
Góp phần làm sáng tỏ vấn đề tranh chấp ở Biển Đông liên quan đến hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, nhiều trung tâm nghiên cứu lớn trên thế giới đã công bố những tấm bản đồ quan trọng về địa lý – hành chính của khu vực này. Nổi bật trong số đó là An Nam đại quốc hoạ đồ do Giám mục Jean-Louis Taberd Harold phác hoạ, được xuất bản năm 1838. Bản đồ không những cung cấp một cái nhìn toàn cảnh về sự mở rộng của lãnh thổ Việt Nam vào thế kỷ XIX, mà còn đưa ra một bằng chứng thuyết phục cho sự tuyên bố về chủ quyền của Việt Nam tại hai quần đảo nói trên từ rất sớm. Thư ký Hiệp hội Bản đồ Washington Harold E. Meinheit đã có bài nghiên cứu, phân tích tấm bản đồ của Taberd trên cơ sở quan sát sự giao thoa trong phương pháp vẽ bản đồ Việt Nam và Tây phương. Là một cựu nhân viên ngoại giao Hoa Kỳ đã dành phần lớn sự nghiệp ở châu Á, bao gồm cả Việt Nam, những phân tích của ông hết sức sâu sắc và lý thú, không chỉ giúp ta nhận thức được cách vẽ bản đồ của các quốc gia, vùng văn hoá, mà còn hiểu thêm về lãnh thổ nước ta. Tạp chí Phương Đông xin gửi tới độc giả toàn văn bài viết “Bản đồ của giám mục: Kết tinh phương pháp vẽ bản đồ của Việt Nam và phương Tây phương” (nguyên tác “The Bishop’s Map – Việt Nam and Western Cartography Converge”) do dịch giả Ngô Bắc chuyển ngữ.
***
Một bản đồ Việt Nam thế kỷ XIX hiếm hoi, ít được ghi nhận tại phương Tây, đang nhận được sự chú ý ở Việt Nam. Bản đồ này xuất bản vào năm 1838, là một trong những bản đồ được trưng dẫn để hỗ trợ sự tuyên nhận chủ quyền của Việt Nam đối với chủ quyền quần đảo Hoàng Sa. Tuy nhiên, tầm quan trọng của nó vượt xa bất kỳ giá trị bằng chứng nào trong cuộc đấu tranh hiện tại của Việt Nam với Trung Quốc trên quần đảo Hoàng Sa. Rộng hơn, bản đồ là sự hợp nhất nổi bật của việc vẽ bản đồ hành chính truyền thống của Việt Nam và việc lập bản đồ của phương Tây. Nó cũng cung cấp một “bản chụp nhanh” về Đông Dương trong những thập kỷ đầu tiên của thế kỷ XIX, khi nhà Nguyễn củng cố sự cai trị trên một Việt Nam mới thống nhất và trước khi chủ nghĩa thực dân Pháp nắm giữ sự kiểm soát vào giai đoạn sau này.
BẢN ĐỒ
Tiêu đề của bản đồ, Annam Đại Quốc Họa Đồ (“Map of the Empire of Annam”)(1), được in dưới ba dạng khác nhau: Các ký tự chữ Hán tao nhã mà văn giới Việt Nam sử dụng; bằng tiếng La-tinh và chữ Quốc ngữ – hệ thống chữ viết La Mã hóa được phát triển bởi các nhà truyền giáo phương Tây và được sử dụng tại Việt Nam ngày nay. Nó mô tả một cái nhìn mở rộng về đế quốc của Triều đại nhà Nguyễn, bao trùm toàn bộ Việt Nam, nửa phía Đông của Campuchia, các tiểu Vương quốc của Lào và một khu vực rộng lớn ở phía Tây sông Mê Kông, giờ đây là vùng Đông – Bắc Thái Lan. Được Nhà xuất bản Oriental Lith. Press ấn hành tại Calcutta, bản đồ có kích thước 84cmx45 cm, và có số lượng chi tiết lớn bất thường, bao gồm nhiều địa danh, được in bằng chữ Quốc ngữ Việt Nam xác thực. Như thế, nó có lẽ là bản đồ châu Âu đầu tiên ấn hành các dữ liệu địa lý chính xác, hợp lý về Việt Nam và các lân bang của nó. [Hình 1]
Người đứng sau bản đồ là Giám mục Jean-Louis Taberd (1794-1840). Sinh ra ở Saint-Étienne Pháp, Taberd được thụ phong năm 1817 và ba năm sau đến Nam Kỳ (Cochinchina) với tư cách một nhà truyền giáo của Hội Các Phái bộ Truyền giáo Hải ngoại của Paris (MEP)(2). Ông đến vào thời điểm khó khăn, ngay sau khi Gia Long, vị Hoàng đế đầu tiên của triều Nguyễn (trị vì 1802 – 1820) băng hà và người kế vị của ông, Vua Minh Mạng (trị vì 1820 – 1841), đã bắt đầu triều đại lâu dài của mình. Công giáo đã hoạt động tốt dưới thời Gia Long, phần lớn là nhờ vai trò quan trọng của Đai diện Tông Tòa người Pháp Pigneaux de Béhaine (1741 – 1799) trong việc hỗ trợ cuộc đấu tranh quân sự của Gia Long để thống nhất Việt Nam. Tuy nhiên, Minh Mạng ít khoan dung hơn nhiều, và vào giữa thập niên 1820, Taberd đã báo cáo về sự quấy rối những người Công giáo và các giáo sĩ địa phương. Bất kể môi trường ngày càng thù địch, Taberd đã phục vụ tại một số khu vực khác nhau của Nam Kỳ trước khi vua Minh Mạng ra lệnh cho ông ra Huế vào năm 1827 để làm việc như một dịch giả trong một nỗ lực rõ ràng nhằm cản trở hoạt động truyền giáo. Trong cùng năm đó, các nỗ lực truyền giáo sớm hơn của Taberd đã được ghi nhận khi ông được phong làm Giám mục của địa phận Isauropolis (miền nam Thổ Nhĩ Kỳ, ND) và Đại Diện Tông Tòa của Nam Kỳ (được tận hiến vào năm 1830).
