80 năm Ngoại giao Việt Nam: Những dấu ấn lịch sử

Ngày 28/8/1945, ngay sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, Chính phủ lâm thời do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu đã quyết định thành lập Bộ Ngoại giao – một trong những cơ quan đầu tiên của chính quyền cách mạng. Cũng chính Người là vị Bộ trưởng Ngoại giao đầu tiên, đặt nền móng cho một nền ngoại giao cách mạng mang đậm bản sắc dân tộc, thấm đượm trí tuệ và đạo lý Việt Nam.

Ngoại giao Việt Nam được sinh ra và trưởng thành cùng với sự phát triển của đất nước. Từ mặt trận không tiếng súng đến trụ cột quốc gia, ngoại giao Việt Nam luôn giữ vai trò là một mặt trận đặc biệt – nơi đấu tranh bằng lý lẽ, bằng hòa hoãn và kiên định, song không kém phần quyết liệt vì lợi ích tối thượng của dân tộc.

Trong suốt 80 năm qua những hoạt động của đối ngoại và ngoại giao Việt Nam được tiến hành dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và bám sát, phục vụ những nhiệm vụ chính trị trong từng giai đoạn lịch sử của cách mạng Việt Nam và để lại những dấu ấn rất đáng tự hào cho đến ngày hôm nay.

Phục vụ công cuộc kháng chiến, giành độc lập, thống nhất, xây dựng và bảo vệ đất nước

– Cách mạng Tháng 8 năm 1945  đã mở ra kỷ nguyên mới cho dân tộc Việt Nam, mở đầu cho những mối  quan hệ ngoại giao và quốc tế với các nước trên thế giới với tư cách một quốc gia độc lập có chủ quyền. Nhà  nước Việt Nam non trẻ đối diện với vô vàn khó khăn thách thức, thế và lực còn yếu, thù trong, giặc ngoài.

Với tư cách Bộ trưởng Ngoại giao đầu tiên của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng hòa Chủ tịch Hồ Chí Minh, sử dụng ngọn cờ chính nghĩa giành độc lập dân tộc, Người đã tranh thủ mọi cơ hội, mọi khả năng, kể cả quan hệ cá nhân để đưa ra những sáng kiến ngoại giao sáng suốt, đầy tinh tế, thu phục lòng người và đã tranh thủ được sự ủng hộ của những cường quốc như Mỹ, Liên Xô, Trung Quốc, đồng thời làm thất bại mọi âm mưu khôi phục lại địa vị của thực dân pháp ở Đông Dương và đẩy được 20 vạn quân Tưởng ra khỏi lãnh thổ Việt Nam.

Chủ tịch Hồ Chí Minh và các đại biểu Anh, Mỹ, Trung Quốc tại Lễ ký kết Hiệp định Sơ bộ ngày 6/3/1946. Ảnh: Tư liệu

Trong giai đoạn “ngàn cân treo sợi tóc” những bước đi ngoại giao tài tình do Bác Hồ chỉ đạo và dẫn dắt đã giữ vai trò sống còn đối với chính quyền cách mạng non trẻ. Hiệp định sơ bộ ngày 6/3/1946 và Tạm ước ngày 14/9/1946 chính là phép thử, một bước ngoặt lớn của nền Ngoại giao Dân chủ Cộng hòa. Ta chấp nhận lùi một bước để tiến nhiều bước và bảo đảm được nguyên tắc giữ được độc lập dân tộc, khẳng định tính chính danh, bảo vệ được chính quyền cách mạng non trẻ, kéo dài được thời gian hòa bình quý báu và cần thiết để dồn sức lực, chuẩn bị bước vào cuộc kháng chiến trường kỳ, gian khó.

– Chín năm kháng chiến chống thực dân Pháp, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Bác Hồ, với phương châm “thêm bạn, bớt thù”, các hoạt động ngoại giao được tiến hành phục vụ cho mục tiêu xây dựng quan hệ quốc tế, tranh thủ tối đa sự công nhận, ủng hộ của thế giới, tạo dựng việc xây dựng đồng minh. Vị thế của  đất nước đã có sự thay đổi rõ rệt kể từ khi chúng ta chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao với Trung Quốc, Liên Xô và một số nước khác. Những viện trợ, giúp đỡ to lớn dưới nhiều hình thức đến từ các nước như Liên Xô, Trung Quốc… đã giúp Việt Nam “có cơ hội biểu dương lực lượng” và góp phần đáng kể vào thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.

