Dọc theo con đường cái quan của Đông Dương năm 1931 (kỳ 3)

Ngô Bắc dịch

Với Minh Họa Bằng Ảnh Chụp Của Tác Giả

Lời người dịch:

Đây là bài viết đầu tiên về Việt Nam và Đông Dương trên tạp chí lừng danh thế giới, National Geographic Magazine, Tháng Tám năm 1931, chứa đựng nhiều ảnh chụp rất quý hiếm, trong đó có 33 hình đen trắng, và 28 ảnh chụp màu tự nhiên. Đó là những tấm ảnh màu tự nhiên đầu tiên về Việt Nam xuất hiện trên một tạp chí bằng Anh ngữ tại Tây Phương.

————————–

Di tích nền văn minh Chàm chỉ còn lại những ngọn tháp đổ nát

Từ cao nguyên mát lạnh, chúng tôi lượn đường trôn ốc đổ xuống con đường dốc ngoằn ngoèo đến Tháp Chàm (Tourcham), trên các đồng bằng phồng cháy dưới ánh nắng mặt trời, để tiếp tục hành trình đến Đà Nẵng (Tourane), Huế và xa hơn nữa.

Trên một ngọn đồi khô cằn, nứt nẻ phủ đầy cây mâm xôi (bramble), không xa Tháp Chàm, có một ngọn tháp được bảo tồn rất tốt của người Chàm in hình dáng màu đỏ gạch của nó lên nền trời và đặt tên cho ngôi làng bằng chính tên gọi của nó.

CÁC NGỌN THÁP BẰNG GẠCH CỦA XỨ CHÀM CỔ THÁCH ĐỐ SỰ TÀN PHÁ CỦA THỜI GIAN. Nền văn minh Chàm Mã Lai-Đa Đảo hay Champa, phát triển tại miền nam An Nam giữa các thế kỷ thứ 2 và thứ 17, để lại nhiều tượng đài tôn giáo. Đền thờ Siva Po Klaung-garai này ở Tháp Chàm (Tourcham) đã được dựng lên từ hơn 600 năm trước đây.

Dọc theo bờ biển tới Đà Nẵng có nhiều tháp bằng gạch, giờ đây ở trong tình trạng hoang phế đổ nát, là những ngọn tháp đã được dựng lên khi nền văn minh Chàm ở vào đỉnh cao quyền lực của nó.

Người Chàm, với dòng máu Mã Lai chảy trong huyết quản và sở hữu nền văn hóa Hindu, đã phát triển từ các thế kỷ đầu tiên sau Công Nguyên cho đến khi bị chinh phục hoàn toàn vào khoảng thế kỷ thứ 17 bởi áp lực nam tiến ngày càng gia tăng của người An Nam. Cũng có thời người Chàm là đối thủ đáng sợ của người Khmer.

Ngày nay chỉ còn ít nhóm người Chàm biệt lập sinh sống tại miền nam An Nam (Trung Kỳ) và miền hạ Campuchia, và khó có thể phân biệt được họ với các cư dân khác.

Tháp Chàm là nhà ga đầu mối nơi đường sắt từ Đà Lạt nối với đường ray chính của miền nam Đông Dương, chạy từ Nha Trang đến Sài Gòn và Mỹ Tho. Một phần đáng kể của chặng đường leo dốc tới Đà Lạt là đường ray răng cưa, các dặm cuối cùng của nó hiện đang được xây dựng.

Người Pháp dự định hoàn thành tuyến đường ray dài 330 dặm nối Nha Trang và Đà Nẵng trong một khoảng thời gian ngắn. Khi đó các hệ thống bắc và nam sẽ được nối liền, sao cho sẽ có một dịch vụ thống nhất từ Mỹ Tho và Sài Gòn chạy dọc bờ biển, qua Hà Nội, đến Na Cham, tại biên giới Trung Hoa, và đến Vân Nam, thuộc Trung Hoa. Hiện tại, một chiếc xe buýt bưu điện của chính phủ hoạt động trên khoảng trống này của đường ray xe lửa.

