Bước vào thập niên thứ ba của thế kỷ 21, thế giới đã phải “rùng mình” trước một đòn “trời giáng”: Đại dịch toàn cầu viêm phổi virus corona (Covid-19). Tính đến ngày 10/5/2020, Covid-19 đã làm cho trên 4,1 triệu người nhiễm bệnh, cướp đi sinh mệnh của hơn 28 vạn người, tại 214 quốc gia và vùng lãnh thổ toàn cầu và hiện vẫn đang diễn biến phức tạp khó lường, đặc biệt là tại Mỹ và châu Âu. Hầu như không có quốc gia nào, không có nhà khoa học lỗi lạc nào dự báo được tại họa này và ngay khi nó đã bùng phát từ Vũ Hán, Hồ Bắc, Trung Quốc (ngày 8/12/2019), người ta vẫn chưa hình dung được nỗi kinh hoàng mà covid-19 sẽ đem lại cho nhân loại. Về mức độ tàn phá của Covid, mới đầu người ta chỉ so sánh với dịch SARS năm 2002-2003 (hơn 8000 người nhiễm bệnh và trên 700 ca tử vong), không thấm vào đâu, người ta lại so covid với khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008-2009, rồi với đại dịch Tây Ban Nha 1918-1919; vẫn chưa đủ mức, người ta còn so Covid với hai cuộc chiến tranh thế giới và cuối cùng với cuộc “đại khung hoảng” toàn cầu 1929-1933.
Lo ngại, sợ hãi, hoang mang bao trùm thế giới. “Đứng trước một kẻ thù mơ hồ nhưng sức tàn phá ghê gớm như vậy, liệu quả đất của chúng ta nay mai sẽ ra sao?” (Tạp chí Viễn kiến, Đài Loan, 14/4/2020). Nhiều chiến lược gia, chính trị gia, kinh tế gia, nhiều “túi khôn” nổi tiếng thế giới đã làm gia tăng nỗi kinh hoàng, khi họ cho rằng “Covid-19 sẽ làm thay đổi mang tính vĩnh viễn hệ thống quốc tế, cả sự cân bằng lực lượng và trật tự tế giới, từ đó, lịch sử nhân loại sẽ được phân thành “trước 2020” và “sau 2020” (Henry Kissinger, chiến lược gia hàng đầu của Mỹ, Nhật báo phố Wall ngày 3/4/2020); “dịch Covid lần này là một bước ngoặt thời đại, giống như trước đây có “trước công nguyên” và “sau công nguyên”, nay có “trước Covid” và “sau Covid” (Kinh tế gia nổi tiếng người Mỹ, tác giả cuốn Thế giới phẳng (The World is Flat), Thomas L. Friedman, New York Times); G.S. Học Viện Chính trị Kinh tế Luân Đôn – John Gray cũng khẳng định, do Covid-19, “diện mạo của thế giới đã thay đổi và đó không phải là một sự biến đổi tạm thời”, “thế giới ổn định cân bằng đã đi vào dĩ vãng”; “Covid-19 chắc chắn sẽ là một điểm ngoặt của lịch sử nhân loại” (Nhà quan sát, 22/4/2020). Nhiểu nhà nghiên cứu cho đây là “ngày tàn của toàn cầu hóa” (Robin Niblett, Giám đốc Sở nghiên cứu các vấn đề quốc tế Hoàng gia Anh) hoặc “thời đại toàn cầu hóa cao độ sẽ ra đi và không bao giờ trở lại” (Giáo sư Stephen M. Walt, Đại học Harvard – Viễn kiến đã dẫn)…
Trong lịch sử hiện đại, có lẽ chưa bao giờ những bộ óc siêu đẳng ấy lại có cách nhìn bi quan đến thế đối với thế giới mà chúng ta đang sống.Hệ thống quốc tế, trật tự thế giới sau Covid sẽ như họ phán đoán sao? Đó là điều rất cần được phân tích làm rõ.
Covid-19 quả đã ập tới một cách bất ngờ, phạm vi ảnh hưởng của nó rộng hơn bất cứ một tai họa tự nhiên, một cuộc khủng hoảng chính trị hoặc một cuộc chiến tranh nào kể từ “đại suy thoái” 1929-1933. Mức độ tàn phá của nó cũng nghiêm trọng hơn bất cứ một “sự cố” quốc tế nào. Ảnh hưởng của Covid sẽ còn thấm sâu vào đời sống chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa toàn cầu trong một thời gian khá dài.
1. Tác động về địa-chính trị:
Tưởng như Covid-19 chủ yếu là tác động đến kinh tế nhưng trên thực tế, nó đã và sẽ còn tác động toàn diện đến trật tự thế giới và quan hệ quốc tế, cả về lý luận và thực tiễn.