Hiệp định Geneve1954 là thắng lợi đỉnh cao và là kết tinh của sự phối hợp nhịp nhàng giữa quân sự và ngoại giao, giữa chiến trường và bàn đàm phán. Chúng ta đã đạt được mục tiêu giải phóng dân tộc, giành độc lập cho Tổ Quốc, lá cờ đỏ sao vàng của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa lần đầu tiên được cắm trên bản đồ thế giới.

Hội nghị Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam là cuộc đấu trí quyết liệt giữa một nền ngoại giao non trẻ với một nền ngoại giao lão luyện của siêu cường hàng đầu thế giới. Hình ảnh Cố vấn đặc biệt Lê Đức Thọ và Cố vấn an ninh quốc gia Hoa Kỳ Kissinger bắt tay nhau sau lễ ký tắt Hiệp định Paris về Việt Nam (23/01/1973). Ảnh Tư liệu

– Trong hơn 20 năm kháng chiến chống Mỹ xâm lược, thông qua nhiều hoạt động phong phú và linh hoạt, các lực lượng làm công tác đối ngoại của Việt Nam đã huy động được một mặt trận rộng rãi nhân dân thế giới đồng tình, ủng hộ, viện trợ cho cuộc kháng chiến chính nghĩa của nhân dân ta, cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam được ví như lương tri của nhân loại khi phong trào phản đối chiến tranh Việt Nam lan rộng khắp địa cầu.

Năm năm tiến hành đàm phán tại Hội nghị Paris (1968- 1973) chúng ta đã tự đấu tranh bằng chính khối óc và đôi chân của mình, bằng chính sức mạnh của dân tộc. Ngoại giao Việt Nam  đã thể hiện rõ bản lĩnh kiên định và linh hoạt, bám sát diễn biến trên chiến trường, thực hiện chủ trương của Đảng “vừa đánh vừa đàm” đã buộc Mỹ phải rút quân dần dần khỏi miền Nam.

Tuy là nước nhỏ, tiềm lực không thể so sánh được, nhưng chúng ta đã buộc đối phương phải chấp nhận tính chính nghĩa, những yêu cầu đúng đắn của ta. Những bài học về thuật đàm phán ngoại giao khôn khéo, biết thoái, biết lui, biết dừng, biết tiến, nhân nhượng và kiên quyết đúng thời điểm đã góp phần vào chiến thắng vĩ đại ngày 30/4/1975 của cả dân tộc Việt Nam.

Phá thế bao vây, cấm vận, tạo dựng môi trường hòa bình, ổn định để bảo vệ độc lập dân tộc, xây dựng và phát triển đất nước

Một trong những giai đoạn cam go nhất của đất nước là những năm sau giải phóng miền Nam (1975 – 1995), bên cạnh niềm vui thống nhất, đất nước đối diện với thách thức to lớn của thời kỳ hậu chiến, khủng hoảng kinh tế, bị bao vây, cấm vận lại vừa phải đương đầu với hai cuộc chiến tranh ở biên giới Tây Nam và biên giới Phía Bắc. Khó khăn chồng chất khó khăn…

Lại một lần nữa, Ngoại giao Việt Nam chứng tỏ bản lĩnh của mình. Chúng ta đã sớm điều chỉnh tư duy đối ngoại khi nhận thức rõ những đảo lộn sâu sắc của cục diện thế giới khi Liên Xô và phe xã hội chủ nghĩa tan rã, thế giới đã chuyển từ giai đoạn Chiến tranh Lạnh và các cuộc chạy đua vũ trang sang kỷ nguyên cạnh tranh kinh tế và đi kèm với đó là xu thế phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia lớn và nhỏ trong bối cảnh toàn cầu hóa được thúc đẩy. Công cuộc Đổi mới năm 1986 đã tạo điều kiện cho việc xây dựng và  hình thành một chiến lược an ninh, đối ngoại cởi mở và uyển chuyển theo đúng tinh thần của Nghị quyết số 13 của Bộ Chính trị năm 1988 “Đấu tranh và Hợp tác cùng tồn tại hòa bình”.

Những hoạt động ngoại giao mạnh mẽ và liên tục trên bình diện rộng từ song phương đến các diễn đàn quốc tế được triển khai để tìm kiếm các giải pháp hòa bình cùng với việc xúc tiến mạnh mẽ những cuộc trao đổi, dàn xếp, thương lượng để phá thế bao vây cấm vận, tháo gỡ những ”nút thắt”, rào cản trong quan hệ quốc tế đã thu về quả ngọt. Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với một loạt nước có chế độ chính trị khác nhau, bình thường hóa quan hệ với Mỹ, cải thiện quan hệ với các nước Đông Nam Á, với Trung Quốc, và giải quyết dứt điểm vấn đề Campuchia, tạo dựng được hình ảnh tích cực về Việt Nam.