Chúng tôi tăng tốc độ trên con đường ven biển, đi qua những đồng lúa, những khóm dừa, và các tháp Chàm.

Ngay bên ngoài Nha Trang, một chiếc cầu dài vắt ngang qua cửa vịnh dưới chân một ngọn đồi mà trên đỉnh có một tháp Chàm khác. Từ cao điểm này, người ta có được một cái nhìn toàn cảnh Vịnh Nha Trang với rất nhiều thuyền đánh cá bập bềnh trên mặt nước xao động. Xa hơn đó một chút, các ngọn núi của rặng An Nam [Trường Sơn] nối dài ra biển và tạo thành Mũi Varella (Mũi Diều) xinh đẹp.

Khi chiếc xe của chúng tôi leo lên đoạn đường ngoằn ngoèo cao hơn bờ biển, chúng tôi đã được ngắm nhìn quang cảnh hùng vĩ của các khúc lõm vĩ đại của biển, nơi những ngọn đồi mặc áo xanh đột nhiên mọc lên từ mặt nước xanh thẫm.

Trên một trong các đỉnh cao nhất của mũi đất hiện ra một tảng đá khổng lồ, trông giống như một tháp Chàm vĩ đại, có thể được nhìn thấy cách xa hàng dặm từ mọi hướng. Bởi vị trí độc đáo này, đã có nhiều truyền thuyết về nó. Nhìn từ một góc cạnh nào đó, nó có hình dáng như một người mẹ đang bồng con trong vòng tay. Người Mọi sẽ nói cho bạn hay rằng đây là vợ của một vị thần vĩ đại, người đã biến bạn đời của mình thành hòn đá bởi bà ta đã lừa dối ông. Do đó, bà đã vĩnh viễn đứng trên núi cao như một lời cảnh tỉnh cho các phụ nữ khác. Huyền thoại này đã được các nhà vẽ bản đồ người Pháp lưu giữ, họ đặt tên cho phần này của rặng núi là “Núi Mẹ và Con”.

Trên đường tới Đà Nẵng, chúng tôi đã dừng chân nghỉ đêm tại Tuy Hòa, và một lần nữa tại Quảng Ngãi, trong những căn nhà thấp (bungalow) đẹp đẽ mà chính phủ Pháp đã gìn giữ thật hoàn hảo ở đây và tại nhiều thị trấn nhỏ khác ở Đông Dương.

Vừa vượt quá làng chài Sông Cầu với những khóm dừa nằm rải rác, bờ biển bằng phẳng được đắp đê thành các ruộng muối rộng lớn để nước biển bốc hơi. Gần Qui Nhơn, nhiều tượng đài Chàm trên các ngọn đồi bao quanh mọc lên như những vọng gác trên các đồng bằng được canh tác tốt, được điểm xuyết bằng những ngôi làng An Nam đông đúc xây bằng các khung tre, tường trát bùn, và mái cỏ tranh.

XE HƠI NHANH CHÓNG THAY THẾ SỰ CHUYÊN CHỞ BẰNG VOI. Một nhóm dân Campuchia đang trở về nhà sau lễ hội bằng một phương tiện lâu đời. Tuy nhiên, với sự gia tăng đáng ngạc nhiên các đường lộ tốt tại Đông Dương thuộc Pháp, nhiều người giờ đây đi lại bằng xe buýt.

Những chiếc xe hơi cắt đuôi ma quỷ đeo bám khách bộ hành

“Đường lộ thì tuyệt hảo, nhưng ngổn ngang súc vật và con người”, một cuốn sách mỏng của Pháp nhận xét chính xác về vùng này của An Nam, bởi tất cả những người An Nam, rồi chó và trâu, luôn luôn di chuyển. Mọi người với đòn gánh vắt ngang vai, đang đi ra chợ hoặc ra đồng.

