Đông Dương quanh co (Kỳ 1: Hà Nội và các vùng lân cận)

Cách đây gần 100 năm, tiểu thuyết gia người Pháp Pierre Billotey đã có loạt bài du ký về Việt Nam với tựa đề “Đông Dương quanh co”, được đăng trên các số tạp chí Les annales – politiques et littéraires (Biên niên sử – Chính trị và Văn học) năm 1928. Dưới ngòi bút của tác giả, Đông Dương hiện ra như tấm gương phản chiếu vẻ đẹp đầy cuốn hút giữa lòng Viễn Đông huyền bí. Tạp chí Phương Đông xin trích dịch và giới thiệu một số phần để độc giả cùng mường tượng lại những nét đẹp vừa thân quen lại vừa lạ lẫm ở các vùng miền trên đất nước ta thuở xưa.

1. Thành phố và triều đình

Là ai đã vẽ nên màu sắc tuyệt diệu ở Hồ Gươm, sắc độ chính xác của màu xanh lá Véronèse? Người ta truyền tai nhau rằng có vị họa sĩ nào đó đã rửa những chiếc cọ vẽ của mình nơi đây…

Trước hết, vẻ quyến rũ của mặt hồ lấp lánh như gương này làm người ta thích thú. Cùng những bãi cỏ, hàng cây và các con phố bao quanh, đây chính là nơi đẹp nhất Hà Nội. Tại đây có một góc đặc biệt thật sự dễ khiến lòng ta rung động. Dưới bóng cây râm mát, tại góc giao của hai con đường nhộn nhịp, các cô hàng hoa tụ họp với những chiếc giỏ đầy ắp bó hoa đủ sắc màu. Phía sau họ, băng qua thảm cỏ, dưới những tán cây cao và những thân cây đen sẫm, ta thấy thấp thoáng mặt nước sáng rực của Hồ Gươm.

Giữa lòng hồ, phản chiếu trên mặt nước là ngôi tháp bát giác nhỏ xinh. Nơi khác, trên một hòn đảo, hai ngôi đền với tường trắng mái đỏ cùng đứng dựa bên nhau. Đây là ngôi đền khiêm tốn, thật vậy, nhưng cũng là nơi thiêng liêng cảm động và thân thương nhất của Hà Nội. Tôi đi theo con đường lát đá dẫn tới đó, đi qua cổng tam quan tên “Đài Nghiên”, rồi bước qua một cây cầu cong bằng gỗ. Khi bước vào ngôi đền đầu tiên, qua làn khói hương mờ ảo, tôi nhìn thấy một cô gái trẻ đang quỳ trước bàn thờ. Cô nhanh tay xoay một chiếc ống nhỏ đựng những thẻ dài lách cách va vào nhau. Khi đã lắc đều, cô rút ra hai thẻ, chọn ngẫu nhiên, rồi đọc các ký tự khắc trên đó – lời khuyên chỉ dẫn cô cầu nguyện điều gì thì Phật ưng thuận nhất. Ở các gian phòng bên cạnh, những người An Nam đang tô màu tranh vẽ, số khác đang nghiêm túc chép lại những trang văn kinh điển. Bởi đây chính là ngôi đền cho giới nho sĩ, nơi thờ thần Văn Xương – vị thần chủ quản văn chương.

Đi qua hòn đảo này, ở đầu rộng hơn, không còn nhìn thấy chỉ toàn là nước nữa, mà giờ đây mặt hồ đã biến thành cánh đồng khổng lồ đầy những lá sen. Có chiếc lá vươn cao trên những cuống dài, căng rộng như chiếc lọng xanh che mát toàn bộ không gian phía dưới.

Cầu Thê Húc dẫn vào Đền Ngọc Sơn ở Hồ Gươm đầu thế kỷ XX. Ảnh: Léon Busy (1874-1951)

Xung quanh hồ Gươm này, hai khu vực – một của người Pháp, một của người bản xứ – hòa vào nhau tạo thành Hà Nội. Khu của người Pháp được xây theo ô bàn cờ, với những đại lộ dài đến hai cây số, hai bên đường là các biệt thự và công sở hành chính, là nơi ở của các công chức. Do đó, không mấy ngạc nhiên khi nó có phần trầm lặng đến vậy.

