Thế giới đang theo dõi “cuộc chiến thương mại” Mỹ – Trung, khởi sự từ ngày 6 tháng 7 năm 2018. Cuộc chiến đang leo thang từ hai phía, nguy cơ lôi kéo toàn cầu vào cuộc chiến tranh này. Các học giả đã đưa ra nhận xét rằng khi các cuộc dàn xếp không đi đến kết quả thì con đường cuối cùng là biện pháp chiến tranh để giành thắng lợi. Cuộc chiến tranh xâm lược để thôn tính lãnh thổ thì sử dụng biện pháp quân sự, trong đó dùng sức mạnh con người và vũ khí để đạt được mục đích. Còn trong cuộc chiến tranh thương mại này, vũ khí được sử dụng là tổng hợp của các biện pháp trừng phạt kinh tế (bảo hộ mậu dịch, bao vây cấm vận, áp dụng hàng rào thuế quan cao đối với hàng xuất nhập khẩu của đối phương).

Khởi sự của cuộc chiến tranh thương mại này là những quốc gia nhận thức rằng mình đã bị thiệt hại to lớn do đối phương đã gây ra, và thấy rằng phải áp dụng các biện pháp kinh tế để giành lại lợi ích cho quốc gia mình, khi mà sự dàn xếp giữa hai bên bị thất bại. Câu chuyện cụ thể ở đây là Mỹ khởi xướng chiến tranh mậu dịch với đối tượng chủ yếu là Trung Quốc. Các quốc gia khác cũng bị thiệt hại do các biện pháp trừng phạt của Mỹ đối với hàng hóa Trung Quốc, nhưng đang ở cấp độ tranh chấp thương mại với Mỹ, chứ chưa đến cấp độ chiến tranh như đối với Trung Quốc.

Ảnh minh họa (LA Times)

Chiến tranh thương mại nhìn từ lịch sử quan hệ Trung – Mỹ

Quan hệ Mỹ – Trung là mối quan hệ của hai nước lớn. Quan hệ này phụ thuộc vào tình hình chính trị toàn cầu, nên không ổn định, lúc coi nhau là đối tác, lúc coi nhau là kẻ thù khi mục tiêu, quyền lợi của họ trái ngược nhau. Điều này đã diễn ra trong quá khứ.

Sau thế chiến thứ hai, nhà nước Trung Hoa ra đời năm 1949. Kẻ thù của Trung Quốc và Liên Xô khi đó là Mỹ. Mỹ đe dọa độc lập, chủ quyền, an ninh của Trung Quốc. Đặc biệt qua cuộc chiến tranh Triều Tiên 1950, để chống Mỹ, Trung Quốc kết bạn với Liên Xô tạo thành hai bên chống một bên, kéo theo sự đối đầu giữa hai phe: xã hội chủ nghĩa do Liên Xô đứng đầu và tư bản chủ nghĩa do Mỹ đứng đầu. Nhưng mối quan hệ nồng thắm giữa Liên Xô và Trung Quốc chỉ tồn tại cho đến khi mâu thuẫn Xô – Trung đã lên tới đỉnh điểm, coi nhau là thù địch bắt đầu từ cuối thập niên 1950. Trung Quốc sau đó đã tìm đến đối tác mới là Hoa Kỳ, bắt đầu từ năm 1972, trong chuyến thăm của Tổng thống Mỹ Nixon đến Trung Quốc. Hai nước đã giao ước cùng nhau chống Liên Xô. Để có được “bạn” chống kẻ thù chủ yếu, Hoa Kỳ đã có nhiều nhượng bộ với Trung Quốc về chuyển giao kỹ thuật, thương mại, và vấn đề Đài Loan. Quan hệ Hoa Kỳ và Trung Quốc những năm sau đó đã ấm lên, đặc biệt kể từ khi chấm dứt cuộc cách mạng văn hóa Trung Quốc.