Ngày 5/8/1995, tại Hà Nội, Bộ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ Warren Christopher và Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm ký Nghị định thư, chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam-Hoa Kỳ. Ảnh: TTXVN

Kể từ sau khi bình thường hóa quan hệ với Mỹ và gia nhập ASEAN năm 1995 không gian chiến lược của Việt Nam được rộng mở hơn khi nào hết. Chúng ta đã thiết lập quan hệ đối tác chiến lược, đối tác toàn diện với hầu hết các nước lớn như Trung Quốc, Nga, Nhật Bản, Mỹ, EU, Úc, Anh, Pháp. Không chỉ chính thức gia nhập hầu hết các Tổ chức đa phương quan trọng như Liên hợp quốc, APEC, ASEM, ASEAN, WTO (2007) mà Việt Nam còn thể hiện vai trò tích cực khi đăng cai Cấp cao Pháp ngữ 1997, đăng cai Cấp cao ASEAN 2008, là Ủy viên không thường trực Hội đồng bảo an Liên hợp quốc (2008-2009), Chủ trì APEC 2006…

Việt Nam đã đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế khi chủ động tham gia hàng loạt hiệp định thương mại tự do (FTA) với ASEAN và Hàn Quốc, Nhật Bản; Kết thúc đàm phán để ký kết Hiệp định Thương mại Tự do Việt Nam – EU (EVFTA), tham gia Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương nay gọi là CPTPP. Đây là những Hiệp định tạo nền tảng cho giai đoạn hội nhập kinh tế sâu rộng của Việt Nam sau này.

Có thể khẳng định rằng đây chính là giai đoạn bản lề, đánh dấu sự chuyển mình mạnh mẽ của đất nước, mở ra thời kỳ hợp tác kinh tế và chính trị sâu rộng trong quan hệ với nhiều đối tác, đặt nền móng cho tư duy đối ngoại đa dạng hóa, đa phương hóa xuyên suốt cho đến ngày hôm nay. Cùng với sự chuyển mình của đất nước, Ngoại giao Việt Nam đã có bước tiến vượt bậc, toàn diện, cả về tư duy, tầm vóc và hiệu quả.

Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm ký Tuyên bố kết nạp Việt Nam trở thành thành viên của ASEAN ngày 28/7/1995. Ảnh TTXVN

Kiến tạo vị thế, Huy động nguồn lực, Hội nhập sâu rộng, Cân bằng ổn định quan hệ

Vượt qua những thách thức chưa từng có của đại dịch Covid-19, cùng  những tác động đa chiều và phức tạp của cuộc cạnh tranh địa chiến lược quyết liệt giữa các cường quốc, của khủng hoảng kinh tế, năng lượng, đối ngoại Việt Nam đã thể hiện sự năng động, tiếp tục vươn lên, giữ vững vai trò là một trong những trụ cột quốc gia, đóng góp tích cực vào việc giữ vững ổn định chính trị, tăng trưởng kinh tế, đưa Việt Nam trở thành một điểm sáng trong bức tranh tối màu của thế giới.

Trước hết đó là vai trò và uy tín của Việt Nam ngày càng được nâng cao khi các hoạt động đối ngoại trên các lĩnh vực chính trị, quốc phòng, an ninh, kinh tế, văn hoá – xã hội đã góp phần tăng cường sự tin cậy chính trị và tạo sự đan xen lợi ích với các đối tác, đặc biệt các cường quốc lớn, tạo cơ sở vững chắc cho đất nước bước vào kỷ nguyên mới.

Cục diện đối ngoại tiếp tục rộng mở hơn khi nào hết khi chúng ta đã nâng tầm và nâng cấp quan hệ chiến lược với hầu hết các đối tác chủ chốt và đưa quan hệ với nhiều đối tác đi vào chiều sâu, hiệu quả.

