TABERD NÓI VỀ VIỆC LẬP BẢN ĐỒ CỦA VIỆT NAM
Trong các tác phẩm của mình, Giám Mục Taberd đưa ra một số bình luận thú vị về việc vẽ bản đồ Việt Nam. Bản đồ của Taberd cho thấy, ông đã sử dụng hiệu quả bản đồ truyền thống Việt Nam, và ông thừa nhận sự đóng góp của “các kỹ sư và các họa viên của Hoàng đế.” Tuy nhiên, ông phàn nàn về những hạn chế của họ, cho rằng người Việt Nam chỉ phụ thuộc vào thước dây và la bàn, đồng thời không đo lường vĩ độ và kinh độ của các địa điểm: Khi vẽ bản đồ, họ đã sử dụng những bản đồ được tạo ra bởi người châu Âu, dựa vào đó họ thu nhỏ hoặc phóng lớn theo tỉ lệ; sau đó bổ sung những địa điểm khác nhau bị bỏ qua hoặc không hay biết đối với người Âu châu.
Nhưng những hạn chế của các họa viên bản đồ người Việt không phải là lỗi của họ, Taberd khẳng định. Đúng hơn, chúng xuất phát từ thái độ hẹp hòi của các hoàng đế, Gia Long và Minh Mạng. Taberd so sánh họ một cách tiêu cực với Hoàng đế Khang Hy ở Trung Hoa, kẻ đã bảo trợ các giáo sĩ Dòng Tên lập bản đồ khoa học cho tất cả các tỉnh của Trung Hoa trong phần tư đầu tiên của thế kỷ XVIII. Để minh chứng cho quan điểm của mình, Taberd thuật lại câu chuyện về chuyến thăm của tàu khu trục của Pháp, Le Henri, vào năm 1818 hoặc 1819. Neo đậu gần Huế, các sĩ quan đã được Gia Long đón tiếp nồng hậu. Tuy nhiên, khi họ muốn điều chỉnh đồng hồ bấm giờ (“chronometer”: Dụng cụ để xác định kinh độ trên biển, chú của người dịch) của họ và lên bờ để chuẩn định
một đường chân trời nhân tạo (“artificial horizon”: La bàn hồi chuyển để xác định độ cao của các ngôi sao, chú của người dịch), Gia Long nói với nội các của mình, “Có vẻ như các sĩ quan của tàu khu trục đang lập bản đồ nước ta. Hãy ra lệnh cho họ ngừng những nỗ lực đó lại”. Lưu ý rằng thái độ của Vua Minh Mạng đối với người châu Âu thậm còn ít thân thiện hơn thái độ của Vua Gia Long, Taberd than thở: “… chúng ta còn có thể hy vọng gì nữa về việc trở nên thân thuộc hơn với nội địa của đất nước này chừng nào mọi sự việc vẫn ở vào tình trạng như vậy?”
Bất chấp những khó khăn này, Taberd tin rằng nỗ lực của mình trong việc kết hợp phép lập bản đồ Việt Nam và phương Tây sẽ tạo ra được “tấm bản đồ tốt nhất và chi tiết nhất có một không hai”. Bình luận về các nguồn tài liệu của mình, Taberd đã trưng dẫn một một bản đồ cổ xưa và một bản đồ hiện đại được thiết kế bởi “các kỹ sư của nhà vua” cũng như kiến thức của riêng ông về Nam Kỳ. Đối với bờ biển, ông đã sử dụng các họa đồ của Jean-Marie Dayot, một sĩ quan hải quân Pháp tham gia cùng Giám Mục Pigneau de Béhaine ủng hộ chiến dịch thống nhất Việt Nam của Nhà Nguyễn. Giữa năm 1790 và 1795, Dayot đã tiến hành những khảo sát chính xác nhất về bờ biển Nam Kỳ cho đến nay. Chúng đã trở thành nguồn tài liệu lâu dài cho nhiều nhà lập bản đồ gốc Pháp và Anh khác trong thế kỷ XIX.