1-1. Đối với trật tự thế giới
– Trước hết, Covid-19 là “một cú hích mới”, tuy chưa làm biến dạng trật tự thế giới đã tồn tại hơn 70 năm qua nhưng sẽ đẩy nhanh thêm tiến trình thay đổi trật tự này, một tiến trình dường như đã được bắt đầu từ sự trỗi dậy của Trung Quốc. Covid-19 làm cho người ta nhận rõ, quá trình chuyển dịch quyền lực và sức ảnh hưởng từ Tây sang Đông đang được thúc đẩy nhanh hơn. Ngay người phương Tây cũng phải thừa nhận rằng, phản ứng chậm, lúng túng, rối loạn của Mỹ và Châu Âu trong đối phó với Covid-19 đã dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng, hoàn toàn không tương xứng với sức mạnh và uy tín của họ, làm “mất đi hào quang vốn có của thế giới phương Tây” (Stephen M. Walt, G.S. Đại học Harvard, Viễn kiến 14/4/2020). Người Trung Quốc thì cho rằng, “sau Covid-19, phương Tây có thể sẽ trở nên “không mấy mở cửa, không mấy phồn vinh và không mấy tự do nữa” (Liễu Vọng, 6/5/2020). Thế giới phương Tây chắc chắn không muốn nghe nhưng thực tiễn chống dịch Covid-19 đã chứng minh cho những nhận định này. Mỹ và Châu Âu quả là rất lúng túng và bất lực trước Covid-19, riêng 6 nước giàu mạnh bậc nhất của thế giới phương Tây gồm Mỹ, Tây Ban Nha, Ý, Đức, Pháp, Anh đã chiếm tới 70% số người nhiễm bệnh và 80% số người tử vong trên toàn cầu (tính đến tháng 4/2020). Dĩ nhiên, chống dịch Covid-19 không thể hiện toàn bộ sức mạnh và ảnh hưởng của một quốc gia nhưng cũng là một tiêu chí quan trọng đánh giá năng lực quản lý và ứng phó nguy cơ của quốc gia đó. Nhìn chung, trong cuộc ứng chiến với đại dịch toàn cầu này, sức mạnh và ảnh hưởng của phương Tây đã không được thể hiện như người ta tưởng
– Covid cũng cho thấy chiều hướng cạnh tranh về chiến lược, về hình thái ý thức, về mô hình phát triển và sự đối đầu địa chính trị giữa các nước lớn trong điều kiện quốc tế mới sẽ gia tăng, đặc biệt là giữa Trung Quốc và Mỹ. Quan niệm về giá trị, xung đột văn hóa Đông-Tây… sẽ có nhiều thay đổi theo hướng khó hòa hợp hơn trong khi chủ nghĩa dân tộc, chủ nghĩa dân túy có điều kiện ngóc đầu dậy, tình trạng thiếu tin cậy chiến lược lẫn nhau trở nên phổ biến hơn. Covid-19 đã làm bộc lộ nhiều khuyết tật của các mô hình kinh tế, mô hình phát triển mà đại diện là mô hình Mỹ và mô hình Trung Quốc, trong đó có nhiều khuyết tật mang tính “lỗi hệ thống” khiến cho các quốc gia, nhất là các nước đang phát triển càng do dự hơn trong việc lựa chọn mô hình cho mình; các quốc gia muốn “chọn bên” cũng phải cân nhắc thận trọng hơn, có thể sẽ dẫn đến tình trạng phổ biến là không “chọn bên cả gói” mà là “chọn bên từng mặt” có lợi nhất cho quốc gia mình. Tình trạng này sẽ làm cho việc tập hợp lực lượng trên phạm vi toàn cầu theo hai cực Mỹ-Trung sẽ trở nên khó khăn hơn. Các quốc gia sẽ tìm cách khai thác những lợi ích có thể khai thác được từ cả hai phía Mỹ và Trung Quốc để tối đa hóa lợi ích quốc gia của mình chứ không đứng hẳn về một bên nào theo tiếng gọi của “tập hợp lực lượng” từ góc độ địa chính trị.
– Covid sẽ càng thúc đẩy cạnh tranh đồng thời cũng làm nổi bật tính tất yếu và sự cần thiết của hợp tác toàn cầu. Một xu hướng quốc tế đáng được thúc đẩy là hướng tới một mối quan hệ mới mang tính “cạnh tranh lành mạnh”, “hợp tác cùng có lợi”, cùng bảo đảm an ninh và phát triển bền vững. Đây là chiều hướng tốt mà Covid sẽ góp phần đem lại. Điều này đòi hỏi phải có sự điều chỉnh thích hợp trong thái độ và hành vi ứng xử quốc tế của các quốc gia, của các nhà lãnh đạo, nhất là của các nước lớn, đặc biệt là của Mỹ và Trung Quốc. Giao lưu nhân văn, ngoại giao nguyên thủ, ngoại giao kinh tế, hợp tác đối phó nguy cơ… ngày càng có vai trò quan trọng. Nhưng tiếc thay, trên thực tế, không phải quốc gia nào, lãnh tụ thế giới nào cũng nghĩ và hành động như vậy. Nếu Trung Quốc và Mỹ hợp tác với nhau, bắt tay nhau cùng chống dịch ngay từ đầu, những tổn thất mà nhân loại đã phải gánh chịu có thể đã được giảm đi nhiều. Covid càng cho thấy thế giới không phải là “một thế giới phẳng”, nó quá phức tạp và chia rẽ, không chỉ trong thời buổi bình yên mà ngay cả trong lúc mọi quốc gia, mọi khu vực đều phải gồng mình để đối phó với nguy cơ, phải bươn trải để bảo đảm sự tồn tại. Thế giới sau Covid có phải là một thế giới “hợp tác cùng có lợi trong sự cạnh tranh lành mạnh” hay không, vẫn chưa có câu trả lời rõ ràng; Covid càng làm cho người ta băn khoăn hơn về tương lai của toàn cầu.