Cho đến ngày hôm nay, Việt Nam có quan hệ ngoại giao với 194 quốc gia, tạo dựng mạng lưới quan hệ đối tác chiến lược, đối tác toàn diện với 37 nước, là thành viên của hơn 70 tổ chức, diễn đàn quốc tế quan trọng như Liên hợp quốc, ASEAN, APEC, ASEM, WTO. Đảng cộng sản Việt Nam đã có quan hệ với 247 chính đảng ở 111 quốc  gia. Quốc hội Việt Nam có quan hệ với quốc hội, nghị viện của hơn 140 quốc gia. Đây thực sự là những con số biết nói mà mỗi người dân Việt đều cảm thấy tự hào xúc động mỗi khi nhắc đến.

Uy tín và lòng tin của quốc tế  đối với Việt Nam được củng cố và nâng cao theo thời gian khi chúng ta luôn chứng tỏ là một quốc gia có trách nhiệm, sẵn lòng và công tâm, chung thủy, chí cốt với những quốc gia đã từng giúp đỡ Việt Nam khi gian khó. Tuy chưa giàu có gì nhưng đất nước Việt Nam sẵn sàng tham gia, chung tay vào các nỗ lực chung của cộng đồng thế giới như công cuộc gìn giữ hòa bình, phát triển, chống biến đổi khí hậu, phòng, chống dịch bệnh..

Lập trường và tiếng nói của Việt Nam được coi trọng bởi phương thức ứng xử và cách thức giải quyết hợp tình, hợp lý trên tinh thần bình đẳng, hòa hiếu và nhân văn, tôn trọng luật pháp quốc tế, tích cực thúc đẩy chủ nghĩa đa phương, hòa bình và hợp tác, phát triển. Tất cả đã góp phần làm tăng sự tin cậy chính trị giữa Việt Nam với các nước, tạo thuận lợi cho sự phát triển ổn định của Việt Nam.

Thứ hai là, Việt Nam ngày càng khẳng định năng lực, vai trò và trách nhiệm trong các cơ chế đa phương như Liên hợp quốc, Tiểu vùng Mê Công, Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á – Thái Bình Dương (APEC), Nhóm các nền kinh tế mới nổi và phát triển hàng đầu thế giới (G20), Nhóm các nền kinh tế mới nổi hàng đầu thế giới (BRICS), Hội đồng liên Nghị viện Hiệp hội các quốc gia Ðông Nam Á (AIPA), Cộng đồng Pháp ngữ…

Trong quan hệ với ASEAN, Việt Nam đã thực sự trở thành trung tâm của Hiệp hội, giữ vai trò dẫn dắt, đưa ra nhiều sáng kiến, nỗ lực đóng góp để xây dựng một ASEAN đoàn kết, vững mạnh, đề cao vai trò trung tâm của ASEAN trong cấu trúc an ninh khu vực, hướng tới mục tiêu Cộng đồng ASEAN 2025. Lần đầu tiên chúng ta tổ chức thành công Diễn đàn tương lai ASEAN, thiết lập cơ chế trao đổi, thúc đẩy vai trò của Việt Nam trong định hình tương lai của ASEAN sau năm 2025, tầm nhìn đến 2045.

Việt Nam tham gia vào các hoạt động đa phương với một tâm thế lớn, đàng hoàng và đĩnh đạc, tích cực và thực chất, được  cộng đồng quốc tế nể trọng và tin tưởng.Nhiều kiến nghị và sáng kiến của Việt Nam tại các tổ chức mà Việt Nam đã đảm nhiệm các trọng trách tại Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc (2020- 2021), Hội đồng Nhân quyền – Liên hợp quốc; Ủy ban Liên Chính phủ Công ước năm 2023 về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể của UNESCO… đều được đánh giá cao và tạo sự đồng thuận.

Việt Nam được coi là một thành viên có trách nhiệm, đóng góp tích cực và thiết thực trong việc giải quyết những vấn đề an ninh, ổn định ở khu vực và quốc tế cũng như các vấn đề quốc tế và toàn cầu: chống biến đổi khí hậu, gìn giữ hòa bình, an ninh mạng. Việt Nam đã thể hiện cam kết, trách nhiệm cao cùng chung tay với quốc tế giải quyết một trong những thách thức toàn cầu lớn nhất hiện nay: vấn đề biến đổi khí hậu và môi trường.

Thứ ba là, Ngoại giao kinh tế đã đóng góp thiết thực vào việc huy động  nguồn lực từ bên ngoài cho tăng trưởng và hội nhập sâu rộng và tạo dựng mạng lưới liên kết kinh tế với gần như tất cả các nền kinh tế quan trọng.

