Trang phục người dân An Nam

Trang phục của người dân Việt Nam xưa ở mỗi vùng khác nhau lại thể hiện phong tục tập quán, thẩm mỹ và địa vị xã hội khác nhau. Tạp chí Phương Đông mời bạn đọc thưởng thức vẻ đẹp phong phú của trang phục truyền thống Việt Nam xưa qua Chương 4: Trang phục thuộc phần I cuốn “Người dân An Nam: phong tục, tín ngưỡng và truyền thống” (Les peuple annamite: ses mœurs, croyances et traditions) của tác giả Eugène Langlet xuất bản năm 1913.

*

Trang phục của người dân An Nam là đơn giản nhất và ít kiểu cách nhất.

Ở Nam Kỳ và Trung Kỳ (trừ Bắc Trung Kỳ), trang phục của phụ nữ gần giống của nam giới, chỉ khác một số chi tiết nhỏ. Người mới đến những vùng này ban đầu sẽ khó phân biệt nam nữ, đặc biệt khi họ đội mũ và đứng ở khoảng cách xa.

Mọi người đều mặc trang phục giống nhau. Quần rất rộng, dài đến mắt cá chân và buộc dây lưng ở eo, đóng vai trò như một túi đựng đồ. Trừ một vài trường hợp hiếm hoi, thông thường quần có màu đen hoặc trắng, phụ nữ thường mặc quần đen.

Phụ kiện của quần, không bắt buộc, là dây lưng. Dây này thường có màu sắc sặc sỡ, dài khoảng 2 mét và rất rộng. Dây buộc một vòng quanh eo và buộc nút ở phía trước, dưới chiếc áo, với phần đuôi dây thả xuống đến đầu gối. Nam giới thường cất túi đựng tiền, trầu, dao và những vận dụng cần thiết ở nếp gấp của dây lưng. Ở nông thôn, phụ nữ không dùng dây lưng mà buộc những vật dụng nhỏ vào vạt áo của họ.

Áo của nam và nữ đều giống nhau, một loại áo dài, dạng sơ mi khoác ngoài, bắt chéo trước ngực và cài nút ở bên hông. Để tiện cho việc đi lại, áo xẻ hai bên từ phần eo trở xuống. Tay áo thường hẹp, tuy nhiên áo mặc trong lễ tang thì có tay áo rất rộng.

Phụ nữ mặc thêm một loại áo yếm, thường là vải trắng, đây là phần quan trọng của trang phục. Phụ nữ không bao giờ cởi áo yếm trước mặt người khác, kể cả khi cho con bú. Họ có thể xắn quần lên tới đùi khi lội qua suối, nhưng sẽ không bao giờ để lộ ngực trước mặt mọi người. Ngược lại, đàn ông không có sự e ngại nào. Chỉ cần ghé qua bờ sông hay đầm lầy, ta có thể thấy rõ điều này.

Quanh đầu nam giới quấn khăn, giống như khăn xếp, màu đen, gấp gọn và quấn nhiều vòng, bề rộng khoảng ba ngón tay. Phụ nữ thường đội khăn tay hoặc khăn lụa. Ai đội khăn trắng thì biết là đang để tang. Đôi khi, nam giới cũng dùng mảnh vải để che nắng ngăn bụi hoặc mưa thấm vào tóc, được buộc thắt nút dưới cằm.

Một người phụ nữ ở Sài Gòn khoảng năm 1902 – 1925. Nguồn: Bộ sưu tập của Pierre Dieulefils

Tùy vào địa vị người mặc, quần áo làm bằng vải trắng, đen hoặc xanh dương, hoặc từ lụa đen hoặc lụa nhuộm các sắc màu rực rỡ nhất. Đối với phụ nữ An Nam, không gì đẹp hơn việc kết hợp hai hoặc ba chiếc áo lụa có màu sắc sặc sỡ, xếp sao cho nổi bật sự tương phản giữa các màu nhiều nhất có thể: đỏ trên nền xanh lá, vàng trên nền đỏ, tím trên nền vàng, v.v.

