Ngày 30 tháng 4 năm 1975, miền Nam hoàn toàn giải phóng. Nhưng ở hai miền vẫn tồn tại hai nhà nước với hai chính phủ, đó là Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ở miền Bắc và Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Về cơ bản, Việt Nam vẫn chưa thống nhất về mặt nhà nước.

Cán bộ chiến sĩ đón Chủ tịch Tôn Đức Thắng vào Sài Gòn ngay sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng (1975)

Tháng 11 năm 1975, đoàn đại biểu hai miền Nam – Bắc đã họp Hội nghị Hiệp thương chính trị tại thành phố Hồ Chí Minh quyết nghị “Cần hoàn thành thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đó là sự thống nhất trọn vẹn nhất”. Vì vậy, Hội nghị hiệp thương chính trị quyết định tổ chức sớm cuộc Tổng tuyển cử trên cả nước Việt Nam để bầu ra Quốc hội chung thống nhất. Cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội chung của nước Việt Nam thống nhất được tổ chức ngày 25 tháng 4 năm 1976.

Như vậy đã có một ngày tháng 4 lịch sử khác sau giải phóng đúng một năm, trên 23 triệu cử tri, với tư thế của người làm chủ đất nước đã nô nức làm nghĩa vụ công dân của mình, bầu ra 492 đại biểu quốc hội trên cả hai miền Nam Bắc.

Trong kỳ họp đầu tiên, Quốc hội khóa VI ( 24/6 – 3/7/1976), 492 đại biểu sau khi thảo luận đề nghị của Đoàn Chủ tịch kỳ họp, đã nhất trí thông qua các nghị quyết về tên nước, quốc kỳ, quốc huy, thủ đô và quốc ca của nước Việt Nam thống nhất. Quốc hội quyết định: Việt Nam là một nước độc lập, thống nhất và xã hội chủ nghĩa lấy tên là nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam; Quốc kỳ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam nền đỏ, ở giữa có ngôi sao vàng năm cánh; Quốc huy nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hình tròn, ở giữa có ngôi sao vàng năm cánh, chung quanh có bông lúa, ở dưới có nửa bánh xe răng cưa và dòng chữ “Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam”; Thủ đô nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Hà Nội; Quốc ca nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là bài Tiến quân ca.

Thời gian giờ đã lùi xa nhưng giờ đây nhìn lại, chúng ta thấy việc thống nhất đất nước về mặt nhà nước này là một quyết định chính trị mang ý nghĩa lịch sử. Đây thực sự là quyết sách sáng suốt, đúng đắn của Đảng ta có vai trò lớn lao đối với vận mệnh dân tộc Việt Nam. Tại sao lại đánh giá như vậy và tại sao phải thống nhất ngay sau khi miền Nam giải phóng chỉ một năm? Bài viết này sẽ trả lời câu hỏi lịch sử ấy.

Thứ nhất, việc thống nhất đất nước là hiện thực hoá khát vọng của toàn thể nhân dân Việt Nam. Trong suốt lịch sử dài từ phong kiến tới hiện đại, đất nước ta không ít lần bị chia cắt và được thống nhất trở lại.

Lần thứ nhất xảy ra vào thế kỷ 10, kéo dài từ năm 945 đến năm 967. Sách sử gọi thời kỳ này là thời Thập nhị sứ quân, đất nước ở trong tình trạng phân chia bởi cuộc chiến tương tàn giữa các phe phái phong kiến. Đinh Tiên Hoàng nổi lên dẹp tan lãnh chúa địa phương, đem lại thống nhất đất nước cho dân tộc vào năm 967.

Lần thứ hai vào thế kỷ thứ 16 kéo dài từ năm 1533 cho đến 1592, gọi là thời kỳ này gọi là Nam Triều – Bắc Triều. Nam Triều là thế lực do Nguyễn Kim – Trịnh Kiểm lãnh đạo mưu đồ phục hưng nhà Lê, và Bắc triều là thế lực của Mạc Đăng Dung và con cháu. Nhà Mạc diệt vọng và nhờ vậy, đất nước ta được thống nhất.