Ông Đặng Tiểu Bình trở thành nhà lãnh đạo số một của Trung Quốc, với triết lý “mèo trắng, mèo đen không quan trọng, miễn là bắt được chuột.” Câu nói này với nhiều ẩn ý sâu xa, nhưng thế giới đã nhìn rõ là ông Đặng không quan tâm gì tới ý thức hệ. Người Mỹ hẳn rất mừng rỡ về phát biểu này của ông Đặng. Ông Đặng đặt lợi ích quốc gia Trung Hoa là số một, Mỹ là “bạn”, là đối tác cơ bản quan trọng số một để ông khai thác phát triển đất nước Trung Quốc. Điều này đã củng cố niềm tin của Hoa Kỳ ở ông Đặng. Khi Carter làm Tổng thống nước Mỹ thì mối quan hệ này tiếp tục được củng cố bằng những cam kết chiến lược, một bên hỗ trợ về chính trị, một bên cung cấp về công nghệ, tài chính. Sự tin tưởng phát triển đến mức Hoa Kỳ và Trung Quốc cùng chung sức chống Liên Xô và khuynh đảo thế giới. Việc ông Đặng đem quân tấn công Việt Nam năm 1979 cũng là từ xu thế này vì được Hoa Kỳ ủng hộ về hành động vũ lực đó.

Kinh tế Trung Quốc kể từ đó đã được phục hồi nhanh chóng nhờ có sự hỗ trợ của Mỹ. Và từ đó sự phối hợp giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc đã làm cho Liên Xô suy yếu. Cho đến khi Liên Xô và hệ thống XHCN sụp đổ thì đã lại có sự phân định rõ ràng vai trò của Trung Quốc đối với Mỹ. Clinton làm Tổng thống thay cho ông Bush cha, có đường lối khác hẳn với người tiền nhiệm khi chiến tranh lạnh kết thúc. Chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ là áp đặt giá trị dân chủ, nhân quyền của nước Mỹ đối với thế giới và sử dụng nó để gây áp lực chuyển hóa, thay đổi chế độ chính trị ở những nước XHCN có ảnh hưởng tới vai trò lãnh đạo thế giới của Hoa Kỳ.

Riêng đối với Trung Quốc, chính quyền Clinton và sau này là Bush con vẫn kế thừa các đời tổng thống trước (Nixon, Carter, Reagan) coi Trung Quốc là “đối tác chiến lược”. Một thế hệ chính khách và học giả Mỹ đã thực hiện chủ trương “can dự xây dựng” với Trung Quốc. Trong gần hai thập kỷ, chính phủ Mỹ đã ưu đãi cho Trung Quốc công nghệ kỹ thuật tiên tiến, dễ dãi về mậu dịch thương mại, chia sẻ với Trung Quốc thông tin tình báo, kinh nghiệm phát triển quân sự, đào tạo nguồn nhân lực và tư vấn chuyên môn. Mỹ còn viện trợ cho Trung Quốc nhiều thứ với mong muốn Trung Quốc sẽ trở thành một cường quốc dân chủ theo kiểu phương Tây. Điều này được hiểu là Mỹ sử dụng viện trợ kinh tế để chuyển hóa thể chế chính trị CNXH ở Trung Quốc, với tư tưởng lạc quan rằng khi nền kinh tế mạnh lên thì nền dân chủ tự do ở Trung Quốc cũng hình thành, thay thế nền dân chủ mang màu sắc Trung Quốc.

Có thể nhận xét rằng Trung Quốc đã nhận được nhiều thứ từ chính sách của Mỹ, và Trung Quốc đã mạnh lên, ngày nay đã trở thành nước có nền kinh tế lớn thứ hai thế giới, là chủ nợ của Mỹ và đang vươn lên trở thành cường quốc thế giới và đang cạnh tranh vai trò lãnh đạo thế giới với Hoa Kỳ. Các chính khách và các học giả Mỹ đã nhận rõ vấn đề. Nước Mỹ đã làm cho nền kinh tế Trung Quốc mạnh lên, nhưng thể chế chính trị và nền dân chủ của Trung Quốc không thay đổi. Các học giả phương Tây và Mỹ đã được Trung Quốc dạy cho bài học: cải cách kinh tế không đồng hành với cải cách chính trị, đó chỉ là ảo tưởng. Người Mỹ đã bị người trung Quốc đánh lừa (thua mưu), người Mỹ đã ngộ nhận và không hiểu về người Trung Quốc. Mỹ đã nuôi dưỡng Trung Quốc lớn mạnh để rồi trở thành mối đe dọa lớn nhất đối với nước Mỹ. Đó là sự thất bại cay đắng và là thất bại mang tính chiến lược đối với Mỹ. Cả thế giới đều đã biết.