Khi làm việc, phụ nữ cởi áo khoác ngoài, và đôi khi thay bằng áo quần nhỏ có dáng như áo khoác ngắn, chỉ dài đến thắt lưng. Đàn ông cũng mặc loại áo ngắn này khi làm việc, thường thì những người lao động chân tay và người nghèo không có quần áo nào khác. Với những người hầu, chiếc áo này trắng tinh, nhưng với phu khuân vác, chiếc áo thường bẩn thỉu tới mức khó chịu. Quan lại, thông ngôn, người giàu có thường không mặc những chiếc áo ngắn này, họ luôn mặc áo khoác lớn, màu tối. Cách mặc áo đen ngoài áo trắng tạo nên sự trang trọng.

Từ khi nhà Minh cai trị, tất cả người dân An Nam, cả nam và nữ đều để tóc dài. Tóc, lông mày và lông mi của họ mang màu đen đồng nhất; một người An Nam tóc vàng là hiện tượng hầu như không thấy bao giờ. Tóc được chăm sóc kỹ lưỡng, bôi dầu và chải chuốt, búi vặn thừng phía sau đầu; đôi khi người ta cố định búi tóc bằng một chiếc trâm lớn làm từ xương, gỗ hoặc bạc, hiếm hơn là bằng một chiếc lược nhỏ ẩn trong tóc.

Mái tóc dài này có nhược điểm là dễ tạo điều kiện cho sự sinh sôi của nhiều loại côn trùng. Thường xuyên bắt gặp cảnh hai người An Nam ngồi xổm ngoài đường, người phía trước xõa tóc, người đằng sau mải mê săn “con mồi” trong đó.

Cô gái trong trang phục làm việc đứng trước cổng ruộng ngô tại Bắc Kỳ những năm 1914-1921. Nguồn: Bộ sưu tập ảnh màu của Léon Busy

Khi ra ngoài, họ đội một chiếc nón làm từ các dải lá cọ dài đặt phẳng theo chiều dọc và khâu vào khung tre nhẹ. Kiểu dáng phổ biến nhất là hình nón trông giống như chiếc chụp đèn. Cũng có loại trông giống như bát úp. Người giàu đội nón đen làm từ lông quạ, được trang trí thêm bằng bạc ở đỉnh nón. Những chiếc nón này rất rộng, che cả đầu lẫn vai người đội.

Người An Nam thường đi chân trần, tuy nhiên những ai làm việc trong rừng hoặc phải đi trên sỏi đá hoặc cát nóng thường mang dép làm từ da trâu. Chúng đơn giản là một đế dép được giữ trên chân bằng dây đeo luồn qua giữa ngón chân cái và tỏa ra hai bên bàn chân. Những đôi hài sang trọng được làm từ da thuộc, có phần đế nhô lên thẳng đứng vài centimet phía trước bàn chân. Ở trong nhà, những người tinh tế đi loại dép xỏ hở mũi rất bất tiện, chỉ để được đầu ngón chân vào, và phần đế thậm chí không chạm đến gót chân. Cuối cùng, trong các buổi lễ lớn, đàn ông đôi khi mang những đôi hia to làm từ bìa cứng đen, đế rất dày và phần thân hia trang trí bằng các dải giấy trắng.

Ở phía Bắc Trung Kỳ và Bắc Kỳ, trang phục của nam và nữ không giống nhau nữa. Đàn ông mặc trang phục giống ở Trung Kỳ, nhưng phụ nữ vẫn mặc váy ngắn màu đen thay vì quần dài. Ngày xưa, tất cả đều mặc váy, nhưng vì lý do đạo đức, hoàng đế Minh Mạng ra lệnh rằng từ nay họ phải mặc quần. Lệnh này khiến nhiều người không hài lòng và ở vùng Bắc Kỳ nó gần như không được thực hiện.