Taberd đã có thể thoát khỏi triều đình Minh Mạng vào năm 1828 thông qua sự can thiệp của Lê Văn Duyệt, Phó Vương (kinh lược sứ) bán độc lập của Vùng Hạ Nam Kỳ (Lower Cochinchina), người cai quản từ thành Gia Định/Sài Gòn. Taberd đã trải qua nhiều năm tiếp theo dưới ô dù bảo hộ của Lê Văn Duyệt. Nhưng ngay sau khi Lê Văn Duyệt từ trần vào năm 1832, khu vực nổ ra cuộc nổi dậy chống lại Minh Mạng, và vị hoàng đế nghi ngờ người Công giáo địa phương ủng hộ cuộc nổi dậy. Năm 1833 biến thành một năm tồi tệ cho tất cả người Công giáo – không chỉ cho những người ở khu vực Gia Định/Sài Gòn khi vua Minh Mạng ban hành toàn quốc dụ chống Công giáo. Do đó, giám mục thấy nên thận trọng mà rời khỏi đất nước. Sau một thời gian ngắn ở lại Siam và Penang, Taberd định cư tại Calcutta, nơi ông được phong làm Đại Diện Tông Tòa tạm thời của Bengal năm 1838. Trong khi ở Calcutta, Taberd đã soạn thảo hai bộ từ điển chính. Ông đã biên tập và hoàn thành quyển từ điển tiếng Việt-Latinh vốn được khởi thảo bởi Giám Mục Pigneau de Béhaine và soạn thảo quyển từ điển tiếng La-tinh – tiếng Việt của chính ông, xuất bản tại Calcutta vào năm 1838. Chính trong quyển từ điển kể sau mà bản đồ của ông, Annam Đại Quốc Họa Đồ, được kèm theo như một phụ đính ở cuối quyển sách. Gần như cùng lúc, hai bài báo xuất hiện trên tờ The Journal of Asiatic Society of Bengal, trong đó Taberd thảo luận về địa lý của Nam Kỳ và bản đồ của ông. Giám Mục Taberd qua đời tại Calcutta năm 1840, không lâu sau ngày sinh nhật thứ 46 của ông.
QUẦN ĐẢO HOÀNG SA — PARACEL
Pracel hay Paracels, là một mê cung của những hòn đảo nhỏ, đá và bờ cát, dường như kéo dài đến bắc vĩ độ thứ 11 [sic.], kinh độ 107 tính từ Paris… Mặc dù vòng cung đảo loại này không có gì ngoài đá và độ sâu báo hiệu nhiều bất tiện hơn lợi thế, vua Gia Long nghĩ rằng mình đã mở rộng các lãnh địa nhờ sự bổ sung đáng tiếc này. Năm 1816, ông đã trang trọng cắm lá cờ của mình và chính thức chiếm hữu những tảng đá này, điều không có mấy khả năng rằng bất kì kẻ nào sẽ tranh chấp với ông.
Thực tế, Gia Long không đích thân đến nơi mà chỉ gửi một đoàn viễn thám tới Hoàng Sa vào năm 1816. Rất có thể Taberd có được thông tin của mình về Hoàng Sa từ hồi ký của Jean-Baptiste Chaigneau (1769 – 1832), một cựu sĩ quan hải quân Pháp từng là một quan chức tại triều đình Gia Long.