PHÉP VẼ BẢN ĐỒ HÀNH CHÍNH
Nhận xét của Taberd về các nhà lập bản đồ Việt Nam bằng thước dây và la bàn, mặc dù có ý chứng tỏ những hạn chế, song thực sự là thừa nhận một trong số những điểm mạnh của họ. Việc chấp nhận các hình thức quan liêu kiểu Trung Hoa của Việt Nam, từ tận thế kỷ XV về trước, đòi hỏi các bản đồ đặt dưới sự quản lý của chính phủ. Thước dây và la bàn là các kỹ thuật quan trọng cho các nhà vẽ bản đồ Việt Nam, đặc biệt là trong những cuộc điều tra địa chính về đất đai ở làng xã và sự xác định các ranh giới các tỉnh. Chính quyền mới năm 1802 kế tục và mở rộng truyền thống lập bản đồ bao gồm lãnh địa mới của nó giờ đây đã trải dài từ biên giới Trung Hoa đến bán đảo Cà Mau ở phía nam xa xôi. Gia Long chia đất nước thành hai mươi ba vùng bảo hộ, trấn, và bốn bộ phận quân sự, doanh. Các cấp chính quyền thấp hơn bao gồm các tỉnh (phủ), các quận (huyện), các quận miền núi (châu), các tổng (tổng) và cộng đồng làng (xã). Năm 1831, Hoàng đế Minh Mạng cải cách cơ cấu hành chính, thay đổi các vùng bảo hộ và các doanh của Vua Gia Long thành các tỉnh (tỉnh) .
Bản đồ Taberd sử dụng các định danh hành chính trước đó của Gia Long, chia đất nước thành các trấn1. [Hình 6] Một số các cấp hành chính thấp hơn được chỉ danh, và các địa hình như cảng, bến cảng và các địa điểm của các trạm chuyển tiếp hay trạm nghỉ bưu điện (trạm) dọc theo tuyến đường chính theo hướng bắc – nam được chỉ định. [Hình 7] Một tính năng khác mà Taberd vay mượn từ bản đồ Việt Nam là gán các tên của một số lượng lớn các con sông và các điểm đổ vào biển của chúng (cửa biển) dọc theo bờ biển dài của Việt Nam2. Các tuyến giao thông hoặc tuyến thương mại cũng được hiển thị cắt ngang từ chính quốc Việt Nam vào Campuchia và Lào. Ví dụ, trạm biên giới chiến lược tại Quỳ Hợp, đã đề cập ở trên, hiển thị trên tuyến đường thương mại lịch sử liên kết thung lũng sông Mê Kông đến Vinh và cảng sầm uất Hội Thông trên Biển Đông. [Hình 5] Những ngọn đèo qua núi quan trọng như Đèo Cù Mông và Đèo Cả liên kết bờ biển và Tây Nguyên cũng được định rõ.
Mối quan tâm của Taberd đối với lịch sử Việt Nam hiện rõ trên bản đồ của ông. Nó xuất hiện trong các tham chiếu về khoảng thời gian dài chia cắt suốt cuộc nội chiến giữa các Chúa Nguyễn của miền nam và các Chúa Trịnh ở phía bắc, cả hai đều tuyên bố là đại diện cho Vua Lê bù nhìn. Bức tường thành (Lũy Thầy) ngăn cách Đàng Trong của Chúa Nguyễn (Cochinchina) và Đàng Ngoài của Chúa Trịnh (Tonkin) được hiển thị một cách nổi bật (Lũi Sầy seu Murus Magnus separans olim utrumque regnum). [Hình 8] Ngoài ra, sự phân chia lịch sử cũng được phản ánh qua việc ghi tên miền Nam của chúa Nguyễn là An Nam Đàng Trong (Inner Annam) và Bắc Kỳ (Tonkin) là Đàng Ngoài (Outer Annam). Nơi khởi phát cuộc nổi loạn giúp nhà Tây Sơn lên nắm quyền cai trị Việt Nam vào cuối thế kỷ XVIII cũng được ghi danh (Tây Sơn thượng) ở phía tây của Bình Định Trấn. Trên mạn vùng cao phía bắc, Cao Bằng Trấn được ghi danh là cố đô (olim Regnum). Tàn dư của quân nổi loạn Triều nhà Mạc nắm giữ Cao Bằng cho đến khi bị đánh bại bởi tập đoàn phong kiến Lê – Trịnh vào giữa thế kỷ XVII.
CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ
Một tính chất quan trọng trên bản đồ phân tách nó khỏi thuật vẽ bản đồ Việt Nam truyền thống. Bản đồ Việt Nam ở thế kỷ XIX thường xác định rõ các quận huyện vùng cao, dân tộc thiểu số (thường được gọi là châu) nhưng thường không xác định được các nhóm thiểu số theo danh xưng. Ngoại lệ chính là Đá Vách (người Hre) ở tỉnh Quảng Ngãi, nơi mà bản đồ Việt Nam thế kỷ thứ XIX cho thấy một bức tường, được xây dựng bởi Tướng Lê Văn Duyệt vào năm 1819 để bảo vệ các làng xã Việt Nam khỏi các cuộc đột kích của dân tộc thiểu số vùng cao3.
Bản đồ Taberd thể hiện một bước tiến hóa trong những nỗ lực của phương Tây nhằm thiết lập bản đồ dân tộc thiểu số ở Việt Nam bằng các tên gọi cá biệt. [Hình 6] Bản đồ phương Tây trước đây, bắt đầu với các bản đồ Alexandre de Rhodes năm 1650 và 1653, đơn giản gán tên người dân vùng cao là Kemoy hoặc Rumoi (từ mọi, là thuật ngữ tiếng Việt để chỉ những kẻ “man rợ” -“savages”).
Vào thế kỷ XIX, thuật ngữ này xuất hiện trên nhiều bản đồ phương Tây, chẳng hạn như bản đồ năm 1828 của John Crawfurd Map of the Kingdoms of Siam and Cochinchina: Bản đồ của Vương quốc Xiêm và Nam Kỳ. Một bản đồ được công bố bởi Linh Mục Charles-Émile Bouillevaux năm 1851 có thể là bản đồ Pháp sớm nhất hiển thị tên tiêu chuẩn của các bộ lạc vùng cao nguyên. Tuy nhiên, bản đồ Taberd là tiền thân của bản đồ Bouillevaux trong đó cho thấy nỗ lực nhằm xác định các nhómdân tộc vùng cao theo tên gọ/, mặc dù các tên gọi này dường như không tương ứng với những thuật ngữ hiện đại chỉ nhóm4.
Vương quốc bí ẩn Stieng: Một nhóm dân tộc thiểu số nổi bật khác thường trên bản đồ Taberd được xác định là một xứ sở hoặc quốc gia riêng biệt, Nước Stiêng. [Hình 9] (Định nghĩa trong từ điển thuật ngữ tiếng Việt Nước là một xứ sở (country), dân tộc (nation) hay quốc gia (state); chú giải trên bản đồ Taberd định nghĩa nước như một vương quốc – “royaume” hay “kingdom”.) Vương quốc Stieng được chấm định trên bản đồ cách biệt với bảy nhóm quần tụ tại vùng biên giới Nam Kỳ. Ngày nay, Stieng là một nhóm dân cao nguyên nhỏ sống dọc biên giới Việt Nam – Campuchia. Họ chưa bao giờ là một vương quốc thống nhất. Tuy nhiên, trong phần tư cuối cùng của thế kỷ thứ XVIII, nhóm này có tầm quan trọng đặc biệt đối với các nhà truyền giáo gốc Pháp, khi Stieng trở thành đối tượng của những nỗ lực sớm nhất để đưa Kitô giáo đến các nhóm bộ lạc của Cao Nguyên Trung Phần và vùng đông bắc Campuchia. Các nhà truyền giáo chuyển tải một cảm giác phấn khích trong các báo cáo của họ, tuyên bố “phát hiện ra một vương quốc mới tên là Stieng” và tiếp tục nói đến lãnh thổ Stieng như là một vương quốc (royaume) trong thư tín của họ.5 Tuy nhiên, một chuyến thăm ngắn đến lãnh thổ Stieng của Linh Mục Julien Faulet vào năm 1775-1776 xem ra đã xua tan mọi ý tưởng phóng đại về một vương quốc Stieng thống nhất. Trong báo cáo của mình, Faulet đã gọi khu vực này là “một xứ sở man rợ” (“barbarous country) chứ không phải là một “vương quốc” (“kingdom”) và tuyên bố rằng Stieng không có vua. Không có nhân sự đầy đủ để theo dõi, nỗ lực truyền giáo đã thất bại và bị chỉ trích một cách gay gắt bởi giới lãnh đạo Hội Truyền Giáo Hải Ngoại (Société des Missions-Étrangères) ở Paris. Mặc dù một linh mục khác đi từ Sài Gòn đến vùng này vào năm 1791, song ông không ở lại, và rõ ràng là không có liên lạc nào nữa giữa Stieng và các nhà truyền giáo Pháp trong hơn nửa thế kỷ.