Không có cảnh xin đi nhờ xe (quá giang) tại An Nam, bởi vì mọi người đều dạt về phía lề đường khi có một chiếc xe đang tiến tới — đúng thế, tất cả mọi người. Đôi khi một người già An Nam mê tín, tin rằng một hồn ma ác độc đang đeo bám mình, lý luận rằng nếu ông ta chạy ngang qua lối đi của chiếc xe hơi vào phút chót, con ma sẽ bị đụng và khi đó ông ta sẽ được giải thoát khỏi kẻ ám hại. Người ta dễ bị đoán sai tốc độ của một cỗ máy đang phóng tới; do đó có nguy cơ chiếc xe không chỉ đâm vào con ma, mà còn đâm cả vào đuôi áo đang tung bay.

Trong nhóm người An Nam đi chợ, không có màu sắc như người ta nhìn thấy tại Campuchia. Gần như tất cả mọi người đều mặc áo dài đen, quần trắng hoặc đen, đội trên đầu những chiếc nón rộng vành hình nấm làm bằng lá cọ, che mưa nắng đều tốt. Tại các ngôi chợ, chúng khiến ta liên tưởng đến một mái che bằng tranh chắc chắn cho những người đang tụ họp để mua bán, trao đổi.

Đà Nẵng là hải cảng chính yếu của trung phần Trung Kỳ. Năm 1858, chính tại địa điểm trọng yếu này, người Pháp đã chĩa súng khi nạn đàn áp các tín đồ Thiên Chúa Giáo xảy ra ở An Nam. Đà Nẵng là một thành phố tự quản, bởi nó là một trong các khu nhượng địa mà Vua Gia Long [sic] giao cho Pháp.

Cách phía nam vài dặm là thành phố Faifoo (Hội An) của người Hoa, nơi hoạt động chuyên chở bằng tàu khá nhộn nhịp. Đã có thời một khu định cư Nhật Bản hiện hữu nơi đây.

Các du khách cũng chú ý đến Ngũ Hành Sơn (Marble Mountains), cách Đà Nẵng ít dặm, nơi các nhà sư An Nam đã biến cải một số hang động thành tu viện.

CÁC VÒM HANG ĐỘNG TẠO THÀNH NHỮNG NGÔI CHÙA THIÊN NHIÊN. Các hang động tại Ngũ Hành Sơn, gần Đã Nẵng, giờ đây là thánh địa cho các cuộc hành hương Phật Giáo, đã từng được dùng làm các đền thờ Ấn Độ Giáo trong thời đại người Chàm. Cấu trúc giống như ngôi chùa bên tay trái cao khoảng 10 bộ Anh.

Từ Đà nẵng, trạm dừng chân kế tiếp của chúng tôi là Huế, trung tâm sinh hoạt của An Nam. Giữa hai thành phố này, các ngọn núi đâm ra biển tạo thành Đèo Hải Vân (Col des Nuages, Pass of the Clouds), thành quả tuyệt đỉnh của thiên nhiên bên bờ biển Trung Kỳ. Tại đỉnh đèo có một đồn An Nam cũ, từ đó người ta có thể nhìn lại đường cong vĩ đại của Vịnh Đà Nẵng, trong khi nhìn về hướng kia là bờ biển dài và núi đồi dốc đứng. Ở một cao độ thấp hơn nhiều so với con đường màu vàng bao quanh các ngọn đồi phủ lá xanh, người ta có thể nhìn thấy đường ray xâm nhập vào đỉnh đèo qua vài đường hầm.

Khi chúng tôi đi xuống từ ngọn đèo, mặt trời trượt dưới các đỉnh núi và biến biển và mây thành một bài thơ màu sắc. Thiên nhiên thật trác tuyệt trong việc vẽ lại một bức tranh vốn đã sẵn đẹp đẽ.

DINH TOÀN QUYỀN TẠI SÀI GÒN. Mặc dù trung tâm hành chính của Đông Dương thuộc Pháp đã được chuyển từ Sài Gòn ra Hà Nội vào năm 1902, viên Toàn Quyền vẫn trú ngụ ở đây mỗi năm vài tháng mỗi năm.

Hai vương quốc thống nhất dưới ngọc trượng của vua Gia Long

Huế là kinh đô của An Nam xưa. Thời hiện đại của nó bắt đầu từ năm 1803 khi Nguyễn Ánh, một hoàng tử An Nam trẻ tuổi, sau này trở thành Hoàng Đế Gia Long, đã chiến thắng trên con đường tới ngai vàng An Nam với sự giúp đỡ của Giám mục địa phận Adran và một nhóm nhỏ các tay phiêu lưu người Pháp mà ông đã gặp tại Bangkok.