1-2. Đối với quan hệ quốc tế:
(i) Quan hệ Trung Mỹ
– Điều đáng nói nhất là Covid-19 sẽ đẩy nhanh quan hệ Trung Mỹ đến chỗ xấu hơn, xung đột chiến lược càng sâu rộng hơn, càng khó điều hòa hơn. Ngày 15/1/2020, khi Trung Mỹ ký hiệp định thương mại giai đoạn 1, cũng là khi Mỹ phát hiện ca nhiễm Covid-19 đầu tiên ở bang Washington. Sự trùng hợp này dường như là một “điềm gở” cho quan hệ Trung Mỹ. Trung Quốc và Mỹ ngay từ đầu đều tỏ ra chủ quan, đánh giá không đúng mức tính nghiêm trọng của dich Covid, đều không đối mặt với hiện thực, không tận dụng được khoảng thời gian quý báu ban đầu để kiểm tra và ngăn chặn dịch lây lan, lãng phí cơ hội để hợp tác quốc tế chống dịch. Từ khi dịch bùng phát (8/12/2019) cho đến trước 20/1/2020, Trung Quốc đã phạm nhiều sai lầm trong nắm tình hình, xử lý thông tin, trong quyết sách và trong bộ máy tổ chức chống dịch, lãng phí mất hơn một tháng, đủ thời gian cho dịch bệnh lây lan ra toàn quốc và không khống chế được, lây lan ra toàn cầu. Một báo cáo nghiên cứu của Đại học Southampton (Anh) gần đây cho biết, nếu Trung Quốc công bố sự thật Covid-19 có thể lây sang người để có giải pháp ứng phó ngay từ đầu tháng 1/2020 thì có thể ngăn chặn được 95% lây lan của bệnh dịch. Nghiên cứu trên cho biết, các bác sĩ của hai bệnh viện ở Vũ Hán đã cảnh báo tình trạng lây nhiễm sang người vào ngày 27/12 và 29/12/2019 nhưng 3 tuần sau, ngày 20/1/2020 chính phủ Trung Quốc mới công bố thông tin này. Các tác giả của nghiên cứu cho rằng, nếu trong nội địa Trung Quốc có biện pháp ngăn chặn dịch sớm hơn 1 tuần thì số ca nhiễm sẽ giảm đi 66%, sớm hơn 2 tuần thì số ca nhiễm sẽ giảm 86% và sớm hơn 3 tuần sẽ giảm được 95% (Trung ương xã, Đài Loan, 28/4/2020). Nhưng sau 20/1, Trung Quốc đã “dốc toàn lực” cho chống dịch, thực hiện nhiều biện pháp quyết liệt, có hiệu quả và đã cơ bản khống chế được dịch trong nội địa Trung Quốc (khoảng từ giữa tháng 3), Trung Quốc đã phần nào lấy lại được uy tín. (Ngoại trưởng Trung Quốc Vương Nghị ngày 15/4/2020 cho biết, Trung Quốc đã viện trợ cho WHO 20 triệu USD; công bố 7 phương án điều trị và 6 phương án phòng chống Covid để thế giới tham khảo; đã cử 14 đội chuyên gia sang 12 quốc gia trao đổi và giúp đỡ chống dịch, đã xuất khẩu số lượng lớn khẩu trang, quần áo bảo hộ, máy đo thân nhiệt, máy thở sang hàng chục quốc gia trên thế giới…). Ngược lại, sự lúng túng, bất lực của chính quyền Mỹ đã làm cho nước Mỹ lâm nguy; số lượng người nhiễm bệnh, số lượng người chết và tốc độ lây lan Mỹ đều ở mức cao nhất thế giới và hiện vẫn chưa biết đến bao giờ mới dập tắt được dịch bệnh (Tính đến 10/5/2020, Mỹ đã có tới trên 1.346 triệu người nhiễm dịch và trên 80 nghìn người tử vong). Uy tín quốc tế của Mỹ suy giảm, vai trò lãnh đạo thế giới của Mỹ càng bị nghi ngờ. Tạp chí “Chính sách Ngoại giao” của Mỹ gần đây đã có bài bình luận dưới tiêu đề “Cái chết của năng lực Mỹ”, cho rằng sự vô trách nhiệm và những thất thố về chính sách của chính quyền Trump đã “không làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại, mà càng bôi đen danh dự của nước Mỹ”. Cựu Trợ lý Ngoại trưởng Mỹ phụ trách Châu Á – Thái Bình Dương Kurk Campbell, người đã nhiều năm tham gia hoạch định chính sách đối ngoại của Mỹ và Giáo sư Đại học Yale Rush Doshi thì nhận định: Covid là một cuộc sát hạch về ưu thế của Mỹ và kết quả sát hạch cho thấy Mỹ đã không đạt yêu cầu. Nếu nói khủng hoảng kênh đào Xu-e năm 1956 đã bộc lộ sự bất lực của đế chế Anh và làm cho nước Anh mất tư cách siêu cương thì dịch Covid-19 lần này có lẽ cũng sẽ trở thành “thời khắc kênh đào Xu-e” của Mỹ” (Tạp chí Những vấn đề Ngoại giao ngày 18/3). Cựu Tổng thống Obama thì coi đây là một “thảm họa đầy hỗn loạn” xuất phát từ sự yếu kém của chính quyền Trump và đây cũng là lý do để Obama ủng hộ Bayden vào Nhà Trắng. Điều chắc chắn là Covid sẽ làm đảo lộn những “thành tựu” kinh tế mà Donal Trump đã ra sức quảng cáo ngay trước khi dịch xảy ra; Covid tất nhiên ảnh hưởng đến khả năng tái cử của Trump nhưng ảnh hưởng đến mức nào còn phải chờ xem kết quả của cuộc vật lộn của Trump với Covid ra sao và cách thức mà ông ta có thể vực dậy nền kinh tế Mỹ sau dịch như thế nào. Quả là không dễ dàng đối với Trump nhưng cũng chưa phải là đã mất hết hi vọng; ông Trump vẫn luôn tin rằng Chúa sẽ phù hộ cho nước Mỹ, phù hộ cho ông ta.
– Covid-19 rất có thể sẽ tạo cớ cho Trung Quốc từ chối hoặc lùi thời gian thực hiện cam kết của họ trong hiệp định thương mại giai đoạn 1 (mua thêm 200 tỉ USD hàng hóa của Mỹ trong 2 năm 2020-2021); Mỹ có thể sẽ trả đũa và kết thúc thời gian “ngưng chiến”, chiến tranh thương mại Trung Mỹ sẽ tiếp diễn. Nhiều phân tích cho rằng, sau Covid-19, không loại trừ khả năng Trung Mỹ sẽ tiếp tục nhanh hơn quá trình “thoát khỏi nhau”. Tổng thống Donal Trump đã tuyên bố “không có chuyện đàm phán lại Hiệp định thương mại Mỹ-Trung” và ông vẫn cho rằng “biện pháp áp thuế nhập khẩu đối với hàng hóa của Trung Quốc là biện pháp hữu hiệu để ứng phó với Trung Quốc”. Trong trạng thái này, xem ra đàm phán thương mại Trung Mỹ giai đoạn 2 sẽ rất khó được tiến hành, ngược lại, những dấu hiệu của cuộc “chiến tranh thương mại giai đoạn 2” ngày càng thấy rõ.