Ở giai đoạn cuối nhiệm kỳ của Tổng thống Bush, Mỹ đã nhận ra điều này, nhưng chính quyền Bush không làm gì được Trung Quốc vì nước Mỹ đã suy yếu do lao vào cuộc chiến tranh ở Afghanistan và Iraq, đành phải bỏ ngỏ khu vực Châu Á Thái Bình Dương để Trung Quốc có cơ hội thế chân Mỹ ở vùng này.

Xoay trục tái cân bằng với Trung Quốc thất bại

Dưới thời Tổng thống Obama, người Mỹ cũng đã nhìn ra những sai lầm chiến lược nên đã điều chỉnh chính sách đối ngoại “xoay trục” sang Châu Á Thái Bình Dương để tạo thế “cân bằng” với Trung Quốc. Obama có triển khai một số hoạt động tuần tra ở Biển Đông mang tính biểu tượng vô hại, chẳng làm cho Trung Quốc lo lắng. Vấn đề được cho là quan trọng trong chiến lược xoay trục sang Châu Á Thái Bình Dương của chính quyền Obama là thiết lập Hiệp định Thương mại Châu Á Thái Bình Dương (TPP). Chiến lược này mang ý nghĩa tạo ra một liên minh thương mại, một hành lang mậu dịch để đối phó với chính sách “Một vành đai, Một con đường” của Trung Quốc. Nhưng thật đen đủi cho Obama bởi đến khi ông mãn nhiệm, hiệp định này vẫn không được Quốc hội Mỹ thông qua và nhiều chính khách Mỹ phản đối vì cho rằng nước Mỹ vẫn bị thua thiệt và hiệp định này không đủ sức mạnh ngăn chặn sự bành trướng của Trung Quốc.

Có thể nhận xét trong tám năm cầm quyền, chính quyền Obama vẫn không xoay chuyển được tình thế. Chiến lược xoay trục của Obama thể hiện sự ngập ngừng vô hại, các hành động quá ít, quá chậm và không đủ mạnh. Trung Quốc đã nắm được điểm yếu của Mỹ là tránh gây căng thẳng với họ để “tránh rủi ro”, khiến Trung Quốc càng có cơ hội triển khai chiến lược phân hóa, chia rẽ, lôi kéo các nước trong khu vực Châu Á Thái Bình Dương vào vòng ảnh hưởng của Trung Quốc. Đây lại là sự thất bại cay đắng đối với Hoa Kỳ.

Chính sách cứng rắn với Trung Quốc của Trump

Khi mà thể chế quyền lực của Hoa Kỳ đang suy yếu thì Donald Trump, một nhà tài phiệt, tận dụng thời cơ lấy lòng được những người dân túy ở Mỹ và lợi dụng được ngọn cờ dân tộc để trở thành Tổng thống của nước Mỹ, mà không dựa vào sự ủng hộ của đảng phái nào. Tại buổi lễ nhậm chức Tổng thống, ông Donald Trump đã tuyên bố nước Mỹ trên hết, nước Mỹ phải hùng mạnh, phải đứng đầu thế giới. Tuyên bố của Trump không đơn thuần là làm giàu cho nước Mỹ mà còn ẩn chứa một sự đe dọa đối với thế giới. Tuyên bố của ông Trump cho thấy ông ta hiểu rõ nước Mỹ đang suy yếu và bị xem thường, bị “ăn hiếp” (thua thiệt).