Cũng nhờ nỗ lực của Gia Long, các vương quốc Tonkin (Đàng Ngoài) và An Nam (Đàng Trong), trước đây đã bị phân chia do sự tranh giành trong gia tộc cầm quyền, một lần nữa được thống nhất dưới ngọc trượng của ông; nhưng lịch sử kế tiếp bị nhuộm đỏ bằng máu của sự đàn áp và chiến tranh.

NHỮNG CHIẾC ĐỈNH ĐỒNG VĨ ĐẠI TƯỞNG NHỚ CÁC VUA CHÚA CỦA HUẾ. Ở mặt ngoài của chín chiếc đỉnh tượng trưng cho triều đại này, được đúc vào năm 1838, là các biểu tượng liên quan đến các tập quán có từ thời nhà Hạ, Trung Hoa, 4000 năm trước đây. Chiếc đỉnh đứng lẻ hàng tượng trưng cho vua Gia Long, là người sáng lập triều Nguyễn.

Kể từ năm 1885, nước Pháp đã nắm giữ chế độ Bảo hộ trên Trung Kỳ và Bắc Kỳ.

Thành phố Huế tọa lạc cách biển một vài dặm, nằm bên bờ của dòng sông Hương uốn khúc – tên gọi này xuất phát từ những cây nở hoa có mùi thơm dịu ngọt dọc bờ sông.

Khu người An Nam của thành phố, với tòa thành có tường bao quanh, nằm một bên của con sông, còn dinh Trú Sứ (Residency) và khu người Pháp nằm ở bên đối diện.

Bên trong những bức tường thành trổ lỗ châu mai cổ xưa là các cung điện, các phòng của nhà vua, và các miếu thờ tổ tiên nơi đặt bàn thờ những vị vua đã mất. Tại một khu vườn có những chiếc đỉnh đồng khổng lồ được đúc một cách khéo léo. Những cây hoa đại và cây muồng hoa đào hồng thắm ngổn ngang nở rộ dọc theo các lối đi và tại các khu vườn rộng mở. Các cung điện có thiết kế kiến trúc kiểu Trung Hoa, được trang trí bằng sơn mài màu đỏ và vàng. Bên trong cung điện cũng chứa nhiều các sản phẩm khảm trai.

Lăng Khải Định ở Huế đem lại cho du khách một điểm giao hòa đẹp đẽ của những gì có tính chất An Nam.

Cách thị trấn không xa, trên các đồi nhỏ trồng cây, là các ngôi mộ tráng lệ của những vị vua băng hà, một số lăng rộng đến vài mẫu. Lăng của Khải Định, được xây dựng bằng xi măng và cẩm thạch, là lăng kiêu kỳ nhất cho đến nay. Một số nhà vua dành phần lớn đời mình để giám thị việc xây cất những nơi an nghỉ cầu kỳ của họ, vốn được thiết kế phù hợp với các tập quán và nghi lễ cổ xưa.

CÁC NHÀ VUA QUÁ CỐ CỦA AN NAM AN NGHỈ TẠI CÁC LĂNG TẨM CẦU KỲ Ở HUẾ. Hoàng Đế Khải Định, băng hà năm 1925, đã mất vài năm để giám sát việc xây dựng lăng tẩm nguy nga này. Một bậc thang dài dẫn lên tầng có các hàng tượng quan lại và ngựa bằng đá đứng chầu. Ngôi đình trung tâm có một tấm bia thuật lại các công việc của ông, trong khi ở phía sau, mọc lên một khối lăng tẩm đồ sộ.

Một buổi chiều, trên đường quay trở về từ các lăng mộ, chúng tôi gặp một nhóm nữ sinh mặc áo dài tím đang đi picnic. Sau khi chúng tôi thuyết phục mãi, họ đồng ý cho chụp ảnh, như một lời chào thân thiện tới các nữ sinh Mỹ và các nước khác, những người có thể nhìn thấy ảnh chụp màu của họ trên tạp chí National Geographic.