– Trung Mỹ sẽ tiếp tục gay gắt hơn trong cuộc chiến tuyên truyền xuay quanh cái gọi là “thuyết âm mưu”. Mỹ có thể sẽ tìm cách tập hợp thế giới phương Tây đòi truy cứu trách nhiệm của Trung Quốc về việc để xảy ra nạn dịch, đem tai họa cho toàn cầu. Quốc hội Mỹ đang chuẩn bị dự án luật đòi Trung Quốc bồi thường sau khi dịch kết thúc, một số thượng nghị sĩ thậm chí còn đòi trừng phạt Bắc Kinh. Trung Quốc thì cực lực phản đối Trump gọi dịch Covid là “dịch Trung Quốc”, bác bỏ dư luận cho rằng ngồn gốc dịch bệnh là từ Trung Quốc đồng thời ra sức tuyên truyền về những thành công và cống hiến của Trung Quốc trong cuộc chống dịch, đã bắt đầu đưa ra luận điểm “thế giới còn nợ Trung Quốc một lời cảm ơn” (ý là cảm ơn Trung Quốc đã giúp thế giới chống dịch). Cuộc chiến tuyên truyền này có thể được nâng cấp thành cuộc chiến ý thức hệ sâu rộng hơn, gay gắt hơn. Kiểu tuyên truyền né tránh những sai sót và quá đề cao những cống hiến của mình trong chống dịch, đòi thế giới phải có lời cảm ơn Trung Quốc… sẽ không những không có sức hấp dẫn mà còn phản tác dụng, càng tạo ra những phản cảm trong dư luận quốc tế, không đem lại điều gì tốt đẹp hơn cho chiến lược triển khai sức mạnh mềm của Trung Quốc.
– Covid-19 có thể sẽ làm cho một số trong giới tinh hoa chính trị Mỹ muốn nước Mỹ trở lại với “chủ nghĩa quốc tế” mà Roosevelt đã mô tả sau “đại khủng hoảng” 1929-1933. Roosevelt chủ trương xây dựng một trật tự mới với một “hệ thống mở” dựa trên sự phụ thuộc lẫn nhau để tồn tại, bằng những phương thức bảo đảm và quản lý mới. Bài học Covid-19 làm cho số này nhận ra rằng, nước Mỹ không thể chỉ ẩn mình trong biên giới lãnh thổ của mình mà phải vận động trong một trật tự mở, Mỹ nhất thiết phải xây dựng một cơ sở nền tảng cho hợp tác đa phương toàn cầu, trong đó Mỹ phải đóng vai trò lãnh đạo. Quan điểm hợp tác toàn cầu này đã gián tiếp đối lập với “chủ nghĩa vị Mỹ”, “nước Mỹ trên hết” của Trump và sẽ có vai trò nhất định trong quá trình điều chỉnh chíến lược của Mỹ sau Covid-19 (G. John Ikenberry, Giáo sư Khoa chính trị và sự vụ quốc tế, Đại học Princeton). Có thể quan điểm này chưa chi phối được chính sách của chính quyền Mỹ sau Covid nhưng cũng sẽ là một nhân tố quan trọng tác động vào chính sách đối ngoại của Mỹ, chính trị Mỹ sẽ càng ở thế giằng co giữa xây dựng “một hệ thống quốc tế mở dựa vào nhau để tồn tại” và “tất cả đều nhằm làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại”. Sự giằng co này sẽ được thể hiện ngay trong nội các và trong chính sách, trước hết là chính sách đối ngoại của chính quyền Trump. Tuy nhiên, sự thống nhất trong hệ thống chính trị Mỹ về tính cần thiết và biện pháp kiềm chế Trung Quốc không những sẽ không thay đổi mà còn được củng cố thêm. Có thể coi đây là một đặc điểm khá nổi bật của chính trị Mỹ sau chiến tranh lạnh và đặc điểm này càng được Covid-19 chứng minh thêm
– Thái độ của Trung Quốc và Mỹ đối với WHO, cơ quan chủ quản về y tế quốc tế hoàn toàn trái ngược nhau. Trung Quốc hết sức ủng hộ WHO, tìm cách tranh thủ WHO ủng hộ quan điểm và khẳng định thành công của Trung Quốc trong chống dịch, thông qua WHO để quảng bá với thế giới những thành công này. Mỹ thì ngay từ đầu đã chỉ trích sự bất lực, sự “vào hùa” với Trung Quốc của WHO để che giấu thông tin…Mỹ đã dứt khoát cắt khoản đóng góp trên 400 triệu USD của Mỹ cho WHO…Đối đầu Trung Mỹ chắc chắn sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động của WHO sau dịch và không chỉ đối với WHO, các tổ chức quốc tế khác (LHQ, IMF, ILO…) cũng có thể phải chịu vạ lây của sự hục hặc Trung Mỹ
(ii) Covid có thể sẽ thúc đẩy cài đặt lại một số cặp quan hệ
– Covid xảy ra đúng vào lúc nước Anh rời khỏi EU, đánh dấu một bước lùi mới, nghiêm trọng hơn của “nhất thể hóa châu Âu”, làm cho uy tín và ảnh hưởng của Châu Âu càng thêm giảm sút. Châu Âu đã chiếm 5 trên 6 quốc gia có số người nhiễm và người tử vong nhiều nhất toàn cầu và hiện vẫn đang lúng túng đối phó với bệnh dịch. Trung Quốc đang tận dụng giai đoạn khó khăn này của EU để thâm nhập sâu hơn vào khu vực này. Tuy nhiên sự nghi kỵ của Châu Âu đối với Trung Quốc dường như không thuyên giảm mà đang gia tăng, nhất là đối với cách hành xử của Trung Quốc trong chống dịch. Mặt khác, dù không mấy thiện cảm với Mỹ trong cuộc chống dịch này nhưng nhiều khả năng châu Âu vẫn cùng với Mỹ khuấy động cái gọi là “truy cứu trách nhiệm đối với Trung Quốc” để xảy ra dịch Covid-19. Trong bối cảnh đó, quan hệ EU-Nga có cơ hội để thúc đẩy cải thiện, nhất là trên lĩnh vực bảo đảm an ninh phi truyền thống, an ninh năng lượng và an ninh lương thực. Nhật Bản chắc chắn cũng sẽ tìm cách thâm nhập sâu hơn vào Châu Âu