Đến nay sau hơn một năm nắm quyền Tổng thống, những gì ông ta làm là chuẩn bị cho một cuộc “chiến tranh lạnh” mới “vì một nước Mỹ hùng mạnh”. Việc tuyên bố rút Mỹ khỏi các hiệp định quốc tế (biến đổi khí hậu, TPP, thỏa thuận hạt nhân Iran…), tuyên chiến với Nga, tuyên bố trừng phạt kinh tế Trung Quốc. Vào đầu năm 2018 chiến lược an ninh của Mỹ xác định Nga và Trung Quốc là nguy cơ lớn nhất của Hoa Kỳ, tuyên bố EU là kẻ thù của Mỹ về kinh tế. Đó là lời tuyên chiến của Donald Trump với thế giới. Như vậy chiến tranh thương mại do Hoa Kỳ phát động đối với Trung Quốc là một phần của chiến lược an ninh quốc phòng của Mỹ, khi chiến lược này coi Trung Quốc là mối đe dọa số một, khu vực Châu Á Thái Bình Dương, là địa bàn chiến lược để Mỹ đối phó với Trung Quốc.

Chiến tranh thương mại Mỹ – Trung được coi là trung tâm, nằm trong tổng thể chiến lược an ninh của Mỹ đã xác định. Cuộc chiến tranh này sẽ kéo theo cuộc tranh chấp thương mại giữa Mỹ và các nước còn lại không kém phần quyết liệt. Trật tự thương mại thế giới đang biến động.

Diễn biến chiến tranh thương mại Mỹ – Trung

Như phần trên đã phân tích, có thể coi đây là bước ngoặt của nền chính trị Mỹ – chuyển từ chính sách can dự sang vì nước Mỹ trên hết, từ chính sách coi Trung Quốc là đối tác ưu tiên và ưu đãi, sang là đối tượng đe dọa an ninh của nước Mỹ. Đó là sự sửa chữa những sai lầm trong chính sách đối ngoại mà Donald Trump đã gán cho các đời Tổng thống Hoa Kỳ tiền nhiệm. Giờ đây Donald Trump đang thực hiện nó như sự trả thù quá khứ để đưa nước Mỹ trở lại vị thế đứng đầu sau Thế chiến thứ hai, và sắp lại trật tự thế giới. Sau một loạt các hành động gây biến động thế giới như đã nói ở phần trên, Donald Trump đã chĩa thẳng vào Trung Quốc. Sau một loạt các cuộc đàm phán gây áp lực mở đầu đòi hỏi Trung Quốc phải đáp ứng các yêu cầu xuất nhập khẩu hàng hóa của Mỹ, Hoa Kỳ cho là không đạt kết quả. Ngày 6 tháng 7 năm 2018, Hoa Kỳ đã khởi sự cuộc tấn công vào nền kinh tế Trung Quốc bằng việc áp thuế nhập khẩu 25% cho hàng hóa Trung Quốc (trị giá 34 tỷ USD). Các học giả cho đó là phát súng đầu tiên, và coi đó là khởi đầu của cuộc chiến tranh thương mại, một cuộc chiến không có tiếng súng.

Để đáp trả, Trung Quốc lập tức trả đũa, áp thuế đối với hàng hóa của Mỹ vào Trung Quốc trị giá 34 tỷ USD. Ngay sau đòn tấn công của Trung Quốc, ông Donald Trump đã chỉ đạo cho ông Robert Lighthizer, đại diện thương mại Mỹ, áp thuế nhập khẩu trị giá 200 tỷ USD để tiếp tục “trừng phạt” Trung Quốc đã trả đũa Mỹ.