CÁC NỮ SINH ĐANG VUI VẺ ĐI DÃ NGOẠI. Như một lời chào thân thiện gửi tới độc giả tạp chí National Geographic, các nữ sinh này của một trường học ở Huế đã đồng ý cho phép chụp một bức ảnh.

An Nam chịu ảnh hưởng của Trung Hoa ngay từ thế kỷ thứ nhì trước Công nguyên và còn nằm dưới bóng Trung Hoa gần như liên tục cho đến năm 1428 [sic], khi nó thoát ra khỏi sự cai trị của nhà Minh, nhưng sau đó vẫn gửi lễ vật triều cống cho đến tận thời vua Mãn Thanh. Bởi nằm dưới quyền chủ tể lâu dài của Trung Hoa, các nhà lãnh đạo của An Nam bị Kinh Lễ (Book of Rites) [sic] chi phối mọi hoạt động, và bao quanh họ là hệ thống bá quan văn võ mô phỏng theo triều đình Trung Hoa.

Trên một khoảng đất trống bên ngoài Huế, như từng được thực hiện tại Bắc Kinh, Hoàng đế cứ ba năm một lần lại cử hành các buổi lễ tế Trời và Đất với sự trợ giúp của quan lại.

Chuyến đi của chúng tôi tới Huế trùng hợp với cuộc thăm viếng của Quốc Vương và Hoàng Hậu nước Xiêm La. Trong suốt cuộc thăm viếng, họ đã được tiếp đón tại hoàng cung. Do vị Hoàng Đế trẻ tuổi Bảo Đại vắng mặt vì đang du học tại Pháp, Hoàng Thái Hậu đã đón tiếp họ. Đó là một cuộc đón tiếp với phép xã giao và nghi lễ giống như tại hoàng triều Bắc Kinh trước khi nó sụp đổ vào năm 1911.

Nhờ sự tử tế của Thượng Thư Bộ Lễ, tôi đã chụp được ảnh màu một số võ quan và văn quan mặc y phục thêu lộng lẫy và các đôi hia cao cổ có đầu mũi uốn cong, gợi nhớ đến trang phục của giới quan chức nhà Minh.

CÁC VĂN QUAN VÀ VÕ QUAN PHỤC VỤ TRIỀU ĐÌNH. Trang phục bằng lụa thêu hoa văn của các nhà quý tộc này làm gợi nhớ đến thời trị vì của nhà Minh, khi ảnh hưởng của Trung Hoa ở mức độ lớn nhất tại An Nam. Nhân vật đứng bên trái được xác định là một quan văn bởi chiếc mũ học giả có cánh chuồn, trong khi những người ở bên phải là các võ quan. Một bên thì thông thạo kinh điển, bên kia thông thạo binh pháp.

 

CÁC TU SĨ PHẬT GIÁO CẦU NGUYỆN KHI HỌ TIẾN VÀO ĐIỆN THỜ CỒ ĐÀM. Có vài ngôi chùa tại Huế, nơi các tín đồ của Đức Phật có thể lui tới để suy niệm về sự vô biên trong cuộc dõi tìm Cõi Niết Bàn. Một nhà sư và hai đệ tử.

Một vị công chúa đãi trà

Kỷ niệm thích thú nhất trong cuộc thăm viếng của tôi tại Huế là sự đón tiếp chúng tôi tại cung điện của một vị công chúa có người cha và người anh đều từng ngự trên ngôi vua.

Một hôm, tôi đã chụp ảnh màu của bà trong trang phục chính thức, và ngày hôm sau, đã trở lại để trình cho bà kết quả (xem ảnh dưới). Khi việc chụp ảnh đã xong xuôi tại sân trong, chúng tôi được mời uống trà An Nam, cùng với những món đồ ngọt và bánh ngọt rất lạ miệng.