Bên cạnh việc tập trung duy trì và tháo gỡ những rào cản về thương mại, thuế quan với các thị trường tiềm năng quan trọng như Mỹ, châu Á, chúng ta chủ động mở ra những thị trường mới tại Trung Đông, châu Phi góp phần quan trọng vào  phục hồi và thúc đẩy xuất khẩu.

Từ một nền kinh tế kế hoạch tập trung, bị bao vây, cấm vận, đến nay Việt Nam là một quốc gia có nền kinh tế hội nhập sâu rộng; đã ký 17 hiệp định thương mại tự do (FTA) có tiêu chuẩn cao, có quan hệ kinh tế – thương mại với 230 nước và vùng lãnh thổ; tổng kim ngạch xuất nhập khẩu đạt khoảng 600 tỉ USD, gấp khoảng 120 lần so với những năm đầu của thời kỳ đổi mới; thu hút được hơn 500 tỉ đô la Mỹ vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Việt Nam tiếp tục là một trong những nước tiếp nhận FDI lớn trên thế giới, đặc biệt đầu tư chất lượng cao trong lĩnh vực công nghệ mới, đến từ các  tập đoàn công nghệ hàng đầu thế giới.

”Ngoại giao công nghệ cao” đã góp phần tích cực vào việc tạo đột phá trong việc chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, phát triển công nghiệp bán dẫn, thiết kế chíp, đổi mới sáng tạo về AI cũng như tạo dựng các dự án về Đổi mới sáng tạo, Trung Tâm tài chính và  Trung Tâm công nghệ 4.0 tại Việt Nam

Thứ tư là, Việt Nam giữ được cân bằng, ổn định trong quan hệ với các nước

Một trong những kết quả nổi bật có ý nghĩa chiến lược của đối ngoại và ngoại giao Việt Nam chính là chúng ta đã giữ được sự cân bằng,ổn định trong quan hệ quốc tế, đặc biệt với các cường quốc, các nước lớn, các đối tác và bạn bè truyền thống.

Điều này mang ý nghĩa to lớn bởi lẽ khi  cục diện đối ngoại tiếp tục được củng cố, giữ vững thì sẽ tạo đà thuận lợi cho công cuộc phát triển và bảo vệ Tổ Quốc, tạo dựng chỗ đứng vững chắc cho đất nước, đặc biệt trong bối cảnh một trật tự chính trị- kinh tế quốc tế mới đang định hình với những diễn biến hết sức phức tạp, khó lường, cạnh tranh gay gắt chưa từng có.

Việc thực hiện và triển khai một cách rõ ràng, bài bản chính sách ngoại giao đa dạng, đa phương hóa, độc lập, tự chủ, phù hợp với Hiến chương Liên hiệp quốc và luật pháp quốc tế dựa trên nguyên tắc cao nhất và xuyên suốt là bảo đảm lợi ích quốc gia – dân tộc chính là gốc rễ, cơ sở cho Việt Nam xử lý đúng đắn mối quan hệ với các đối tác trước những diễn biến phức tạp của tình hình quốc tế, không để đất nước bị lâm vào “những tình huống khó xử, phải chọn bên”.

Các lực lượng làm công tác đối ngoại đã góp phần tích cực vào nhiệm bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc từ sớm, từ xa, giữ nước từ khi nước còn chưa nguy. Đường biên giới trên bộ và trên biển được giữ vững, hòa bình, ổn định và hợp tác, đạt được tiến triển trong đàm phán với các nước, thúc đẩy xây dựng Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Ðông hiệu lực, thực chất và phù hợp với luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982. Việt Nam nêu cao chủ trương và thúc đẩy giải quyết các vấn đề còn tồn tại bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế.

Cách ửng xử của Việt Nam là cách ứng xử có lý, có tình, “cân bằng động”, thấm đẫm tinh thần hòa hiếu của cha ông, khéo léo và tinh tế của một quốc gia vừa và nhỏ trong quan hệ với các nước lớn và ở bên cạnh nước lớn. Chúng ta vừa kiên trì nguyên tắc bảo vệ  lợi ích quốc gia – dân tộc, vừa giữ vững ổn định, phát triển đất nước và bảo vệ chủ quyền lãnh thổ và độc lập dân tộc.