– Covid-19 cũng tác động không nhỏ đến nước Nga. Ngoài những tác động tiêu cực, đây có thê là một cơ hội để nước Nga cải thiện quan hệ với EU và với Mỹ. Covid-19 làm cho giá dầu tụt xuống mức thấp nhất trong lịch sử. Giá đầu có lúc đã giảm xuống dưới 20 USD/thùng, chênh lệch quá xa so với giá thành sản xuất dầu đá ở Mỹ (từ 40-45 USD/thùng) và tiêu chí hoạch định chiến lược phát triển của Nga trên cơ sở giá dầu (40 USD/thùng); nếu kéo dài tình trạng này, cả Mỹ và Nga đều khó có thể chịu đựng nổi. Trên thực tế Nga và Mỹ đã cùng Ả rập Xeut đóng vai trò rất quan trọng trong việc đi đến thỏa thuận giảm sản lượng dầu, góp phần giúp bình ổn giá dầu. Có thể nói, ngoài Nga-EU, Covid-19 còn góp phần tạo ra cơ hội để cải thiện quan hệ Nga-Mỹ và thúc đẩy hợp tác Mỹ-Nga trong giải quyết vấn đề Trung Đông. Đối với Trung Quốc, giá dầu giảm sẽ có lợi cho Trung Quốc, họ sẽ tận dụng nguồn tài chính dồi dào của mình để mua thêm dầu, làm cho kho dự trữ chiến lược năng lượng của họ càng đầy thêm, bảo đảm chắc chắn, lâu dài cho nhu cầu kinh tế và quân sự của họ. Tuy nhiên, nếu quan hệ Nga-Mỹ, Nga-EU và Nga-Nhật được cải thiện, không gian chiến lược của Trung Quốc có thể bị thu hẹp lại
– Covid cũng có thể làm cho vai trò của Nhật được nâng cao hơn trong tiến trình triển khai CPTPP, trong cơ cấu lại chuỗi cung ứng toàn cầu, đặc biệt là tại khu vực Đông Á-Thái Bình Dương. Quan hệ Nhật-Mỹ tiếp tục được củng cố, vai trò của Nhật trong triển khai Chiến lược Ấn Độ dương-Thái Bình Dương được coi trọng; trong bối cảnh Mỹ-Trung gia tăng đối đầu, Nhật Bản có thể trở thành “đại lý” của Mỹ tại Đông Á-Thái Bình Dương trên một số lĩnh vực. Nhật cũng sẽ thúc đẩy quan hệ với Nga, cải thiện quan hệ với Hàn Quốc. Mặc dù Covid đã làm cho chuyến thăm Nhật của Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình (dự kiến vào tháng 4/2020) không thực hiện được nhưng Nhật Bản chắc chắn sẽ tiếp tục quá trình đi đến cải thiện quan hệ với Trung Quốc trong bối cảnh mới, tư thế mới. Vị thế của Ấn Độ, Hàn Quốc, Úc có thể được nâng cao hơn, nhất là trong quá trình cơ cấu lại chuỗi cung ứng khu vực Đông Á-Thái Bình Dương và toàn cầu sau Covid.
(iii) Thúc đẩy sự điều chỉnh chính sách vĩ mô của các quốc gia:
– Dưới tác động của Covid-19, hầu hết các quốc gia sẽ buộc phải điều chỉnh chính sách vĩ mô quốc gia của mình, chủ yếu là sẽ tập trung cho “hướng nội”. Trước hết là nâng cao nội lực để phòng chống dịch hiệu quả, thoát ra khỏi dịch sớm nhất có thể. Covid-19 càng làm cho mỗi quốc gia đều ý thức sâu sắc hơn về việc tranh thủ, bảo đảm quyền tự chủ và quyền khống chế vận mệnh quốc gia của mình, đồng thời với việc lựa chọn chỗ dựa trong một “chuỗi cung ứng toàn cầu đáng tin cậy”. Trong bối cảnh đó, mức độ ủng hộ của các lực lượng chính trị-kinh tế trong từng quốc gia đối với chính phủ của họ để ứng phó nguy cơ có thể được gia tăng, vai trò của nhà nước được nâng cao trong mối quan hệ giữa Nhà nước với thị trường, Nhà nước với xã hội; chính trị nội bộ có thể sẽ ít gây cấn hơn trong ngắn hạn. Do phải tập trung cho đối nội, các nước càng ít sẵn sàng xử lý hoặc cam kết về các vấn đề hợp tác khu vực và toàn cầu hơn. Vì vậy, trong khi nhu cầu hợp tác toàn cầu tăng cao thì khả năng hợp tác thực tế lại bị hạn chế bởi xu hướng “hướng nội”. Quan hệ quốc tế một thời gian tương đối dài sau Covid sẽ chịu tác động của xu hướng này
– Qua Covid-19, xã hội quốc tế càng nhận thức rõ hơn về các mối uy hiếp an ninh phi truyền thống, rằng đó là kẻ thù chung của nhân loại và hợp tác toàn cầu là giải pháp duy nhất để có thể ứng phó với các mối uy hiếp này. Vì vậy, thế giới càng thất vọng về sự bất hòa, bất hợp tác Trung Mỹ trong cuộc “chống giặc Covid” này và nỗi thất vọng đó có thể sẽ còn tác động lâu dài đến tâm lý của xã hội quốc tế. Các mối uy hiếp an ninh phi truyền thống nói chung sẽ được coi trọng hơn và trở thành nội dung quan trọng trong hoạch định chính sách quốc gia. Hiệu quả ứng phó với các mối uy hiếp này được coi là một tiêu chí để đánh giá năng lực quản trị của quốc gia. Đây là mặt tích cực của Covid. “Ngoại giao y tế” trở thành một phương thức mới trong ngoại giao tổng thể; Trung Quốc đang tích cực thực hiện phương thức này sau khi họ đã cơ bản khống chế được dịch bệnh ở trong nước, nhằm mở rộng sức mạnh mềm của họ
– Vấn đề củng cố, nâng cao hệ thống quản trị và năng lực quản trị quốc gia, nhất là hệ thống quản lý và ứng phó nguy cơ được đặt ở vị trí cao hơn trong hoạch định chiến lược phát triển, chiến lược an ninh quốc gia của từng quốc gia. Chính sách xã hội, vấn đề dân sinh, cơ chế huy động lực lượng xã hội… được coi trọng hơn
2. Tác động đối với kinh tế