Theo đề nghị của chúng tôi, cô con gái của công chúa, một thiếu nữ xinh đẹp ở tuổi mười lăm, đã bằng lòng trình diễn cho chúng tôi một tiết mục đàn dây An Nam. Cô bé sau đó được phụ họa bởi người thày dạy nhạc lớn tuổi bị mù và một vài người khác với nhiều loại đàn dây khác nhau, trong khi những người đồng diễn trẻ tuổi hát các bài hát An Nam.

Trong suốt buổi trình diễn ca nhạc không chính thức, công chúa quan sát sự chú ý của chúng tôi từ chỗ ngồi được kê nệm trên một chiếc ghế lớn khảm xà cừ. Đằng sau bà, các thiếu nữ liên tục phe phẩy chầm chậm những chiếc quạt lông lớn.

KIẾN TRÚC AN NAM ĐI THEO THIẾT KẾ TRUNG HOA TRUYỀN THỐNG. Bởi An Nam đã tiếp xúc với ảnh hưởng Trung Hoa trong hơn 23 thế kỷ, nhiều thời bị kiềm chế như một nước chư hầu, sinh hoạt và nghi lễ triều đình của nó chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của Trung Hoa, y như kiến trúc của chiếc cổng này dẫn đến các Hoàng Cung tại Huế.

 

MỘT CÔNG CHÚA HOÀNG TỘC TẠI HUẾ. Từng thước vải màu xanh khổ một phân Anh quấn quanh đầu bà tạo thành một chiếc mũ rộng, phẳng. Bà có quyền đội khăn màu vàng của hoàng gia bởi cả cha và anh của bà đã lên ngôi vua An Nam.

 

CON GÁI HOÀNG TỘC AN NAM

Tôi cần phải kể đến một hoàng tử trẻ tuổi và vợ của ông ta, nhờ họ mà tôi đã có thể ngắm nhìn sự quyến rũ và màu sắc của Huế xưa. Hoàng gia vẫn sống tại Huế, mặc dù giới thẩm quyền Pháp có thể đứng một cách không mấy che đậy ở hậu trường.

Một buổi sớm mai, chúng tôi rời Huế đi Hà Nội, thủ đô của xứ Bắc Kỳ và trung tâm hành chính của toàn thể Dông Dương.

NƠI ÁO TƠI LÀ THỜI TRANG. Các trang phục này không chỉ để che mưa, mà còn được dùng để bảo vệ người mang nó khỏi các cơn gió mùa hè nóng bức đôi khi quét khắp các đồng bằng ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ. Một cảnh chợ ở Hà Nội.

 

PHỤ NỮ MỌI NGHỈ NGƠI KHI TỰA GÙI CỦI TRÊN GẬY CHỐNG. Cả đàn ông lẫn đàn bà của bộ lạc đều quen với việc gùi nặng sau lưng. Họ đi một quãng rồi lại tựa gùi trên chiếc gậy hình chữ T để nghỉ một lát, và sau đó lại rảo bước tiếp.

 

MỘT CÔNG NHÂN LÀM 24 GIỜ MỘT NGÀY VỚI TIẾNG KẼO KẸT VÀ GẦM GỪ KHI LÀM VIỆC. Mười một bánh xe vĩ đại tạo thành guồng nước này được làm hoàn toàn bằng tre buộc vào với nhau. Nhiều bánh xe hợp lại như thế được ráp vào con sông gần Quảng Ngãi để tưới nước cho vùng đất cát bị mặt trời thiêu đốt.

 

PHẦN NÓC CỦA MỘT HỆ THỐNG TƯỚI NƯỚC THÔ SƠ NHƯNG HỮU HIỆU. Một cái nhìn cận cảnh những chiếc guồng nước trong hình bên trên. Các ống tre đổ nước sông vào các máng nối liền nhau, từ đó nó được chuyển đến một đường dẫn chính (bên trái phía trước) để phân phối đến các cánh đồng. Các lối đi hẹp cho phép các công nhân vươn đến được các bánh xe khi cần sửa chữa.

 

THIÊN NHIÊN ĐÃ CHƠI TRÒ NGHỊCH NGỢM KỲ LẠ TẠI VỊNH HẠ LONG. Vô số những tảng đá mọc lên một cách kỳ quái và những đảo tí hon chấm phá mặt nước của vịnh, khiến nó trở thành một trong những điểm huyền hoặc nhất thế giới. Hòn Gai, một phần của nó có thể được nhìn thấy ở tiền cảnh, là một làng chài phát đạt và một hải cảng quan trọng vận chuyển than đá Bắc Kỳ.