Chiếc áo của họ không giống với áo của phụ nữ ở miền Nam An Nam. Thay vì cài khuy ở bên hông, áo không được cài, hai vạt áo đơn giản là được buộc phía trước hoặc giữ chéo bằng một chiếc thắt lưng, để lộ phần yếm mà người phụ nữ luôn cố giữ cho thật trắng. Thay cho khăn và búi tóc, họ bọc tóc trong một lớp vải đen hoặc trắng khi người phụ nữ đang để tang, quấn quanh đầu. Nón của họ, thay vì hình nón như của đàn ông, lại có hình dạng giống một chiếc cối xay, đường kính từ 70 đến 80 cm và cao từ 12 đến 15 cm. Nón này cũng luôn được làm từ lá cọ. Một chiếc mũ nhỏ gắn bên trong giữ cho nón trên đầu và chỉ cân bằng nhờ hai chùm tua lụa lớn gắn ở hai bên mép nón, buông xuống hai bên mặt người phụ nữ thanh lịch. Họ cũng giữ nón bằng một sợi dây lớn trông như quai mũ nhưng đôi khi thả xuống tận eo.

Chân dung một phụ nữ đội nón ba tầm ở Bắc Kỳ khoảng năm 1914 -1921. Nguồn: Bộ sưu tập ảnh màu của Léon Busy

Những người phụ nữ cũng đỏm dáng. Họ thích đeo khuyên tai, dây chuyền, vòng tay. Không hề cố tỏ ra, họ chủ động làm dáng để được ngưỡng mộ. Họ có câu thành ngữ: “Trai tài, gái sắc”. Vẻ đẹp của người phụ nữ An Nam không chỉ đến từ những nét đẹp thường thấy: vóc dáng vừa phải và phần thân trên gọn gàng, mà còn là nghệ thuật của dáng đi khoe chiếc lưng ong, ngực ưỡn ra phía trước.

Ở Nam Kỳ, những người phụ nữ Chàm không mặc quần cũng chẳng mặc váy mà mặc một mảnh vải quấn quanh eo và rủ xuống đến giữa chân. Chiếc áo của họ dài đến đầu gối và được cài kín hoàn toàn, với phần cổ áo đủ rộng để chui đầu qua, mặc lên giống một chiếc áo thun bó sát. Một mảnh vải lớn khác cuộn lại đội trên đầu, nâng tổng số thành ba mảnh vải tạo nên bộ trang phục hoàn chỉnh.

Ở vùng núi cao Bắc Kỳ, các bộ tộc giữ nét bản địa hơn, ít pha trộn hơn so với ở Trung Kỳ và Nam Kỳ. Một số dân tộc miền núi có trang phục rất đẹp và mang tính dân gian, trang trí bằng họa tiết thêu và bằng bạc. Trong khi đó, một số nhóm khác, chẳng hạn như người Mọi ở Trung Kỳ, gần như không mặc quần áo. Người Mông, một bộ tộc sống gần biên giới Vân Nam, dùng phương pháp rất khéo để tạo ra các hoa văn đa dạng mà không cần thêu. Chẳng hạn, trên tấm vải trắng, họ dùng một chiếc phễu nhỏ bằng đồng để vẽ các hoa văn bằng sáp ong. Khi đã phủ sáp, tấm vải được nhúng vào bể nhuộm. Sau khi nhuộm xong, vải được ngâm trong nước nóng để lớp sáp tan ra, lộ các hoa văn đã vẽ.

Một nhóm phụ nữ Mông trong trang phục truyền thống khoảng năm 1928. Nguồn: Lưu trữ của Phủ Toàn quyền Đông Dương

Tất cả người An Nam, dù giàu hay nghèo, thì quần áo thường bẩn. Hầu như người ta không khi nào giặt quần áo, hoặc chỉ giặt bằng nước lạnh mà không dùng xà phòng. Do vậy, vì cái nóng nực ở vùng này, mồ hôi, dầu từ tóc, bụi bẩn trên cơ thể, và trầu mà họ nhai liên tục, người bản địa tỏa ra một mùi hôi gần như khó chịu, điều này luôn khiến những Âu châu mới đến thuộc địa cảm thấy không thoải mái. Chỉ có những người phục vụ cho người Pháp mặc quần áo tương đối sạch sẽ.

Người ta hoàn toàn không quan tâm đến đường nét cơ thể, trừ những người phụ nữ bản địa đỏm dáng và chải chuốt, và những người giao du với người Âu châu. Trong các thành phố, những người thanh lịch đi tất và đôi khi mang cả giày; những người ăn chơi nhất mặc quần vải trắng thay vì mặc chiếc quần thông thường.