Nhưng còn một khu khác nữa, khu của người An Nam. Trong mê cung tấp nập đó, tôi đã bao lần lạc lối! Làm sao có thể định hướng nổi trong những con phố rối rắm, gần như giống hệt nhau thế này? Tên phố giống như ở nước Pháp thời Trung Cổ, lúc thì gợi nhớ đến ngành nghề buôn bán, lúc lại cho biết nguồn gốc dân cư: phố Hàng Gai, Hàng Đào, Hàng Gạo, Hàng Vải, Hàng Chén, phố Quảng Đông… và hàng trăm tên khác nữa.

Hai bên đường toàn là cửa hàng, hẹp và sâu hun hút, đôi khi còn là xưởng thủ công nơi những người thợ ngồi xổm thêu trên khung, cắt vải, làm đồ da, gò bạc hay đồng, vàng hoặc thiếc. Thiếc ấy à! Tôi đã thật sự kinh ngạc khi thấy chỉ trong 50 gian hàng của cùng một con hẻm, người ta có thể tạo ra đủ loại đồ bằng thứ kim loại lấy từ vỏ đồ hộp và thùng dầu cũ, đúng là tay nghề tài tình của thợ thuyền xứ Bắc.

Ở nơi khác, bạn sẽ chiêm ngưỡng những món hàng có giá trị nghệ thuật cao hơn: lụa xứ Bắc Kỳ, khay đồng, lư hương và bình bằng đồng khảm. Lại còn có cả những món đồ chơi làm bằng giấy, nhìn rất buồn cười; những hộp sơn mài đỏ và vàng, đồ sứ, rương gỗ, guốc mộc. Nếu trong số đó chẳng có gì khiến bạn hứng thú, xin hãy kiên nhẫn. Này, bạn nghĩ sao về dãy phố có từ 10 đến 12 cửa tiệm đẹp đẽ nối tiếp nhau không ngừng nghỉ, mà lại toàn bán… quan tài?

Dòng người dày đặc chen chúc trên đường, vội vã xuôi ngược tứ phía. Ở đây, người ta tự kéo xe chứ không dùng tới ngựa. Họ kéo những chiếc xe chất đầy vật liệu xây dựng, bao tải lương thực, hàng hóa. Trên vỉa hè, ở khắp nơi, la liệt những người bán hàng rong. Trên chiếc bàn nhỏ, hoặc trên những chiếc xe đẩy bé xíu, họ bày ra đủ món hàng li ti trong cái đĩa con con: mẩu quả hạch lạ lạ, mảnh lá cây, miếng cam, khúc mía, hoặc vài giọt trà nhạt rót vào những chiếc tách nhỏ như đồ chơi búp bê. Và người qua đường dừng lại, uống hoặc nhấm nhấp thức quà đó. Thực ra bạn sẽ bắt gặp cảnh tượng này ở bất cứ ngôi làng nào, vào bất kỳ giờ nào trong ngày. Dường như cả dân tộc An Nam đang dự một bữa tiệc trà nhỏ xíu không hồi kết.

Những người phụ nữ lặng lẽ bước đi, trên vai là chiếc đòn gánh bằng tre, hai đầu treo hai chiếc thúng tròn. Hiếm khi nào bạn bắt gặp một chiếc ô tô, càng hiếm hơn nữa là người Pháp. Một vài chiếc xe kéo đẩy những người bản xứ, hai, thậm chí ba người ngồi chèn lên nhau. Người kéo xe trông đến là thương.

Ngoài những người dân khiêm nhường ấy – những người trông cửa hàng, người len lỏi ngoài đường phố – vốn là tầng lớp lao động, nơi đây cũng không thiếu những tay buôn lớn, những thương gia bản xứ đầy thực lực, giàu có, học vấn tinh tế, vừa là thương nhân vừa là quan lại.