 

HÀNG TRĂM NGƯỜI DÂN AN NAM ĐỘI NÓN HÌNH NẤM TỪ VÙNG QUÊ ĐẾN TỤ HỌP ĐỂ MUA BÁN, TRAO ĐỔI TẠI MỘT CHỢ BUỔI SÁNG

 

CÁC NÔNG DÂN AN NAM ĐÃ SÁNG CHẾ RA MỘT CÁCH TƯỚI TIÊU TÂN KỲ. Vận dụng các rổ tre đan với các sợi dây thừng được buộc cả bên trên lẫn bên dưới, họ múc nước từ sông và trút rổ nước vào các luồng tưới tiêu bằng những động tác nhịp nhàng, khéo léo. Không có sự chậm chạp, bởi để phương pháp này thành công, các nông dân phải phối hợp ăn ý.

 

NGÔI LÀNG CỦA NHỮNG NGƯỜI NÀY NẰM TRÊN CÁC ĐỒI BẮC KỲ GẦN LẠNG SƠN

 

DÂN BỘ LẠC MỌI DỰNG NHÀ BẰNG TRANH VÀ TRE. Các ngôi nhà dài, mái thấp thì không có cửa sổ, và chỉ có một cửa ra vào duy nhất, qua đó người ta phải cúi đầu xuống để vào nhà. Một cột trừ tà cao, được trang trí bằng các dải lá tre, dựng ở phía bên phải.

 

BẢY TRĂM PHÂN (ANH) VUÔNG LÁ DỪA LÀM THÀNH CHIẾC NÓN AN NAM

 

HỌ PHỤC VỤ TẠI TRIỀU ĐÌNH CỦA BẢO ĐẠI, HOÀNG ĐẾ AN NAM. Phần lớn công việc thường lệ của các văn phòng Chính Phủ được thực hiện bởi một lực lượng thư ký, tất cả đều mặc áo dài đen, quần trắng, và đội khăn. Nhiều người trong số họ có cấp bậc quan lại, một đặc điểm được nhận biết qua chiếc thẻ ngà voi đeo trước ngực.

 

CHIẾC NÓN BẮC KỲ CỦA BÀ TA LÀM THÀNH MỘT DÙ CHE TỐT. Chiếc nón đội đầu tỏa rộng thường làm bằng lá dừa và tre, và phải được buộc thắt chắc chắn ở cả bên phải và bên trái, để giữ phần chóp nón thoải mái của nó tựa lên trên đầu quấn khăn.

 

CÁC MỎ THAN CUNG CẤP VIỆC LÀM CHO 30.000 CÔNG NHÂN. Đông Dương sản xuất hàng năm gần 2.000.000 tấn than đá, phần lớn đến từ các mỏ lộ thiên rộng lớn tại vùng lân cận Vịnh Hạ Long. Các bậc thang than đá lộ thiên tại Hà Tu (Hatou), cách Hòn Gai (Hongay) ít dặm Anh.

 

NHỮNG CHIẾC THUYỀN BUỒM ĐÁNH CÁ CHẠY ĐUA TRƯỚC CƠN GIÓ NHẸ. Hàng trăm chiếc thuyền bản xứ ngoạn mục, trang bị bằng cả dây và lưới câu, hàng ngày lướt sóng tại Vịnh Hạ Long để đi tìm những đàn cá.

 

NHỮNG THỢ CHẠM KHẮC GỖ Ở ĐỒNG HỚI LÀ CÁC NGHỆ NHÂN LÃO LUYỆN. Mặc dù xưởng làm việc của họ chỉ là một chái không cửa và phần lớn dụng cụ do họ làm lấy, các nghệ nhân này sản xuất ra các sản phẩm chạm trổ tuyệt hảo với thiết kế tinh xảo và cầu kỳ.

BÌNH LUẬN

BÀI VIẾT LIÊN QUAN