Việt Nam đã đảm nhiệm các trọng trách tại Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc (2020- 2021). Ảnh: TTXVN

Bên cạnh các hoạt động đối ngoại chính trị thì công tác chăm lo cho gần 6 triệu đồng bào người Việt Nam ở nước ngoài cũng như công tác bảo hộ công dân, bảo vệ quyền lợi hợp pháp chính đáng của bà con được thúc đẩy mạnh mẽ. Hàng chục tỷ đổng và hàng nghìn dự án đã được huy động.Công tác thông tin đối ngoại, ngoại giao văn hóa  đã góp phần tích cực và bền bỉ trong việc tạo dựng hình ảnh tốt đẹp về Việt Nam,phục vụ đắc lực cho việc triển khai các hoạt động đối ngoại.

80 năm đã trôi qua, chúng ta có quyền tự hào về một nền ngoại giao đã không ngừng lớn mạnh, bản lĩnh, kiên định trong bảo vệ lợi ích quốc gia và linh hoạt trong thích ứng toàn cầu.Những bài học phong phú và sâu sắc cũng như những thành tựu thu được của Ngoại giao Việt Nam là độc lập tự chủ, vì lợi ích quốc gia dân tộc, là đường lối đúng đắn và sự lãnh đạo sáng suốt và chỉ đạo của Đảng và Nhà nước, là sự kết hợp chặt chẽ giữa đối ngoại Đảng, Nhà nước và Nhân dân, tạo nên một mặt trận đối ngoại toàn diện. Đó cũng là quá trình cống hiến, đóng góp và  hy sinh của rất nhiều thế hệ những cá nhân và tập thể  đã tham gia vào công tác đối ngoại của đất nước.

Cội nguồn của Ngoại giao Việt Nam chính là độc lập, hòa hiếu, mềm dẻo, đề cao chính nghĩa, đạo lý và nhân nghĩa trong quan hệ quốc tế, là kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, là hòa bình và chống chiến tranh xâm lược, là hữu nghị và hợp tác với các nước láng giềng và xây dựng quan hệ hữu hảo với tất cả các nước. Đó cũng chính là  sự kết hợp giữa bản sắc dân tộc, trí tuệ thời đại và nghệ thuật ứng xử chiến lược được dẫn dắt bởi tư tưởng và phong cách ngoại giao Hồ Chí Minh.

Việc vận dụng nhuần nhuyễn và linh hoạt tư tưởng và phong cách ngoại giao Hồ Chí Minh theo tinh thần “Dĩ bất biến, ứng vạn biến”, thêm bạn bớt thù, với tư duy độc lập, tự chủ và sáng tạo, biết mình, biết người, biết thời thế đã giúp đối ngoại Việt Nam chủ động và sáng tạo, nhạy bén và linh hoạt trong việc kiên định nguyên tắc bảo vệ  lợi ích tối thượng của quốc gia và xử lý đúng đắn những mối quan hệ quốc tế trong suốt những năm tháng qua.

Theo tinh thần đó, Việt Nam không chọn bên, mà chọn lẽ phải – chọn hòa bình, hợp tác, và khéo léo giải quyết khác biệt, mâu thuẫn bằng các biện pháp hòa bình, phục vụ cho lợi ích dân tộc, tạo thế đứng ổn định và có lợi nhất cho đất nước trong mọi tình huống và biến động quốc tế.

Việt Nam đang chuẩn bị bước vào kỷ nguyên vươn mình với một tâm thế và vị thế mới mà ở đó cuộc cạnh tranh chiến lược giữa các cường quốc báo hiệu sẽ ngày càng gay gắt, bên cạnh những cơ hội to lớn do kỹ thuật số, trí tuệ nhân tạo, kinh tế xanh, chuyển đổi xanh đem lại thì những thách thức đặt ra cũng không hề nhỏ.

Kỷ niệm 80 năm thành lập không chỉ là dịp để nhìn lại những dấu mốc vẻ vang, mà còn là thời điểm để xác lập một tầm nhìn mới, xây dựng một nền ngoại giao hiện đại,chuyên nghiệp, toàn diện, trong đó lấy người dân, doanh nghiệp và lợi ích quốc gia làm trung tâm, giữ vững vai trò “kiến tạo phát triển, dẫn dắt hội nhập và giữ vững độc lập, tự chủ”.

Đây cũng chính là hành trình tiếp nối lý tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, là việc tiếp tục vận dụng tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh một cách sáng tạo dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự tham gia của cả dân tộc trong bối cảnh các hoạt động đối ngoại giao rất đa dạng và phong phú, đa tầng và gắn kết với nhau cũng chính là sự đảm bảo cho thành công của đối ngoại Việt Nam trong tương lai.■

PHAN THÚY THANH

BÌNH LUẬN

BÀI VIẾT LIÊN QUAN