Một góc khu phố của người bản xứ ở Hà Nội những năm 1920. Nguồn: Tạp chí Les annales – politiques et littéraires số 2313 xuất bản tháng 7/1928

Một lần nọ, tôi vào thăm nhà một người như thế – một bậc thầy nổi tiếng trong nghề thêu – tôi để ý thấy phía sau cửa tiệm, cuối khoảng sân nhỏ, có những người đàn ông nghiêm trang, vận lễ phục, đang dùng bữa, ngồi bốn người một bàn trước bàn thờ tổ tiên đồ sộ. Ở giữa sân, một dây pháo đỏ dài chấm đất treo lủng lẳng. Tôi tưởng đó chỉ là vật trang trí. Nhưng bất ngờ, nó bắt đầu lóe lên những tia lửa rồi nổ rền vang dữ dội. Người ta vừa châm lửa ở phía dưới dây pháo – nó réo rắt vang trời, những tiếng nổ nhanh, ngắn, nối nhau liên hồi. Khi ngọn lửa bốc lên và tia lửa tung tóe, từng ống pháo nhỏ nổ tung, rơi lả tả như cánh hoa đỏ rực giữa cơn giông tố – rồi trải đầy mặt đất, phủ kín cả sân.

Chủ nhà nhận ra vẻ ngạc nhiên của tôi. Ông mỉm cười, cúi chào:

– Bởi vì, ông nói tiếp, tôi đang tổ chức tiệc mừng cưới cho con gái mình.

Tôi đưa mắt tìm cô dâu trong đám đông.

– Anh sẽ không thấy nó đâu, ông nói thêm, hôm nay mới là ngày đầu tiên của lễ cưới và cô dâu sẽ chỉ xuất hiện vào ngày thứ sáu. Những ngày trước đó, cùng với chồng, nó sẽ đến từng nhà của gia đình hai bên để hỏi thăm rồi khấn bái tổ tiên.

Sau đó, ông giới thiệu tôi với cha ông – một vị quan quản lý sáu làng – người đang chủ trì buổi lễ.

Ngành thủ công đẹp đẽ nhất của Hà Nội và các vùng lân cận, theo tôi, chính là nghề tơ lụa.

Tơ lụa ở Bắc Kỳ có một điểm đặc biệt: hoàn toàn làm bằng tơ nguyên chất. Khách phương xa sẽ thấy bất ngờ và thích thú khi chạm tay vào những tấm lụa ấy – những thứ mà ở châu Âu gần như đã không còn bởi sự phát triển của khoa học và chính sách thuế quan.

Khi các cô gái trẻ phương Tây đặt chân tới đây, chẳng mấy chốc họ sẽ phải xem lại từng chiếc váy mình mang theo – những chiếc váy xinh xắn nhưng nặng nề vì lớp hồ hóa học hơn là vì lụa thật. Ở mỗi nếp gấp, họ phát hiện ra những đường rách. Các quý cô hốt hoảng, rồi than vãn. Về sau, họ sẽ lại khó chịu vì tơ lụa xứ Bắc Kỳ – chất liệu gần như không thể hỏng, đến mức những bộ váy áo mặc mãi, lỗi mốt, khó chịu đến phát ngán mà vẫn mới tinh đến mức không nỡ vứt đi.

Người tiêu dùng ở chính quốc Pháp không cần lo lắng về loại vải không thể tiêu hủy ấy. Chúng ta có trạm thuế quan ở Marseille kiểm soát mức độ tràn lan của những sản phẩm thuộc địa ưu việt nhất.

Một máy dệt lụa trong xưởng tại Hà Đông những năm 1920 – 1929. Nguồn: Bảo tàng Quai Branly

Mặt khác, tôi không khỏi rùng mình khi cảm thấy mình đang hành xử như một kẻ phản bội quốc gia, vào cái ngày ở Hà Nội, trong một cửa hàng do người Pháp điều hành, tôi đã hỏi liệu tôi có thể mua mẫu vải nào đó của người bản xứ hay không – thứ mà tôi đã thoáng trông thấy ở nơi khác và cho là rất độc đáo. Người bán hàng – một phụ nữ – liếc mắt nhìn tôi đầy dò xét. Vì không hiểu hết tội lỗi của mình, tôi tiếp tục nài nỉ. Lúc ấy, cô ta trừng mắt nhìn tôi với vẻ khinh miệt mà tôi xứng đáng nhận, rồi giận dữ thốt lên:

– Nhưng thưa ông, sao ông không mua vải từ Pháp cho rồi?

Hà Nội chính là nơi vị Toàn quyền thường xuyên cư trú. Dù ông có muốn hay không, dù độc đoán hay dân chủ, Toàn quyền Đông Dương luôn mang dáng dấp của một vị phó vương. Dĩ nhiên, ông không được toàn quyền, vẫn phải tuân theo chỉ định và chịu giám sát. Nhưng Paris thì xa lắm, mà người ta ở đó lại chẳng biết gì rõ ràng về Đông Dương. Vậy nên, vị đứng đầu thuộc địa có mức độ tự do nhất định trong việc đưa ra quyết định.