Kể đến một vài phụ kiện hoàn chỉnh bộ trang phục; đối với nam giới, đó là túi tiền vải có màu sắc sặc sỡ, chia nhiều ngăn; người An Nam để vào đó tiền, miếng trầu, mẩu thuốc, giấy viết… và giắt chúng vào thắt lưng quần. Ngoài ra còn có chiếc quạt giấy màu đỏ dán trên khung tre, và một mảnh khăn không thể thiếu, nhưng không thể gọi nó là khăn mùi xoa vì người bản địa không dùng nó giống như cách dùng vốn có của chiếc khăn ấy, họ dùng những ngón tay của mình là đủ; mảnh khăn đó chủ yếu để lau mồ hôi trên mặt dù trước đó có thể nó đã được dùng làm khăn lau chùi. Cuối cùng là chiếc ô giá hời nhập thẳng từ châu Âu, bày bán trong các chợ của người Hoa hay người Ấn. Đây là món đồ mà người bản địa rất tự hào khi sở hữu và luôn mang theo bên mình. Ngay cả ở vùng nông thôn, ta cũng có thể bắt gặp nó trong tay những người bản địa, họ bung ô mỗi khi ra khỏi nhà, thậm chí khi thời tiết không cần dùng đến, nhưng đây là biểu tượng xa xỉ mà họ không ngần ngại trưng ra.

Mặt khác, mới cách đây không lâu khi An Nam còn những chiếc lọng của quan lại, vốn và vẫn còn là một biểu tượng cho quyền lực và chỉ huy. Tuy nhiên, nếu các chức sắc nhỏ, người hầu hay người nông dân không thể hy vọng một ngày nào đó được che chở dưới biểu tượng to lớn và vinh quang này, thì họ vẫn có thể tự hào bước đi dưới chiếc ô nhỏ, ngược lại với người Châu Âu, họ không bao giờ thấy chiếc ô ấy quá lớn hay quá cồng kềnh. Thêm nữa, với trí tưởng tượng phong phú, họ tự hình dung rằng, trong con mắt của những người dân thường, uy tín của họ được nâng cao nhờ vào hình ảnh chiếc ô nghiêm trang và kiêu hãnh mở ra che trên đầu. Những ai không có ô thì che mưa bằng một chiếc áo choàng rất hữu dụng làm từ lá cây, lá cọ hoặc lá ngô, xếp chồng lên nhau như vảy cá. Niềm kiêu hãnh của họ đôi khi được thể hiện theo những cách bất ngờ hơn, minh chứng là câu chuyện sau đây: Một người lính tập đi theo một sĩ quan cấp cao trong khi làm nhiệm vụ ở vùng nông thôn An Nam. Một ngày nọ, người này nảy ra ý định tô điểm cho trang phục của mình bằng cách đeo ở thắt lưng một chiếc bi đông của lính. Khi sĩ quan hỏi lý do, anh ta trả lời: “Tôi đeo bi đông để giống như ngài đại úy, dân làng sẽ nghĩ đó là súng lục”.

Phụ nữ thường đeo trang sức như vòng cổ, vòng tay, hoa tai và nhẫn bằng vàng hoặc bạc. Những người phụ nữ lớn tuổi đôi khi đeo ở thắt lưng các dụng cụ nhỏ bằng bạc để têm và nghiền trầu, vì họ không còn nhai được nữa.

Trẻ em cũng thường đeo vòng cổ bạc, còn các bé nhỏ đôi khi đeo vòng ở mắt cá chân. Thậm chí, những chiếc vòng này đôi khi là trang phục duy nhất của chúng. Trang phục của trẻ nhỏ không đáng bàn, thường thì chúng ở trần cho đến khoảng bảy hay tám tuổi, các bé trai thậm chí còn lâu hơn. Khi mặc đồ, chúng có áo và quần gần đúng với kích cỡ của mình kèm chiếc mũ nhỏ màu sắc sặc sỡ trang trí bằng các đường thêu đơn giản, đôi khi có các hạt giả đá.