Không dừng ở đó, ông Trump đã tuyên bố sẵn sàng đánh thuế 500 tỷ USD bằng tổng giá trị nhập khẩu từ Trung Quốc. Trong khi đó, người phát ngôn Bộ Thương mại Trung Quốc vẫn tỏ ra cứng rắn: “Bắc Kinh sẵn sàng đáp trả mạnh mẽ không ngần ngại”. Để đáp trả phản ứng của Trung Quốc, ngày 1 tháng 8 năm 2018, Bộ trưởng Thương mại Mỹ Wilbur Ross đã bổ sung 44 công ty và tổ chức của Trung Quốc vào danh sách kiểm soát xuất khẩu, trong đó có nhiều công ty quốc doanh có khả năng phát triển công nghệ ứng dụng vào lĩnh vực quân sự. Quyết định này của Bộ trưởng Thương mại Hoa Kỳ là nhằm vào lĩnh vực quốc phòng, thông tin vệ tinh, bán dẫn và hàng không của Trung Quốc, ảnh hưởng tới tám tập đoàn lớn của Trung Quốc và hàng chục công ty con, trong đó có hệ thống Hebei Far East và học viện số 2 của Tập đoàn Khoa học Hàng không Trung Quốc. Bộ Thương mại Mỹ cũng cấm các doanh nghiệp Mỹ bán cho các công ty Trung Quốc những sản phẩm quan trọng như vật liệu hạt nhân, các thiết bị laser và cảm biến. Cùng ngày 1 tháng 8 năm 2018, người đại diện thương mại Mỹ đã chỉ trích Trung Quốc đã không thực hiện những đòi hỏi của Hoa Kỳ mà còn có hành động đáp trả một cách phi pháp “gây ảnh hưởng đến công nhân, nông dân, các chủ doanh trại và doanh nhân Mỹ”. Robert Lighthizer đã nhấn mạnh “Hoa Kỳ cần thực hiện những biện pháp phòng vệ cứng rắn bảo vệ vị thế dẫn đầu của Mỹ trong công nghệ sáng tạo”. Đến đầu tháng 8 năm 2018 thì cuộc chiến tranh thương mại Mỹ – Trung đã leo thang đến đỉnh điểm theo kiểu ăn miếng trả miếng nhau.

Cuộc chiến tranh thương mại Mỹ – Trung sẽ đi đến đâu?

Ông Donald Trump không phải là chính khách, nhưng ông là nhà quản lý, kinh doanh đầy kinh nghiệm nên ông thấy rõ cái gì là nguy cơ và cái gì là lợi ích của nước Mỹ. Ông là vị Tổng thống Mỹ đầu tiên đối đầu với Trung Quốc để đạt mục tiêu “nước Mỹ trước tiên”. Các học giả và các chuyên gia kinh tế đã nhận xét: cuộc chiến tranh thương mại do Mỹ phát động với Trung Quốc là phiên bản của cuộc chạy đua vũ trang thời Reagan và Brezhnev. Thời chiến tranh lạnh, Reagan đã làm cho Liên Xô kiệt quệ, rối loạn rồi sụp đổ. Ông Trump khởi sự cuộc chiến thương mại với Trung Quốc hướng tới mục đích cuối cùng làm cho nền kinh tế Trung Quốc suy yếu, phải chấp nhận các điều kiện của Mỹ đưa ra, ngăn chặn sự trỗi dậy của Trung Quốc, thay đổi bản chất nhà nước Trung Quốc, giống như chính sách của Reagan thúc đẩy cuộc chạy đua vũ trang khiến Liên Xô sụp đổ.
Đến nay, cuộc chạy đua trừng phạt lẫn nhau về thương mại giữa Mỹ và Trung Quốc đang ở cấp độ căng thẳng. Cả hai bên đều đẩy thuế đánh vào hàng hóa nhập khẩu của nhau ở mức cao, 25% đối với các mặt hàng, và cả ai bên đang ngấm dần những thiệt hại của cuộc chiến.

Cuộc leo thang của Mỹ không chỉ nhằm vào Trung Quốc mà vào tất cả những nước còn lại, kể cả đồng minh của Mỹ. Ông Trump đã từng nói thẳng thừng EU là “kẻ thù của Mỹ về kinh tế” nên cuộc chiến giữa Mỹ với các nước còn lại không kém phần gay gắt. EU tuyên chiến với Mỹ, Ủy ban Châu Âu đã cảnh báo Mỹ rằng nếu xảy ra chiến tranh thương mại toàn cầu thì Mỹ sẽ phải chịu thiệt hại khoảng 230 tỷ Euro. Thủ tướng Đức Angela Merkel cũng đã tuyên bố Đức cần phải chuẩn bị đối phó với cuộc chiến tranh thương mại do Mỹ khởi xướng. Hôm 28 tháng 6 năm 2018, Chủ tịch Hội đồng Châu Âu Donald Tusk đã phát biểu “cần phải chuẩn bị cho kịch bản tồi tệ nhất,” đó là Liên minh Châu Âu và Hoa Kỳ cắt đứt hoàn toàn quan hệ liên minh lâu đời.