Một chức vụ cao quý, một vai trò đáng mơ ước, phải vậy không? Ấy thế mà, trong số những người từng đảm nhiệm vị trí ấy suốt 30 năm qua, không một ai rời đi mà không thấy mệt mỏi và chán chường.

[…]

Tại Hà Nội, mỗi năm một hoặc hai lần, các phiên họp của một kiểu “quốc hội” cũng diễn ra, nơi các trưởng phòng ban và các Công sứ cấp cao gặp gỡ đại diện các quốc gia bản địa và các nghị sĩ được bầu chọn từ Nam Kỳ, Trung Kỳ và Bắc Kỳ. Cơ quan này gọi là “Hội đồng Chính phủ”.

Tôi đã từng có dịp tham dự một phiên khai mạc của hội đồng ấy. Trong một căn phòng vô cùng trang trọng và nghi thức nhưng hoàn toàn chẳng có chút vẻ đẹp kiến trúc nào, với những chiếc cột hồng hồng như giò sống, 30 – 35 người ngồi xếp hàng trước một chiếc bàn cong hình móng ngựa, dưới ánh đèn chùm và quạt trần quay vù vù. Toàn quyền bước vào và ngồi giữa, trên một chiếc ghế cao nổi bật. Giữa các viên chức và đại biểu người Pháp, có sự hiện diện của nhiều vị đại thần bản xứ cấp cao, trong đó có Nguyễn Hữu Bài, Cơ mật Viện trưởng đại thần – trụ cột lớn nhất của triều đình An Nam, và Tổng đốc Hà Đông, cả hai đều vận triều phục thêu chỉ vàng kín đáo và tao nhã.

Tôi không cần kể lại những gì đã được phát biểu trong phiên họp đầu tiên đó. Điều đọng lại sâu sắc trong ký ức tôi là một hình ảnh đầy chất thơ, như một góc vườn nhỏ thanh bình. Bởi chính tại nơi trang nghiêm ấy, tôi bỗng thấy một con côn trùng màu lam xinh đẹp – có lẽ là chuồn chuồn – bay thẳng qua phòng với dáng lướt thẳng tắp, rồi nhẹ nhàng lượn vòng phía trên đỉnh đầu ông Thalamas, như thể đang định đậu xuống đó, hệt như một bông sen trắng nhạt.

[…]

2. Đền Hai Bà

Mỗi quốc gia đều mang trên mình nhiều diện mạo, hay nói đúng hơn là có những mùa của riêng mình. Có những thời điểm mà vùng đồng bằng – hạ lưu sông Hồng – chỉ hiện ra như một vùng bùn lầy mênh mông, nơi cả một dân tộc đang vất vả mưu sinh, áo quần rách rưới mang cùng một màu nâu lầy lội như chính mảnh đất ấy.

Tôi thì chưa từng thấy cảnh đó. Tôi may mắn được sống ở đây ngay sau mùa lũ, vào tháng 10 và 11 –  những tuần lễ tuyệt đẹp, tới mức ngay cả mùa hè rực rỡ nhất của nước Pháp cũng khó mà sánh nổi. Khắp nơi xanh ngát, những túp lều tranh đơn sơ trông cũng tươm tất hơn, và ngay cả áo quần của người nông dân cũng ánh lên sắc nắng, mang màu nâu đậm gợi nhớ đến màu áo thủy thủ chứ không còn là màu của ruộng bùn. Nhưng tôi biết, tất cả sẽ lại thay đổi, sương mù sẽ giăng kín, cảnh vật lại u ám và nhơ nhớp như cũ.

Ở vùng ngoại ô gần Hà Nội, giữa sông Hồng và Hồ Tây, có con đường chạy dọc theo con đê, vượt qua những đầm lầy đã được cải tạo thành vườn rau. Ngay sau khi đi qua đó, người ta sẽ tới một ngôi làng thật duyên dáng: đó là làng chuyên làm giấy.