– Điều thấy rõ ràng nhất là Covid đã làm cho kinh tế toàn cầu vốn đang tăng trưởng chậm lại càng trở nên tiêu điều hơn. Nhiều chuyên gia cho rằng, kinh tế toàn cầu năm 2020 suy thoái là điều không cần bàn cãi nhưng liệu nó có nghiêm trọng như hoặc hơn “đại khủng hoảng” 1929-1933 hay không thì còn phải xem dịch sẽ kéo dài đến bao giờ; người ta đang lo ngại Covid sẽ bùng phát đợt hai, thậm chí còn phải chung sống lâu dài với virus này. Các ngành chế tạo, du lịch, hàng không, dịch vụ, bán lẻ toàn cầu đang ở trạng thái “tiêu điều” chưa từng thấy. Covid làm cho khoảng 35 triệu người mất việc làm, thất nghiệp tràn lan. Trước dịch, ILO dự báo năm 2020 sẽ có 35 triệu người thóat nghèo tại khu vực Đông Á-Thái Bình Dương nhưng nay Tổ chức này cho rằng sẽ có thêm 24 triệu người rơi vào cảnh nghèo trong năm nay. Covid sẽ làm cho người nghèo thêm nghèo, khoảng cách giàu nghèo càng được nới rộng. Trung Quốc, Mỹ và hầu hết các nước phát triển Âu Mỹ, Nhật Bản đều là những tâm điểm của dịch Covid; nếu nói đây là xương sông của kinh tế toàn cầu thì ở một mức độ nhất định, Covid đang làm cho cột xương sống này rệu rã đi; bản thân các quốc gia này cần có thời gian để hồi phục và tất nhiên sẽ ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế toàn cầu (những tâm điểm dịch này chiếm trên 50% GDP, sản lượng công nghiệp và thương mại toàn cầu). Covid cũng có thể làm gia tăng nguy cơ khủng hoảng tài chính toàn cầu. Nguy cơ này vốn vẫn treo lơ lửng trên bầu trời kinh tế thế giới với những khoản nợ khổng lồ, vượt xa GDP, với sự bấp bênh của các thị trường chứng khoán, khả năng trả nợ yếu đi… nay lại cộng thêm hàng chục nghìn tỉ USD của các “gói kích thích tăng trưởng” buộc phải đưa ra để chống dịch. Các gói kích thích này chỉ có tác dụng “cứu trợ khân cấp” nhưng sẽ để lại những hậu quả lâu dài, “núi nợ” sẽ cao hơn, lạm phát gia tăng, đồng tiền mất giá… và điều đáng sợ nhất trong hoạt động kinh tế có thể sẽ xảy ra: khủng hoảng tài chính toàn cầu.
– Hai nền kinh tế số 1 (Mỹ) và số 2 (Trung Quốc) toàn cầu đều chịu thiệt hại nặng nề do Covid gây ra, kinh tế Mỹ chắc chắn sẽ rơi vào suy thoái, ít nhất cũng là trong năm 2020; tăng trưởng của kinh tế Trung Quốc trên cơ sở liên tục giảm mấy năm qua, sẽ rơi xuống mức thấp nhất kể từ cải cách mở cửa (Dự báo mới nhất của WB là kinh tế Trung Quốc năm 2020 chỉ tăng ở mức 2,3% theo phương án cao và chỉ ở mức 0,1% theo phương án thấp; trước đó, IMF cho rằng, kinh tế Trung Quốc năm 2020 chỉ tăng khoảng 1,2%; nhiều dự báo cho rằng kinh tế Trung Quốc sẽ tăng trưởng âm trong quý 1/2020). Cả hai đều cần nhiều thời gian để hàn gắn những vết thương do Covid-19 để lại, trong đó có nhiều lĩnh vực phải giải quyết một cách khẩn cấp như việc làm, dân sinh, cứu trợ các xí nghiệp, ngăn chặn nguy cơ khủng hoảng tài chính, tổ chức lại chuỗi cung ứng… Quá trình này sẽ càng khó khăn phức tạp vì được thực hiện trong bối cảnh mâu thuẫn Trung Mỹ gia tăng, hai bên đều tìm cách làm khó nhau, kiềm chế lẫn nhau và tất nhiên sẽ liên lụy đến kinh tế toàn cầu
– Covid không phá vỡ nhưng tác động mạnh vào tiến trình toàn cầu hóa, làm chậm bước đi của “toàn cầu hóa”; có thể sẽ thúc đẩy quá trình chuyển toàn cầu hóa từ “toàn cầu hóa lấy Mỹ làm trung tâm” sang “Toàn cầu hóa lấy Trung Quốc làm hạt nhân”; từ “Toàn cầu hóa lấy “tiền” làm động lực sang toàn cầu hóa lấy “con người” làm mục tiêu” (Kishore Mahbubani, Nghiên cứu viên đặc cách Viện nghiên cứu Châu Á, Đại học Quốc lập Singapore). Toàn cầu hóa trở thành nội hàm trực tiếp của cạnh tranh chiến lược nước lớn, trước hết là Trung Mỹ. Các quốc gia sẽ thực hiện chính sách tham gia “toàn cầu hóa” có lựa chọn, trên nguyên tắc “lợi ích quốc gia là tối thượng” và vì vậy tuy “toàn cầu hóa” vẫn được tiếp tục nhưng sẽ gặp nhiều hạn chế, đặc biệt là từ Donal Trump với nguyên tắc “nước Mỹ trên hết” của ông ta
– Covid-19 cũng cho thấy, xây dựng và vận hành chuỗi cung ứng toàn cầu sẽ càng trở thành một tiêu điểm của cạnh tranh nước lớn và tập hợp lực lượng toàn cầu, ai khống chế được chuỗi cung ứng người đó sẽ nắm được quyền chủ động trong cạnh tranh. Qua Covid, Mỹ càng thấy rõ sự bất lợi của mình trong chuỗi cung ứng toàn cầu, từ chuỗi cung ứng y tế đến chuỗi cung ứng sản phẩm nói chung và sau dịch, Mỹ sẽ đẩy mạnh việc giành lại ưu thế của mình trong chuỗi cung ứng này. Trong tình trạng nước sôi lửa bỏng, Covid đang hoành hành tại Mỹ, Trump vẫn vội vàng đưa ra chủ trương “phục hồi kinh tế”, chính phủ Mỹ đã chi trên 2000 tỉ và FED bỏ ra 4000 tỉ USD để kích thích kinh tế; Tổng thống và nhiều nhà lãnh đạo Mỹ không ngừng kêu gọi các doanh nghiệp Mỹ từ Trung Quốc quay về Mỹ, “đưa chuỗi cung ứng trở lại Mỹ”… tất cả có lẽ đều nhằm để chuẩn bị cho cuộc cạnh tranh quyết liệt hơn giành quyền kiểm soát chuỗi cung ứng toàn cầu đang theo chiều hướng chuyển vào tay Trung Quốc..