Lần chia cắt thứ ba kéo dài từ năm 1627 cho đến năm 1775. Đó là thời kỳ Trịnh Nguyễn phân tranh với Chúa Trịnh nắm quyền ở phương Bắc và Chúa Nguyễn nắm quyền ở phương Nam. Hai phe nhiều lần gây chiến với nhau và đất nước chỉ thống nhất vào đầu thập niên 1770, khi anh em Nguyễn Huệ nổi lên ở miền Nam, đánh tan cả hai thế lực Trịnh – Nguyễn, lập ra nhà Tây Sơn, tạm thống nhất đất nước vào cuối thập niên 1770. Về sau, Gia Long Nguyễn Ánh tiêu diệt Tây Sơn vào năm 1802, lập ra triều Nguyễn và hoàn thành công cuộc thống nhất hoàn toàn đất nước Việt Nam.

Lần chia cắt thứ tư diễn ra vào năm 1954 với quyết định của Hiệp định Geneve tạm chia đôi hai miền Nam Bắc Việt Nam tại vĩ tuyến 17. Mỹ đưa Ngô Đình Diệm lãnh đạo miền Nam, ngăn cản tổng tuyển cử thống nhất, đẩy nhân dân ta một lần nữa vào cuộc chiến đẫm máu kéo dài hơn 20 năm.

Ngày 15/5/1975, luật sư Nguyễn Hữu Thọ, Chủ tịch Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam đọc diễn văn mừng chiến thắng, thống nhất đất nước

Có thể nói, là một quốc gia bị chia cắt nhiều lần và liên tục phải đứng lên đấu tranh cho toàn vẹn lãnh thổ, nguyện vọng thống nhất của dân tộc ta là lớn lao. Cuộc kháng chiến chống Mỹ kéo dài với bao tổn thất cũng chỉ để đổi lấy độc lập và thống nhất, đúng như lời chúc Tết của bác Hồ năm 1968: “Tiến lên chiến sĩ đồng bào. Bắc Nam sum họp xuân nào vui hơn.” Đó chính là lời non nước của dân tộc. Vì thế, sau khi giải phóng miền Nam, quyết định thống nhất tổ quốc là thực hiện ước vọng thiêng liêng của nhân dân, ước vọng không chỉ của hai mươi năm kháng chiến mà còn là khát khao trong hàng ngàn năm lịch sử dân tộc.

Thứ hai, quyết định thống nhất nhanh chóng vào năm 1976 đã phá tan âm mưu của Mỹ nhằm tiếp tục can dự và chi phối Việt Nam. Kế hoạch này và những tính toán của Mỹ đã có từ thời điểm Hiệp định Paris được ký kết vào năm 1973.

Sau Hiệp định Paris, Mỹ đã hy vọng về một giải chính phủ liên hiệp ba thành phần ở miền Nam Việt Nam. Thành phần thứ nhất là chính phủ Cách mạng Lâm thời Miền Nam Việt Nam (Mặt trận Dân tộc Giải phóng). Thành phần thứ hai là chính phủ Nguyễn Văn Thiệu. Thành phần thứ ba là các lực lượng trung lập. Nhưng sau khi Buôn Ma Thuột thất thủ vào tháng 3 năm 1975, Mỹ nhận thấy rõ ràng kế hoạch ba thành phần với cuộc bầu cử Tổng thống công khai ở miền Nam không bao giờ còn thực hiện được nữa. Mỹ biết miền Nam sẽ được giải phóng và gấp rút điều chỉnh kế hoạch. Từ ý đồ “ba thành phần” như đúng Hiệp định Paris, Mỹ đã chỉ còn hy vọng vào một giải pháp “hai thành phần”, nghĩa là Chính phủ Cách mạng Lâm thời miền Nam Việt Nam và một thành phần trung lập do Mỹ chi phối. Mỹ muốn sử dụng lá bài Trương Đình Du, một luật sư có tiếng đã từng tranh cử với Nguyễn Văn Thiệu nhưng thất bại vào năm 1967, sau đó bị chính quyền Thiệu bỏ tù tới năm 1975 mới được thả. Trương Đình Du nổi tiếng vì lập trường hòa bình, muốn đàm phán với miền Bắc và lại có quan hệ tốt với lãnh đạo Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam. Vì thế, Mỹ rất hy vọng Du sẽ lãnh đạo thành phần trung lập sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng.