Những người phụ nữ trú dưới mái rơm bên bờ suối, thò tay vào những chậu nước đục. Chất lỏng ấy là bột giấy ư? Có lẽ vậy – dù bề ngoài thì trông chẳng giống. Mỗi lần những người con gái này nhấc chiếc sàng tre kép dùng làm khuôn khỏi mặt nước, họ lại lấy ra một tờ giấy dài. Ở giữa dòng suối nhỏ, những người đàn ông đang quậy bột trong những chiếc thúng tròn – loại hỗn hợp kỳ bí này chẳng mấy chốc sẽ hóa thành giấy mỏng, vân đẹp, và khi chạm vào thì mềm mại như lụa.

Ẩn hiện sau những xưởng giấy thô sơ ấy là một khu chợ nhỏ, với những cột trụ xây bằng gạch đá. Người ta bán loại giấy kia ở đây. Kẻ bán người mua chen chúc nhau, tranh nhau từng xấp. Phía trước là con đường làng, lúc nào cũng tấp nập dòng người qua lại. Xa hơn một chút, dưới tán một gốc cây cổ thụ, bạn sẽ thấy một ngôi miếu nhỏ xíu.

Đền chùa thì có khắp nơi quanh Hà Nội. Một trong những ngôi chùa tôi yêu thích nhất nằm ngay gần làng giấy ấy, đó là chùa Hai Bà.

Phải nói ngay rằng, hai người phụ nữ người ta thờ phụng ở ngôi chùa này là anh thư dân tộc của người An Nam: Hai Bà Trưng – người lãnh đạo cuộc khởi nghĩa chống quân xâm lược phương Bắc vào thế kỷ thứ nhất. Số phận của họ cũng gần giống như Jeanne d’Arc: chiến thắng rồi thất bại, cuối cùng hy sinh. Nhưng những vị vua không hề quên ơn họ. Các vị hoàng đế đã phong thần cho hai nữ tướng. Ngôi chùa mà tôi nhắc đến, được xây dựng vào thế kỷ XII dưới thời Vua Lý Anh Tông, thay cho một đền thờ cổ trước đó bị cuốn trôi do những đợt lũ của sông Hồng.

Tôi đến ngôi chùa cổ bằng con đường lát đá chạy xuyên qua đồng lúa, phủ đầy cỏ dại. Sau chiếc cổng tam quan cao vút là con đường rợp bóng những hàng xoài cổ thụ.

Bên trong chùa, ánh sáng lờ mờ làm những pho tượng được sơn vẽ ánh lên giữa các cột gỗ sơn son thếp vàng. Khi đang ngắm nhìn tượng vị vua khai quốc và hai chị em nữ tướng – đầu đội vương miện hoa giấy – tôi chợt nhận ra xung quanh mình có điều gì đó rất lạ. Người dân An Nam ăn mặc tươm tất, cứ lần lượt kéo đến, tụm lại trò chuyện khe khẽ, rồi từng nhóm từng nhóm một lại biến mất vào các hành lang ở hai bên ngôi đền.

Lễ hội đền Hai Bà ở Hà Nội khoảng năm 1920-1929: Khung cảnh ở sân đền. Trong điện thờ, các vị chức sắc đang làm lễ trước bàn thờ. Ảnh: Phủ Toàn quyền Đông Dương

Tôi men theo con đường cũ và chẳng bao lâu sau, thấy mình đứng trong một khoảng sân nhỏ, đúng hơn là một khoảng sân kiểu tu viện, bởi xung quanh là những hành lang có mái che bao bọc. Đám đông tụ lại đông nghịt, tạo nên khung cảnh như một nhà hàng nhưng lại mang không khí thiêng liêng. Khắp nơi, người ta ngồi ăn. Ở cuối sân, dưới mái hiên, một hàng tượng Phật đứng uy nghi trên bàn thờ. Dưới chân các ngài, hương cháy nghi ngút trong những bình cát. Và trong những chiếc đĩa nhỏ xíu, đủ loại đồ ăn – cơm, thịt, trái cây, rau củ – bày thành hàng, trước tiên để dâng lên thần linh và chư vị, rồi sau đó chia đều cho đám đông thành kính ăn uống thịnh soạn.

