính quyền không đồng nghĩa với việc thay thế nó bằng một chính quyền ổn định và thân phương Tây. Không loại trừ khả năng một chế độ mới ở Iran có thể còn hỗn loạn hoặc cực đoan hơn, chẳng hạn một chính phủ quân sự độc tài hoặc Iran rơi vào nội chiến giữa các phe phái. Khi đó, phương Tây có thể lại đứng trước một vấn đề nan giải mới. Do vậy, ngay cả từ góc nhìn lợi ích của phương Tây, kịch bản này cũng chứa đựng nhiều rủi ro khó lường.
Tựu trung, cuộc tấn công quân sự của Israel vào Iran tháng 6/2025 là đỉnh điểm của hàng thập kỷ mâu thuẫn tích tụ giữa Israel – phương Tây với Iran. Dưới vỏ bọc “tấn công phủ đầu để tự vệ” trước mối đe dọa hạt nhân, Israel đã triển khai một chiến dịch với mục tiêu sâu xa là tái định hình trật tự khu vực có lợi cho mình và các đồng minh phương Tây. Cuộc xung đột này vì thế phải được nhìn trong bối cảnh phương Tây đang tìm cách duy trì vị thế bá quyền, đối đầu với các thách thức từ những quốc gia như Iran, Nga, Trung Quốc muốn thay đổi hiện trạng. Từ góc độ phản biện, có thể thấy cách tiếp cận thiên về sức mạnh quân sự và can thiệp để thay đổi chế độ của phương Tây tại Trung Đông – như trường hợp Iran – tiềm ẩn nguy cơ tạo ra những vòng xoáy bất ổn mới. Cho dù kết cục theo kịch bản nào, cuộc khủng hoảng Israel-Iran 2025 cũng sẽ để lại những bài học sâu sắc về giới hạn của sức mạnh quân sự và tầm quan trọng của giải pháp ngoại giao nhằm giải quyết các xung đột kéo dài. Phương Tây chắc chắn sẽ phải cân nhắc lại chiến lược của mình, bởi một chiến thắng quân sự (nếu có) trước Iran có thể dẫn tới những hệ lụy địa chính trị khó lường và đặt ra những thách thức mới cho an ninh toàn cầu.■
Trọng Khang