Tại sao bản đồ Taberd, năm 1838, tiếp tục gán sự nổi bật bất thường cho nhóm dân Stieng và gọi họ là một quốc gia hay vương quốc riêng biệt vẫn còn là một bí ẩn. Cũng thế, thị trấn kiên cố (Thành) của Tinh Xương trong lãnh thổ Stieng không xuất hiện trên bản đồ sau này. Có lẽ Taberd chỉ đơn giản bày tỏ sự tôn trọng bằng cách thừa nhận điều đã từng là một dự án lớn cho Đại Diện Tông Tòa (Apostolic Vicar) Pigneau de Béhaine. Cũng có thể là vào đầu thế kỷ XIX, các nhà truyền giáo đã quan tâm đến việc tái tạo những nỗ lực trước đây của họ với dân Stieng.6 Bất luận lý do cho sự nhấn mạnh quá mức của Taberd vào nhóm này là gì, Stieng thường được xác định trên các bản đồ của Pháp sau này trong thế kỷ XIX, mặc dù không phải là một quốc gia hay thực thể chính trị riêng biệt.
BẢN ĐỒ NHIỀU MỤC ĐÍCH
Bản đồ của Giám mục Taberd, trong khi không mang màu sắc tôn giáo một cách công khai, vẫn ngay lập tức được áp dụng thực tế bởi các nhà truyền giáo ở Đông Dương và những người có sứ mệnh phục vụ ở đó. Nhưng Taberd cũng có một mục đích trí tuệ rộng lớn hơn trong tâm trí — nhằm phục vụ “các lợi ích của khoa học” bằng cách tạo lập bản đồ chính xác nhất chưa từng có về bán đảo Đông Dương.
Việc vươn tới khối đối tượng rộng lớn hơn và sự chú ý của các nhà lập bản đồ Châu Âu, dường như đã bị giới hạn bởi việc xuất bản bản đồ dưới dạng phụ đính kèm vào bìa sau của quyển từ điển Latin-Việt đồ sộ của Taberd, không phải là một nguồn dễ tiếp cận. Tuy nhiên, sự hỗ trợ cho Taberd từ Hiệp hội Á châu Bengal (Asiatic Society of Bengal), đặc biệt là thư ký của hội, James Prinsep, đã giúp khai thông công trình của Taberd đến cộng đồng học thuật rộng lớn hơn. Năm 1848, Tiến sĩ Karl Gutzlaff, một nhà truyền giáo nổi tiếng gốc Đức từng phục vụ ở Đông Nam Á và Trung Hoa, đã trích dẫn nhiều công trình của Taberd trong một tham luận được đọc trước Hiệp hội Địa lý Hoàng gia Luân Đôn (Royal Geographical Society of London). Gutzlaff mô tả bản đồ Taberd là “bản đồ ưu việt và chính xác nhất chúng tôi sở hữu được về toàn bộ Vương quốc An Nam…”.
Bản đồ Taberd tiếp tục phục vụ mục đích chính trị rộng lớn hơn trong diễn tiến của thế kỷ XIX. Đó là một nguồn chính yếu về thông tin địa lý và hành chính xác thực trên bán đảo Đông Dương khi áp lực tìm kiếm các thuộc địa của châu Âu ở Đông Nam Á tăng trưởng và trước khi các quan chức thuộc địa Pháp khởi sự những nỗ lực lập bản đồ rộng lớn của riêng họ sau này trong thế kỷ thứ XIX. Một phần tư thế kỷ sau khi xuất bản, bản đồ Taberd đã có cuộc sống mới. Nó đã được tái bản tại Paris năm 1862, cùng năm mà nước Pháp ký Hiệp ước với triều đình ở Huế, công nhận sự hiện diện của thực dân Pháp tại Sài Gòn và châu thổ sông Cửu Long, và khi người Pháp đang hướng sự chú ý về phía Campuchia. Bản đồ của Taberd được tái bản theo chỉ thị của Bộ trưởng Thủy quân và Thuộc địa (“Ministry of Marine and the Colonies”), Prosper de Chasseloup-Laubat, người ủng hộ mạnh mẽ nhất cuộc mạo hiểm thiết lập thuộc địa ở Đông Dương trong chính phủ Napoleon III. Và giờ đây ở thế kỷ XXI, bản đồ Giám mục Taberd lại một lần nữa đóng vai trò chính trị trong cuộc đụng độ đang diễn ra giữa những sự tuyên nhận chủ quyền xung đột lẫn nhau ở Biển Đông.■ (Hết)
Harold E. Meinheit, Thư ký Hiệp hội Bản đồ Washington
Ngô Bắc dịch
Nguồn: Harold E. Meinheit, The Bishop’s Map — Việt Nam and Western Cartography Converge, The Portolan no. 97, Winter 2016, các trang 28-40.