Dĩ nhiên, và tôi đã đoán ra từ trước, ở đây đang tổ chức một ngày hội lớn. Nhưng là hội gì? – “Hội sư bà”, người ta trả lời tôi vậy. Bởi ngôi chùa này do các ni cô trông coi. Và hôm đó chính là ngày kỷ niệm của vị trụ trì – hoặc có thể là của vị ni cô lớn tuổi nhất còn sống tại chùa.

Tuy vậy, tôi không thấy bóng dáng vị nào cả. Sắp sửa ra về, tôi tỏ ý muốn để lại một chút lễ vật. Vị chức sắc trong làng, chia tay bạn bè để dẫn tôi đi, từ chối nhận lễ và muốn đích thân tôi biếu tận tay cho sư bà. Ông ta liền nắm tay tôi, kéo về nơi bà đang nghỉ ngơi trong khi mọi người long trọng mở tiệc vì bà. Ở một góc sân, ông vén tấm chiếu lên, và trong một căn buồng nhỏ nơi ánh sáng chỉ vừa đủ lách vào theo bước chân chúng tôi, tôi thấy vài cụ bà đang ngồi xếp bằng, quấn mình trong chiếc áo nâu cũ kĩ. Người mà hôm nay mọi người long trọng tổ chức lễ – vị ni cô già yếu ấy –  đứng dậy, bước đến chỗ tôi. Nhỏ bé nhưng ánh mắt rạng ngời, bà chăm chú nhìn mấy đồng tiền tôi vừa đặt vào tay bà với vẻ ngạc nhiên tột độ và mãi không ngưng. Thế mà dường như bà vẫn chưa hiểu. Phải để người dẫn đường cho tôi giải thích thì bà mới rõ điều vừa xảy ra. Khi đó, sư bà cúi mình chào tôi rất trang trọng và cảm ơn bằng một thứ tiếng mà có lẽ tôi chẳng bao giờ còn được nghe lại nữa.

Đi xa hơn một chút khỏi Hà Nội, rẽ ra quốc lộ, đi theo một trong những con đường nhỏ như lưỡng lự len qua giữa ruộng đồng, bạn sẽ tới một trong những ngôi làng làm nông thuần túy, có khi được bao quanh bởi bức tường vuông vức. Con đường làng băng qua một chiếc cổng, rồi ra bằng cổng khác. Bên trong làng, nước tù đọng trong các ao nhỏ, đôi khi có một hồ nước đẹp in bóng ngôi chùa. Những túp lều tranh chen chúc hỗn độn. Đây đó, những bụi tre cao vút, những thân cau thẳng tắp, vài cây cổ thụ có thân vặn xoắn, cành vươn mạnh cùng tán lá sum suê. Những cây ấy làm tôi liên tưởng đến những chậu sứ bonsai, mà ngày xưa ta từng thấy ở châu Âu, vốn được mang về từ Trung Hoa, nhưng ở kích thước lớn hơn nhiều.

Ngay khi vừa bước chân vào làng, từng đoàn trẻ con chen chúc bao vây quanh bạn. Nhưng những đứa trẻ vô số kể ấy từ đâu mà ra vậy, lại gần như đều trần truồng? Một vài đứa may ra mới có miếng vải tả tơi che thân. Bạn nhìn những khuôn mặt trẻ nhỏ ấy với trái tim thắt lại: đầu đầy ghẻ lở, hầu như mắt đứa nào cũng có bệnh – đục ngầu, rỉ nước, lờ đờ hay thậm chí là lòa hẳn đi. Lại còn bao nhiêu vết loét, tay chân teo tóp hoặc vặn vẹo.

Thật vậy, có một nỗi thống khổ tồn tại giữa lòng dân An Nam ở vùng Bắc Kỳ. Phần lớn dân làng chỉ sống lay lắt qua ngày, gắng gượng lắm mới đủ nộp hai đồng bạc thuế. Ban đầu người ta thấy ngạc nhiên trước độ rộng lớn của những cánh đồng canh tác. Bao nhiêu là ruộng khiến người ta dễ lầm tưởng nơi đây giàu có. Nhưng chớ vội ảo tưởng: những đồng lúa ấy cho ra sản lượng rất thấp. Nông dân Bắc Kỳ cứng nhắc như bao người làm nông khác. Họ vẫn giữ những phương thức canh tác cổ xưa hàng nghìn năm. Không tài nào thuyết phục được họ rằng nên chọn giống kỹ càng. Họ nghĩ là trộn lúa tốt với lúa xấu thì giúp góp phần cải thiện giống – nhưng chính lúa xấu làm hỏng cả phần tốt…