– Các quốc gia chưa đủ sức để thiết lập chuỗi cung ứng riêng của mình sẽ phải lựa chọn tham gia chuỗi cung ứng nào và tham gia như thế nào. Covid chưa phải đã phá vỡ chuỗi cung ứng toàn cầu nhưng đã tác động sâu sắc vào chuỗi cung ứng này, thậm chí có thể tạo ra sự “đứt đoạn” trong chuỗi cung ứng ấy. Nhiều quốc gia sẽ tìm cách không quá phụ thuộc vào một trung tâm cung ứng (như Trung Quốc) và đang tính đến việc “đa nguyên hóa” chuỗi cung ứng hoặc tăng cường “tự lực cánh sinh”, tự mình tìm kiếm và chủ động tham gia sâu hơn vào chuỗi cung ứng mình lựa chọn. Chiều hướng này sẽ ảnh hưởng lớn đến xu hướng “toàn cầu hóa kinh tế” và quá trình “kết nối chiến lược” mà một số nước lớn đang thúc đẩy (đại loại như BRI, “cộng đồng chung vận mệnh”…). Ngoài chuỗi cung ứng, các chuổi sản nghiệp, chuỗi tiền vốn, chuỗi dịch vụ…cũng sẽ đóng vai trò như những “nhóm cộng sinh” mà các quốc gia đều phải tính đến khi hoạch định chính sách của mình
Hiện Covid-19 vẫn diễn biến phức tạp, khó lường, vẫn còn nhiều nhân tố chưa được xác định: Bao giờ thì dịch bệnh được dập tắt? Bao giờ thì nghiên cứu thành công vaccine Covid? Liệu Covid-II có bùng phát? Covid-19 thật sự đã tàn phá đến mức nào nền kinh tế toàn cầu? … Những nhân tố bất xác định này có thể sẽ còn tạo ra các biến số trong các dự báo về một thế giới sau Covid. Nhưng với những gi đã diễn ra, có thể có một số nhận xét sơ bộ:
– Qua Covid, trật tự thế giới cũ bộc lộ rất nhiều khiếm khuyết, nhu cầu thay đổi nó càng cấp thiết và tiến trình thay đổi nó có thể được đẩy nhanh hơn nhưng sẽ chưa dẫn đến sự thay đổi có tính chất cơ bản trật tự hiện hành trên thực tế. “Toàn cầu hóa” tuy gặp những trắc trở nhưng sẽ vẫn tiếp tục; các chuỗi sản nghiệp, chuỗi cung ứng và chuỗi gia trị gia tăng toàn cầu dù có lúc, có nơi bị tạm thời đứt đoạn nhưng vẫn được vận hành với các giá trị vốn có của nó. Kinh tế thế giới có thể suy thoái trong năm 2020 nhưng các cơ sở để phục hồi kinh tế vẫn còn nguyên, đủ khả năng đảm bảo cho sự hồi phục của kinh tế toàn cầu, dần dần sẽ trở lại quỹ đạo phát triển, có thể từ giữa hoặc cuối năm 2021. Đáng chú ý là Covid-19 sẽ thúc đẩy sự phát triển của kinh tế số, giao dịch từ xa, chính phủ điện tử…, cạnh tranh kinh tế toàn cầu chủ yếu là cạnh tranh khả năng khống chế các lĩnh vực kỹ thuật mũi nhọn, các ngành kỹ thuật mang tính chiến lược mới
– Quan hệ Trung Mỹ căng thẳng hơn, đối đầu chiến lược quyết liệt hơn và tâm điểm sẽ được chuyển sang lĩnh vực khoa học công nghệ và ý thức hệ; cuộc chiến tuyên truyền Trung Mỹ sẽ lên đến cao điểm, sẽ làm đậm thêm không khí chiến tranh lạnh trên phạm vị toàn cầu. Nhưng Trung Mỹ vẫn là cặp quan hệ quan trọng nhất, chi phối lớn nhất hệ thống quan hệ quốc tế sau Covid. Sự “thoát nhau” giữa Trung Quốc và Mỹ, nếu có cũng chỉ trong ngắn hạn; tiến trình “toàn cầu hóa kinh tế” và sự vận động tất yếu của chuỗi cung ứng toàn cầu dường như không phụ thuộc vào ý chí chính trị của bất cứ quốc gia nào và đã tạo nên một hệ thống kết nối không thể tách rời giữa các chủ thể kinh tế toàn cầu, nhất là các chủ thể chủ yếu; Trung Mỹ dù muốn cũng không thể thoát khỏi hệ thống, không thể “thoát nhau” được.