VIỆT NAM MỞ RỘNG
Mặc dù hình dung của Taberd về Hoàng Sa đã phục hồi sự quan tâm đến bản đồ của ông ở Việt Nam ngày nay, các đặc điểm khác của bản đồ nhận được ít sự quan tâm hơn có lẽ lại có nhiều ý nghĩa hơn. Trước tiên, bản đồ cung cấp một hình ảnh về mối quan hệ của Việt Nam thời Nhà Nguyễn với các nước láng giềng đầu thế kỷ XIX. Khi nắm quyền, Gia Long đã nhanh chóng khẳng định vị thế trung tâm của Việt Nam tại Đông Nam Á, sử dụng hệ thống triều cống của Trung Hoa như một mô hình. Điều này đẩy Việt Nam và một nước Thái Lan đang bành trướng vào một cuộc xung đột tại các vùng đệm yếu ớt của Campuchia và các công quốc ở Lào. Bản đồ của Taberd cho thấy Việt Nam mở rộng ra xa hơn ranh giới rõ ràng của chính Việt Nam, bao gồm một nửa Campuchia, các vương quốc nhỏ bé ở Lào và lãnh thổ đáng kể phía tây sông Mê Kông ngày nay, ở nơi giờ đây là vùng đông bắc của Thái Lan (cao nguyên Korat Plateau).
Campuchia
Campuchia từ lâu đã đánh mất lãnh thổ ở đồng bằng sông Cửu Long vào tay người Việt Nam, nhưng vào những năm đầu tiên của thế kỷ XIX, sự cạnh tranh khốc liệt giữa Thái Lan và Việt Nam đã bị loại bỏ, với cả hai quốc gia ủng hộ các đối thủ tranh giành ngôi Vua Khmer khác nhau. Đi xa hơn việc thực hiện sự kiểm soát gián tiếp, Việt Nam thực sự tìm cách sáp nhập Campuchia, du nhập hệ thống có cấu trúc chặt chẽ của chính quyền, bổ nhiệm các viên chức và các sĩ quan quân sự Việt Nam, để thay thế hệ thống cai trị ít quy củ hơn ở Campuchia và phần còn lại của Đông Nam Á. Hệ thống hành chính Việt Nam được du nhập trong nhiều giai đoạn, và đạt đến cấu trúc hoàn chỉnh vào năm 1834, sau khi Taberd rời Việt Nam. Tuy thế, Taberd vẫn được thông báo về tình hình phát triển ở Nam Kỳ và Campuchia. Ông viết từ Bengal rằng vào năm 1835 hoặc đầu năm 1836, đế quốc An Nam tuyên bố Campuchia — Nam Vang — được đặt dưới sự bảo hộ của Việt Nam và rằng ông “đã chia cắt đất nước thành các tỉnh trên bản đồ của mình. [Hình 3]
Lào / Thung lũng sông Mê Kông
Các vương quốc Lào được xác định trên bản đồ nằm trong ranh giới rộng lớn hơn của Việt Nam mở rộng, nhưng với Campuchia, vẫn giữ được quy chế của chúng như “các vương quốc” riêng biệt (Regio Laocensis), có lẽ như các nước triều cống (tributary states) [Hình 4]. Các nước Luang Prabang (Mường Long Pha Ban) và vương quốc Vientiane (Vạn Tượng Quốc) được hiển thị rõ ràng trên bản đồ.
Sự có mặt của “các kỹ sư” Việt Nam tại Thung Lũng Sông Mê Kông cũng đã góp phần cho thấy sự hiện diện chính xác hơn của dòng sông to lớn trên bản đồ của giám mục. Bản thân Taberd tự hào chỉ ra sự miêu tả về sông Mê Kông như một tính chất quan trọng giúp phân biệt bản đồ của ông với các bản đồ trước đây về Đông Dương. Bản đồ châu Âu trước đó, ông ghi nhận, đã tái hiện sông Mê Kông ít nhiều như một đường thẳng cho đến khi nó vươn đến Nam Kỳ. Tuy vậy, Taberd đã tìm cách miêu tả một dòng chảy thực tế hơn cho dòng sông to lớn, dựa trên “hai bản đồ tôi có, do các kỹ sư của đất nước vẽ nên. . . Họ biết vùng đất này, họ đến thăm nó mỗi ngày và đã đo đạc tất cả các khúc uốn quanh của dòng sông…” Ngoài ra, một số thị trấn của sông Mê Kông vẫn có thể được xác định, mặc dù cách viết hơi khác nhau. Những thị trấn này bao gồm Mukdahan (Mục đà hản), That Phanom (Tháp ba canon), Bassac (Thành Lào ba thác) và Nakhon Phanom (dưới tên cũ của nó là Lạc Khon hay Lakhon) (3). Bất kể sự diễn giải về sông Mekong của Taberd có phần xác đáng hơn, ta vẫn phải chờ vài thập niên nữa trước khi dòng sông chính xác được khảo sát bởi đoàn thám hiểm sông Mê Kông 1866 – 1868.
Harold E. Meinheit, Thư ký Hiệp hội Bản đồ Washington
Ngô Bắc dịch
CHÚ THÍCH