Và thử hỏi làm sao người dân ở đây không lâm vào cảnh khốn cùng cho được, khi mà ở vùng đồng bằng này, mật độ dân số lên tới 600 người một cây số vuông? Người Pháp đã tiến hành xây các công trình thủy lợi quy mô lớn, và vài mảnh đất từng hoang hóa dần trở nên màu mỡ. Nạn cướp bóc đã chấm dứt – trừ ở vùng biên giới với Trung Quốc – nên những bức tường phòng thủ quanh làng không còn cần thiết. Đúng là mức độ nghèo đói của người dân đã giảm xuống. Nhưng sự cùng cực ấy vẫn còn đậm nét, không thể phủ nhận.

Hãy tưởng tượng những người dân – đàn ông, đàn bà – chen chúc trong các túp lều, sống chỉ nhờ vào ăn mỗi cơm trắng, thứ cơm giúp họ no bụng nhưng chẳng cung cấp đủ các chất dinh dưỡng, làm lũ trẻ còm cõi mà bụng lại phình to. Rồi khi dịch tả tràn đến, ai cũng hình dung ra cảnh tượng kinh hoàng sẽ xảy tới với đám người thiếu ăn, sống chen chúc như vậy.

Ở Hà Nội có một nơi, ai đủ can đảm đặt chân đến sẽ được tận mắt chứng kiến toàn cảnh nỗi khốn khổ ở đây, như thể ta đang nhìn qua lăng kính cô đọng mọi đau thương chỉ trong ánh nhìn duy nhất. Đó chính là trạm xá Saint – Paul, khoảng sân với cảnh tượng khủng khiếp nhất mà ta có thể tưởng tượng.

Trước đây, ở bệnh viện Hà Nội, từng có vị bác sĩ say mê chủ nghĩa thế tục tới mức thẳng tay đuổi các nữ tu điều dưỡng – những người đã phục vụ nơi ấy từ bao đời – ra đường. Trong số đó có nữ tu Antoine. Bà chỉ có vỏn vẹn 9 đồng trong túi. Với số tiền ít ỏi ấy, bà đã mở một trạm xá dành cho những người có bệnh không thể chữa, cho những người khuyết tật – những số phận mà không ai buồn đoái hoài, kể cả vị bác sĩ chính trị gia danh tiếng kia.

Xơ Antoine đã gom góp được một chút tiền cùng vài sự trợ giúp. Từng chút một, bà thành lập các nơi nương tựa, bà đón những người nghèo, tàn tật, và cả những ai mà bệnh viện không còn muốn tiếp nhận. Bà mới qua đời cách đây không lâu nhưng đã để lại một trạm xá rộng lớn, giữ gìn ngăn nắp; nơi hàng trăm con người khốn cùng được nuôi dưỡng, cưu mang và chữa trị.

Tất cả những phế nhân do nghèo đói sinh ra, mọi dị dạng, mọi hình hài quái dị đều có thể bắt gặp ở đây. Trước mặt bạn là những người thiếu chân, lê lết bằng đầu gối. Kẻ khác thì vẹo vọ, méo mó. Người này sinh ra chỉ có một tay, người kia chỉ còn hai mẩu tay cụt. Nơi khác là nhóm những người khiếm thị.

Trong khu Saint – Paul này, nơi mọi nỗi thống khổ hội tụ, bạn sẽ ngạc nhiên khi thấy một khu khác nhìn như nhà trẻ. Có lẽ khu này là một trong những nơi thực hiện các việc làm cao đẹp nhất, tại đây, người ta nuôi dưỡng những đứa trẻ mới sinh mà có cha mẹ mắc bệnh phong. Tách khỏi mẹ ngay từ khi lọt lòng, những đứa trẻ này không mắc phải thứ bệnh ấy. Tôi đã thấy phòng ngủ mà một loạt giường nhỏ xếp ngay ngắn, có xưởng làm việc đầy nắng, nơi lũ trẻ được cứu sống ấy khéo léo đan móc những món đồ ren tinh xảo…■ (Còn nữa)

Pierre Bilottey

Lê Hằng Nga (dịch)

BÌNH LUẬN

BÀI VIẾT LIÊN QUAN