– Trung Quốc là quốc gia đầu tiên ra khỏi dịch Covid và cũng sẽ là bên đầu tiên bước vào chu kỳ phát triển mới của kinh tế toàn cầu. Với tiềm lực to lớn (chiếm khoảng 15% GDP toàn cầu, 30% tổng sản phẩm công nghiệp, 30% khối lượng mậu dịch, cống hiến 30% cho tăng trưởng kinh tế toàn cầu), Trung Quốc nhìn chung sẽ nắm ưu thế về kinh tế, vai trò của Trung Quốc trong trật tự kinh tế thế giới sau Covid vẫn được khẳng định. Nếu Trung Quốc có những điều chỉnh thích hợp, vượt qua được sự cản trở, kiềm chế của Mỹ và phương Tây, trước hết là vô hiệu hóa được cuộc vận động đòi “truy cứu trách nhiệm” của Trung Quốc liên quan đến Covid …thì nhiều khả năng Trung Quốc sẽ đóng được vai trò động lực tăng trưởng của kinh tế toàn cầu hậu Covid. Tuy nhiên, dịch Covid đã cộng hưởng với sự chống đối của Mỹ, với những khó khăn của bản thân Trung Quốc trong các vấn đề nội bộ, trong các vấn đề Hong Kong, Đài Loan, Biển Đông… sẽ càng đẩy sâu Trung Quốc vào tình trạng khó khăn nhất kể từ cải cách mở cửa đến nay. Do đó, Trung Quốc vẫn luôn phải xử lý mâu thuẫn cơ bản vốn có: giữa ý đồ bành trướng và khả năng thực hiện bành trướng; bên cạnh sự cứng rắn, ngạo mạn, đặc biệt là trên lĩnh vực tranh chấp chủ quyền, Trung Quốc luôn giành một “không gian mềm” cho sự thỏa hiệp trên một số lĩnh vực, trong những thời điểm thích hợp có lợi nhất cho lợi ích quốc gia của họ. Chính sách của các quốc gia đối với Trung Quốc cần tính đến cả hai mặt này. Tới đây, Trung Quốc vẫn hung hăng nhưng cũng phải điều chỉnh chính sách, phải tính toán thận trọng hơn trong các bước đi của họ.
– Mỹ còn nhiều khó khăn trong chống dịch, nếu đến thời điểm bầu cử (tháng 11) mà nước Mỹ vẫn chưa hoàn toàn ra khỏi dịch thì đó sẽ là một tai họa đối với Trump. Nước Mỹ khó có thể kéo lùi thời hạn bầu cử, bản thân Trump khó lấy gì để quảng cáo cho các thành tựu của ông như trước Covid. Cho dù ra khỏi dịch, Mỹ vẫn ở vào thế yếu trong ngắn hạn, càng khó dự báo về kết quả của cuộc bầu cử tới. Tuy nhiên Mỹ vẫn là nền kinh tế lớn nhất, nắm ưu thế vượt trội về kỹ thuật và quân sự, cơ bản vẫn chi phối được đồng minh và các đối tác chủ yếu, vẫn là nhân tố mang tính quyết định trong các sự vụ quốc tế. Mục tiêu của Trump là tái cử trong cuộc bầu cử tới và kiềm chế Trung Quốc, các mặt khác đều phục vụ cho hai mực tiêu này. Chưa có dấu hiệu nào cho thấy Mỹ sẽ ôn hòa hơn với Trung Quốc trong ngắn hạn, cạnh tranh Trung Mỹ vẫn là dòng chính của trật tự thế giới sau Covid và vẫn là nhân tố tác động mang tính chi phối trong hoạch định chính sách của các quốc gia. Tận dụng được các nhân tố có lợi từ cả hai phía Mỹ và Trung Quốc để tối đa hóa lợi ích quốc gia của mình sẽ là sự lựa chọn khôn ngoan của các quốc gia trong thế giới sau Covid.
– Với Việt Nam: Covid đã gây ra nhiều tổn thất, khó khăn cho Việt Nam, cần có thời gian và sự nỗ lực để hồi phục nhưng nhìn chung đối với Việt Nam, cơ hội nhiều hơn thách thức và cơ hội ngày càng lớn nếu Việt Nam nắm bắt và tận dụng được. Trước hết Việt Nam cần nhận rõ tình hình và xu hướng phát triển của thế giới và khu vực sau Covid, phân định rõ các thách thức để né tránh và các cơ hội để tìm cách tận dụng, không nắm bắt và tận dụng được, cơ hội sẽ trôi qua và khó có thể trở lại. Việt Nam đã ứng phó với tinh thần “chống dịch như chống giặc”, có nhiều biện pháp quyết liệt, hiệu quả, được thế giới đánh giá cao, cần lấy đây làm đà cho việc nâng cao uy tín, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế và động viên khí thế trong nước. Qua Covid Việt Nam cần điều chỉnh, bổ sung hoàn chỉnh chiến lược phát triển quan hệ với Mỹ, Trung Quốc và các đối tác chủ yếu khác (Nhật, Nga, Ấn, Hàn), nhất là với ASEAN cho phù hợp hơn với cục diện quốc tế sau Covid. Việt Nam cần và có thể tranh thủ đạt mức tăng trưởng cao nhất trong ASEAN sau Covid. Phát huy ưu thế của Việt Nam trên các lĩnh vực kinh tế có thế mạnh: xây dựng và vận hành tốt chuỗi cung ứng lương thực, hải sản, rau củ quả nhiệt đới; xây dựng các tập đoàn có sức cạnh tranh mạnh, có thứ bậc ở khu vực, dần dần ra thế giới (Viettel, café, sữa…). Việt Nam có thể hợp tác với các đối tác trong và ngoài khu vực để xây dựng và vận hành các chuỗi cung ứng này (như với Thái Lan, CPC trong chuỗi cung ứng lúa gạo, với Brazin trong chuỗi cung ứng café…). Việt Nam cũng cần có kế hoạch chủ động đón các dòng đầu tư mới toàn cầu sau Covid, trong đó có nguồn đầu tư chuyển đi từ Trung Quốc; cần đầu tư lớn cho phát triển cơ sở hạ tầng, đặc biệt là hệ thống cảng biển và logistic… Mặt khác Việt Nam có thể lựa chọn chuỗi cung ứng toàn cầu thích hợp, tận dụng và phát huy đầy đủ vai trò của CPTPP, VEFTA, RCEP…; nghiên cứu tham gia có lựa chọn các sáng kiến khu vực và quốc tế của Trung Quốc, Mỹ, Nhật và các đối tác chủ yếu khác; nêu cao vai trò chủ đạo trong ASEAN, phát huy vai trò của ASEAN trong tiến trình triển khai Chiến lược Ấn Độ dương-Thái Bình Dương… Nhìn chung Việt Nam có điều kiện và tiềm năng để biến “tai họa Covid” thành “cơ hội Covid”, mở ra một thời kỳ phát triển mới cho đất nước./.