Thái độ của EU đã hé mở sự hợp tác với các nước. Trung Quốc là nước đi đầu liên hệ với EU để thương thảo thương mại và đầu tư. Thủ tướng Trung Quốc Lý Khắc Cường đã hai lần đến Brussel và Đức để chuẩn bị phối hợp đối phó cuộc chiến thương mại do Mỹ phát động và đã ký 20 hợp đồng trợ giá khoảng 30 tỷ Euro về lĩnh vực công nghệ, hóa chất và năng lượng. Tại Hội nghị thượng đỉnh Châu Âu – Trung Quốc ở Bắc Kinh (16-17 tháng 7 năm 2018), hai bên đã thống nhất được nhiều biện pháp cụ thể nhằm thúc đẩy tự do thương mại, đầu tư, mở cửa thị trường Trung Quốc cho EU theo nguyên tắc “có đi có lại”. Những người lạc quan nhất cũng chưa thể tin những thỏa thuận giữa Trung Quốc và EU đã có ngay kết quả vì còn quá nhiều bất đồng trong lịch sử. Song cả Trung Quốc và EU đã thành công là cùng nhau hợp tác để chống lại sự trừng phạt của Mỹ.

Ở một cực khác, Nhật Bản cũng tích cực liên hệ với EU và Trung Quốc để thương thảo hiệp định thương mại tự do giữa Nhật – EU và Nhật – Trung để đối phó với ảnh hưởng của chiến tranh thương mại Mỹ – Trung.

Các nước Canada và Mexico đã có nhiều xung đột thương mại với Mỹ khi Trump đòi hỏi đàm phán lại Hiệp định thương mại Bắc Mỹ, cũng đang tích cực tìm kiếm các đối tác thương mại mới ở Châu Âu và Nhật Bản nhằm đối phó với Mỹ.

Trong khi đó, Donald Trump vẫn thể hiện quan điểm cứng rắn với EU. Ông tuyên bố “thuế quan là tốt nhất” và “tất cả các quốc gia đối xử bất bình đẳng với Mỹ về thương mại trong suốt nhiều năm đều phải đến Washington để đàm phán”. Ông Trump rất biết các nước EU phụ thuộc vào Mỹ về thương mại và an ninh, không còn con đường nào khác ngoài đàm phán, ngày 25 tháng 7 năm 2018, Chủ tịch Ủy ban Châu Âu Jean-Claude Junker (người Đức) đã đến Mỹ gặp Tổng thống Trump cùng bàn việc xóa bỏ thuế quan, hàng rào phi thuế quan và trợ cấp cho hàng hóa thuộc ngành không phải công nghiệp ô tô. Hai bên cùng có kế hoạch sẽ bàn tới việc cắt giảm rào cản và mở rộng thương mại dịch vụ, hóa chất, dược phẩm và các sản phẩm y tế cũng như đậu tương. EU sẵn sàng đầu tư xây dựng các trạm tiếp nhận khí hóa lỏng LNG chủ yếu từ Mỹ, đồng ý cho Mỹ xuất khẩu đậu nành sang Châu Âu để đổi lấy tránh thuế cao nhằm vào ô tô, nhôm và sắt từ EU vào Mỹ.

Cuộc đối đầu đầu tiên với EU này Mỹ đã giành phần thắng. Nếu điều này xảy ra chẳng khác nào Hiệp định Thương mại Thế giới (WTO) bị Mỹ vô hiệu hóa.

Động thái Donald Trump đột nhiên gặp Tổng thống Nga Putin tại Phần Lan (cuối tháng 7 năm 2018) và ngỏ lời mời ông Putin đến Washington trong lúc quan hệ Hoa Kỳ và Nga vô cùng căng thẳng khi Hoa Kỳ xác định “Nga là kẻ thù số một” và gia tăng các hoạt động trừng phạt Nga. Điều này cho thấy Donald Trump bỏ lướt qua những mâu thuẫn trước mắt, tạo ra hình ảnh hòa dịu trong quan hệ Nga – Mỹ nhằm phân hóa Trung Quốc và các nước Châu Âu, cho dù chưa biết được ông Trump và ông Putin đã thỏa thuận được gì với nhau.