Một trong những cách làm đẹp mà người An Nam ưa chuộng nhất là nhuộm răng đen, màu sắc này được tạo nên nhờ cách bôi hỗn hợp mà người bản địa tự chế. Sau khi răng đã được làm sạch kỹ càng trong vài ngày, người muốn nhuộm răng theo phong tục sẽ áp những miếng chanh lên răng trong ba ngày; họ chỉ tháo miếng chanh ra khi ăn và ngay sau đó lại thay miếng chanh khác sau khi súc miệng sạch sẽ. Sau ba ngày, axit đã tác động đủ lên men răng tự nhiên để hỗn hợp nhuộm răng có thể bám chắc. Trong thời gian này, môi và nướu thường bị sưng, và người nhuộm răng khó có thể chịu đựng thời gian áp miếng chanh lâu hơn. Vào ngày bắt đầu quá trình nhuộm, tức ngày thứ tư, người ta pha vỏ của một loại quả (vỏ trái lựu) và gỗ của một loại cây (phèn đen) trong rượu, sau đó đun sôi hỗn hợp cho đến khi cô đặc thành một dạng thuốc mỡ. Đây là hỗn hợp tạo thành màu đen đặc trưng được ưa chuộng. Buổi tối, sau khi ăn, người nhuộm răng lại làm sạch miệng lần nữa – đây có lẽ là lúc miệng họ sạch nhất và sẽ không bao giờ sạch như vậy nữa – rồi lên giường. Một phụ nữ, có thể là góa phụ hoặc thiếu nữ chưa chồng, sẽ lấy một ít thuốc mỡ này, bọc trong giấy lụa rồi bôi lên răng người nhuộm và hỗn hợp phải được giữ qua đêm. Điều kiện bắt buộc là người bôi thuốc phải là góa phụ hoặc thiếu nữ chưa chồng, vì nếu là người đã có chồng thì thuốc nhuộm sẽ làm răng chuyển sang màu nâu thay vì màu đen.

Những đồ dùng cần thiết cho việc nhuộm răng đen tại Hà Nội khoảng năm 1920-1929. Nguồn: Lưu trữ của Phủ toàn quyền Đông Dương

Hỗn hợp này cần được bôi trong ba đêm liên tiếp. Ban ngày, người nhuộm răng phải tránh không để không khí lọt vào miệng; họ có thể ăn một vài thức ăn nhưng chỉ được ăn đồ ăn lỏng như súp để tránh đồ cứng cọ vào răng. Thêm nữa, hàm răng đau nhức cũng khiến họ không thể nhai, và họ cũng không được uống nước. Sau ba đêm bôi thuốc, răng sẽ chuyển sang màu đen. Người nhuộm tiếp tục bôi nhẹ hỗn hợp còn lại lên răng trong vài ngày và tránh các món ăn có vị chua. Người An Nam thường có hàm răng xấu vì vôi khi nhai trầu làm răng hỏng, việc nhuộm răng không giúp cải thiện điều này mà còn làm cho vẻ ngoài của răng kém thẩm mỹ hơn.

Một cách trang điểm khác, phổ biến ở nam giới, là nuôi móng tay dài quá mức. Họ tự hào khoe bàn tay với móng tay dài 10 – 12 cm, vì điều này thể hiện rằng họ đủ giàu để không cần động tay làm bất kỳ công việc nào – điều bất khả thi với móng tay như vậy. Chỉ có móng của ngón trỏ tay phải là được cắt để tiện cho việc cuộn thuốc lá và cầm bút viết.

Một vị quan ở Nam Kỳ khoảng năm 1925 với bộ móng tay dài – biểu tượng của cao sang và phú quý. Nguồn: Bộ sưu tập của Madeleine Colani

Cuối cùng, cần lưu ý rằng một người nông dân hay phu khuân vác chỉ với 5 – 6 piastre đã có áo quần mặc đầy đủ. Trong khi đó, với những thông dịch viên hay quan lại mặc trang phục phù hợp với địa vị xã hội của họ, bao gồm cả ô; chi phí này có thể lên đến khoảng 25 piastre.■

Eugène Langlet[1]

Lê Hằng Nga (dịch)

Chú thích:

[1] Eugène Langlet (1875 – 1947) là một học giả và nhà nghiên cứu người Pháp, nổi bật với các công trình về văn hóa và lịch sử Việt Nam.

BÌNH LUẬN

BÀI VIẾT LIÊN QUAN