CHÚ THÍCH
1. Taberd vẫn còn ở Việt Nam khi Minh Mạng bắt đầu các cải cách hành chính của mình. Ông có đề cập đến chúng trong bài “Notes on the Geography of Cochinchina” (trang 744). Tuy nhiên, bản đồ của ông lại sử dụng hệ thống thời vua Gia Long. Trong bài “Notes…” của mình, xuất bản bằng tiếng Anh, Taberd sử dụng các bản dịch phần nào khác nhau cho các đơn vị hành chính Việt Nam. Chẳng hạn, ông dịch trấn là “tỉnh” (“prefecture”) chứ không phải là “vùng đất bảo hộ” (“protectorate”), như bản dịch được Woodside và các tác giả khác sử dụng. (“Prefecture” thường có nghĩa là phủ trong tiếng Việt). Có một số bất thường nhỏ khác giữa các bình luận bằng văn bản của Taberd và bản thân bản đồ. Để cho rõ ràng, tôi giữ nguyên theo các bản dịch được Woodside và các học giả Việt Nam hiện đại sử dụng.
2. Nhà sử học Nguyễn Đình Đầu liệt kê tất cả năm mươi bảy cửa sông và nhiều địa hình khác của bờ biển dài Việt Nam trên bản đồ Taberd. Nguyễn Đình Đầu, cit. Đã dẫn trên, các trang 123 và 127.
3. Harold E. Meinheit, “A Glimpse into Vietnam’s Turbulent 19th Century,” The Portolan, Issue 73, Winter 2008 p. 21. Taberd đã mô tả Đá Vách như là “nhóm khủng khiếp nhất trong các chủng tộc dã man chiếm ngụ toàn thể dãy núi nằm ở rìa vương quốc.” (Taberd, “Notes on the Geography of Cochin China,” trang 741).
4. Nhóm gồm: Mọi đá rách, Mọi đá vách, Mọi đá hàn, Mọi bồ nông, Mọi bồ vun, Mọi Vị, và Mọi bà ria. Như đã ghi nhận, Đá Vách là một nhóm có thể nhận biết. Ngoài ra bồ nông có thể là Phnong hoặc Mnong.
5. Thư của Cha Jean Steiner, Procure, Giáo Phận Macau, đề ngày 21 tháng 8 năm 1774 (bằng tiếng Pháp). Báo cáo cái chết đau buồn của Cha Juguet, 30 tuổi, Steiner viết: “ Ce missionnaire, peu de temps avant sa mort, avait découvert un nouveau royaume, appélé Stieng. . . Pigneau de Béhaine cũng báo cáo về vương quốc mới của Stieng” (“regnum novum vocatum Stieng”) trong một lá thư đề ngày 5 tháng 1 năm 1775. Cả hai lá thư đều có trong sách của Adrien Launay, Histoire de la Mission de Cochinchine, 1658-1823: documents historiques, Paris: Missions étrangères de Paris: Indes savantes, Vol. 3 (1771-1823), 2000, các trang 60-61.
6. Mối quan tâm truyền giáo tiếp diễn trong bộ lạc này được quan sát thông qua việc thiết lập một phái bộ phục vụ người Stieng tại Brelam trong thập niên 1850. Tuy nhiên, phái bộ này đã bị giải tán tại cuộc nổi dậy Pu Kombo năm 1866.