Ý đồ “hai thành phần” cũng không chỉ của Mỹ mà còn của Tổng thống Pháp Giscard d’Étaing. Ông này tin rằng sự hiện diện của Pháp ở Việt Nam sẽ tăng lên nếu miền Nam trung lập với hai thành phần là Mặt trận và lực lượng thứ ba. Pháp muốn mình có vai trò thúc đẩy giải pháp này để có ảnh hưởng tại miền Nam sau khi Mặt trận giành quyền kiểm soát về quân sự.

Bí thư thứ nhất TƯ Đảng Lê Duẩn bỏ phiếu bầu Quốc hội khóa VI tại khu phố Ba Đình, Hà Nội, tháng 4/1976.

Ngày 1 tháng 3 năm 1975, phụ tá Ngoại trưởng Mỹ đặc trách Đông Nam Á Dougles Pike (đồng thời là CIA) và Giám đốc phòng Thông tin Mỹ ở Sài Gòn (USIS) Alan Carter (nhân viên CIA cao cấp) đã gặp Trương Đình Du tại nhà riêng Alan Carter. Tại cuộc gặp này, Pike đã phác thảo một kế hoạch đầy đủ để Du tham gia Chính phủ Cách mạng lâm thời cải tổ gồm hai thành phần. Pike mời Du sang Washington tháng 4 năm 1975 để bàn cụ thể thêm nhưng những diễn biến quân sự quá nhanh ở miền Nam Việt Nam đã khiến chuyến đi này không thực hiện được. Ngày 19 tháng 4 năm 1975, Pike tới Việt Nam một lần nữa để xác nhận với Trương Đình Du về kế hoạch thúc đẩy Du tham gia một chính phủ Cách mạng có cả lực lượng thứ ba mà Du sẽ dẫn dắt.

Mỹ muốn Du tìm mọi cách tham gia được vào Chính phủ Cách mạng lâm thời cải tổ để lèo lái chính phủ này đi theo con đường “trung lập không liên kết”. Mỹ tin rằng một miền Nam “trung lập” sẽ tồn tại được một vài năm. Mỹ đã tin rằng miền Bắc không thống nhất với miền Nam trong ít nhất 5 năm nhằm tranh thủ dư luận quốc tế và tìm kiếm viện trợ. Mỹ cho rằng phe Cách mạng sẽ mở rộng chính phủ và mời một số nhân vật có tiếng tăm của lực lượng thứ ba gia nhập chính phủ này. Du được lựa chọn bởi ông này là một ứng viên sáng giá nhất với quá khứ từng chống cả Thiệu lẫn Diệm, lại có uy tín với chính giới Hoa Kỳ để có thể đàm phán xin viện trợ sau chiến tranh của Mỹ. Hơn thế, luật sư Du là bạn thân cũ của luật sư Nguyễn Hữu Thọ, ông Du cũng đã biện hộ cho ông Nguyễn Hữu Thọ và cả ông Huỳnh Tấn Phát khi hai ông này bị xét xử trong thời Pháp và thời Diệm. Với tất cả những đặc điểm có một không hai này, Mỹ tin rằng luật sư Du ít nhất cũng là “đồng minh giai đoạn” của Cách mạng.