Đến thời điểm này, Mỹ đang chủ động phá vỡ trật tự thế giới sau chiến tranh lạnh, xóa bỏ luật chơi “đã gây bất lợi” cho Mỹ trong nhiều năm qua, trong đó có Hiệp định Thương mại Thế giới WTO. Điều đáng quan tâm là thế giới đang hình thành thế đối đầu mới do Mỹ chủ động thúc đẩy, một bên là Mỹ các các nước đồng minh của Mỹ, với một bên là Trung Quốc và các nước còn lại. Nga được nhìn nhận là nhân tố để Mỹ lôi kéo vào cuộc chiến chống Trung Quốc, như lịch sử Mỹ đã lôi kéo Trung Quốc chống Liên Xô, kéo theo sự sụp đổ của phe XHCN.

Nước Mỹ của Trump cũng đang chủ trương chiến lược Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương mới, nhằm tạo thế cân bằng với chính sách “Một vành đai, Một con đường” của Trung Quốc. Những nỗ lực ngoại giao liên tục của chính quyền Trump nhằm xoa dịu quan hệ với Bình Nhưỡng cũng có mục tiêu loại bớt ảnh hưởng của Trung Quốc trên bán đảo Triều Tiên nói riêng và khu vực Đông Á nói chung, từng bước cô lập và làm suy yếu Trung Quốc. Đây là bước đi mới trong chiến lược an ninh của Hoa Kỳ để giành ưu thế với Trung Quốc ở vùng này.

Tuy nhiên, để thực hiện được ý đồ như Donald Trump mong muốn, nước Mỹ phải đối mặt với nhiều thách thức, không thể một sớm một chiều mà Mỹ giải quyết được những mâu thuẫn một mất một còn với các nước. Việc rút khỏi thỏa thuận Iran về hạt nhân và tuyên bố của Trump trừng phạt Iran, bắt đầu từ ngày 7 tháng 8 năm 2018, đã vấp phải sự phản ứng mạnh mẽ của Liên minh Châu Âu. Ngày 6 tháng 8 năm 2018, Ủy ban Châu Âu ra tuyên bố quyết tâm bảo vệ các thực thể hoạt động kinh tế của EU đang hợp tác thương mại hợp pháp với Iran. Tuyên bố này sẽ ảnh hưởng rất lớn đến những thỏa thuận của Liên minh Châu Âu với Hoa Kỳ, đặt cho hai bên những thách thức mới.

Song trở ngại lớn nhất trên con đường của Donald Trump là một Trung Quốc khác với Liên Xô trước đây. Trung Quốc cũng đủ tiềm lực để đối phó với Mỹ theo kiểu hai bên cùng chết. Ông Putin không dễ gì từ bỏ mối quan hệ với ông Tập Cận Bình, khi mà quan hệ giữa Mỹ và Nga rất căng thẳng. Vì vậy tình hình sẽ còn diễn biến phức tạp, chưa thể đoán trước điều gì. Điều có thể nhận thức được là cuộc chiến thương mại do ông Donald Trump phát động với Trung Quốc là khởi đầu nằm trong chiến lược an ninh của Mỹ, sau hơn một tháng đã hé lộ ý đồ vô hiệu hóa Hiệp định Thương mại Thế giới, dùng chính sách thuế quan để gây áp lực với các nước đồng minh chấp nhận các điều kiện mới của Mỹ và xây dựng một liên minh mới chống Trung Quốc, với mục tiêu nước Mỹ phải đứng đầu thế giới như ông Donald Trump đã từng tuyên bố.

Ý đồ thì to lớn nhưng có thực hiện được hay không còn tùy thuộc vào nhiều yếu tố. Cuộc chiến thương mại Mỹ – Trung chắc chắn không bên nào giành được thắng lợi hoàn toàn mà chỉ dẫn đến “hai bên đều chết”. Đến một thời điểm nào đó, những thỏa thuận phải được đặt ra và đàm phán lại bắt đầu, đó là giải pháp ngày nay nhiều nước đã lựa chọn. Trường hợp Mỹ – Trung cũng không ngoại lệ. Tuy nhiên, với chính sách “nước Mỹ trên hết” của Trump, việc đạt được thỏa thuận còn là một con đường rất dài.

N.V.H

BÌNH LUẬN

BÀI BÌNH LUẬN KHÁC