Mỹ dự tính nếu ông Du được tham gia chính phủ thì Mỹ sẽ cung cấp viện trợ cho Việt Nam theo điều 21 Hiệp định Paris, thông qua viện trợ này gây sức ép để buộc duy trì một miền Nam “trung lập, phi liên kết”.  Mỹ nhận định rằng một số lãnh đạo của Mặt trận và người có ảnh hưởng trong lực lượng thứ ba khác chưa muốn thống nhất ngay bởi miền Nam đứng riêng với tư cách một nước trung lập sẽ được các nước lớn viện trợ, dẫn tới kinh tế phồn thịnh hơn. Không chỉ viện trợ, nếu Du được tham gia Chính phủ Cách mạng, Mỹ sẽ dễ dàng hơn trong vấn đề bình thường hóa quan hệ ngoại giao và công nhận chính phủ này.

Mỹ đã rất hy vọng một chính phủ liên hiệp với hai thành phần có Trương Đình Du có thể tồn tại được từ 5 tới 10 năm, một thời gian đủ để Mỹ gây dựng sức ảnh hưởng đối với chính phủ mới và đủ để những người từng cộng tác với Mỹ có cơ hội lựa chọn, hoặc ra nước ngoài hoặc tiếp tục sống trong lòng một thể chế mà họ đã có thời gian từ 5 tới 10 năm làm quen.

Kế hoạch bố trí cài người do Trương Đình Du lãnh đạo của CIA để thực hiện ý đồ tham gia vào chính quyền hậu giải phóng hoặc chống đối lâu dài đã thất bại. Sau ngày giải phóng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lường trước được những phức tạp có thể xảy ra trước mưu đồ của Mỹ. Quyết định có tính chất lịch sử thống nhất đất nước ngay sau giải phóng đã xáo trộn và phá hủy hoàn toàn kế hoạch của tình báo Mỹ. Có thể khẳng định, quyết định thống nhất đã làm thất bại tính toán có tính chất chiến lược của các nước lớn vào đúng thời điểm then chốt của lịch sử.

Thứ ba, sự thống nhất đất nước đã giành lại vị thế, tăng cường sức mạnh của dân tộc Việt Nam trên trường quốc tế. Kể từ khi thống nhất, sức người và tài sản quốc gia được tập trung, tiềm lực và sức mạnh quốc gia lớn mạnh, tiếng nói và vị thế của Việt Nam trên chính trường quốc tế, diễn đàn quốc tế ngày một gia tăng. Ảnh hưởng quốc tế của Việt Nam ngày nay có được chính nhờ sự độc lập và thống nhất mà các thế hệ đi trước đã phải trả bằng xương máu. Vị thế địa chính trị của chúng ta ngày hôm nay không thể có được nếu đất nước vẫn còn bị chia cắt. Quyết định lịch sử của Đảng và Quốc hội năm 1976 ấy đã tạo nền tảng cho sự phát triển của Việt Nam ngày hôm nay, tạo điều kiện để đất nước vươn lên hội nhập quốc tế như bây giờ.

Chúng ta sẽ không bao giờ quên những ngày giải phóng tháng 4 năm 1975 và cũng sẽ không bao giờ quên những ngày tháng 4 của một năm sau đó, ngày đất nước chúng ta chính thức thống nhất liền một dải từ ải Nam Quan tới mũi Cà Mau. Cờ đỏ sao vàng của Tổ quốc quyện với hình quốc huy uy nghi biểu hiện sức mạnh và sự hiên ngang của một dân tộc bách chiến bách thắng, kết tinh từ nhiều đời nhiều thế hệ đi trước. Hơn bao giờ hết và hơn lúc nào hết, thời gian càng lùi xa càng chứng minh rằng quyết định thống nhất đất nước vào năm 1976 là quyết định lịch sử sáng suốt của Đảng và Nhà nước ta./.

N.V.H

 

 

 

 

 

BÌNH LUẬN

BÀI BÌNH LUẬN KHÁC