Kinh đô Huế như một pháo đài tự nhiên với các dãy núi bao quanh đã trở thành nơi Hoàng đế An Nam tìm thấy sự an toàn và vẻ linh thiêng. Những lăng tẩm và cung điện nguy nga cùng các nghi lễ trang nghiêm của cung đình không chỉ thể hiện uy quyền mà còn là minh chứng cho mối giao thoa giữa thiên nhiên và nghệ thuật. Tiếp nối những kỳ trước, Tạp chí Phương Đông giới thiệu tới bạn đọc bản dịch Chương 3: “Hoàng đế và triều đình An Nam” trong cuốn Annam d’autrefois (An Nam thời xưa: Tiểu luận về thể chế An Nam trước khi Pháp can thiệp) xuất bản năm 1929 của Toàn quyền Pierre Pasquier, khắc họa Huế như một vùng đất cổ kính, trang trọng nhưng không kém phần nên thơ.
*
Đó là đời sống nội cung của triều đình xưa. Giờ hãy thử tìm hiểu về nơi triều đình đóng đô.
Huế, thủ đô của An Nam, là một thành phố tương đối mới. Nó không hẳn là một thành phố, mà trước hết là nơi mà Hoàng đế và triều đình muốn chọn làm vị trí phòng thủ. Thủ đô này không nằm ở vị trí như các thành phố lớn ở châu Âu, không phải điểm giao nhau của các con đường lớn hoặc nơi các con sông lớn hội tụ. Giống như một ngôi làng muốn tách biệt, triều đình đã chọn một vị trí khó tiếp cận, tránh xa tầm nhìn và được bảo vệ an toàn khỏi người lạ.
Các dãy núi An Nam bảo vệ tất cả các phía nơi Hoàng đế cư ngụ. Chúng là các màn chắn tự nhiên che khuất thành phố như những bức bình phong trang trí với hình chạm nổi nhiều màu che trước khu phòng rộng mở nhưng đầy bí ẩn nơi các quan xuất hiện và lắng nghe khiếu nại của dân chúng rồi đưa ra phán quyết. Dòng sông chảy quanh thủ đô không dùng làm đường giao thông; có các mỏm đá ngầm ở cửa sông, những đầm phá nguy hiểm nơi con sông mất hút ngăn không cho những kẻ điên rồ và liều lĩnh muốn ngược dòng để tiếp cận thành phố bí ẩn và thiêng liêng. Sông Hương dịu dàng và duyên dáng này chỉ ở đây để góp phần điểm tô cảnh quan, cung điện và lăng tẩm. Nó làm dịu mắt, đóng vai trò vào cảnh tượng vĩ đại được thiết kế bởi những nghệ sĩ tinh tế và nhạy cảm – những người kết hợp thiên nhiên vào tất cả các tác phẩm của mình.
Nơi đây vinh dự đón tiếp Hoàng đế, người đến để thư giãn và tắm rửa cho thân thể thiêng liêng của mình, hoặc du ngoạn trên chiếc thuyền hoàng gia lấp lánh với lụa và vàng, có các ca nương và nhà nho đi cùng. Vào những đêm hè, họ sáng tác những bài thơ trong trẻo và quyến rũ để tôn vinh ông.
Huế không phải chỉ là một thành phố. Huế được bao trùm trong pháo đài và các lăng mộ. Ở đây vẫn còn đền thờ Khổng Tử với tháp bát giác cao lớn được coi như đền thờ tri thức của quốc gia. Đây là nơi tổ chức các kỳ thi Đình ba năm một lần, trao tặng danh hiệu tiến sĩ cho những người xuất sắc hiếm hoi.
Kinh thành, nơi bảo vệ Hoàng đế và các bộ, được hình thành từ những bức tường cao bằng gạch nâu trải dài theo những hào sâu và con sông. Thật thú vị khi thấy những dấu ấn sâu đậm mà chúng ta đã để lại ở đất nước này. Các công trình được xây dựng theo các nguyên tắc tinh túy nhất của Đại tướng Vauban[1] của chúng ta, khi nền quân chủ cũ của chúng ta gửi tới Hoàng đế Gia Long những kỹ sư và sĩ quan Pháp để thực hiện nhiệm vụ đặc biệt và kỳ diệu, và không thể nhìn ngắm những công sự tuyệt vời này mà không cảm thấy một cảm giác tự hào vĩ đại và niềm tin vững chắc vào tài năng của dân tộc mình.
Vành đai vĩ đại này bảo vệ các cung điện, sân lát đá, những ngự hoa viên. Tôi chỉ được ra vào phòng tiếp khách, nơi duy nhất vẫn có thể vào được ngày nay. Các nội cung của hoàng gia, hậu cung và các đền thờ linh thiêng hiếm khi được phép xâm phạm.
Người vào cung đi qua những mái vòm của cổng Ngọ Môn, bên trên là một mái nhà nặng và thấp, có các đầu mái hình dạng giống sừng. Tiếp đó, ta đi qua những sân lát đá rộng với các công trình bao quanh, tất cả đều tái hiện những họa tiết nghi lễ và cổ xưa của nghệ thuật An Nam: hình tượng những con vật đặt cạnh nhau ở góc của các đền thờ, sự phối màu của các ký tự cổ xưa nổi bật với những đường nét tinh xảo trên nền trời, rồng uy nghi, những đám mây nhẹ nhàng chạy dọc theo các dải trang trí điểm xuyết vài con dơi bay lượn, những hoa văn trang trí hình sách thánh hiền và cây bút lông.
Các trần nhà cũng được trang trí bằng những họa tiết với hiệu ứng rất đặc biệt. Những cột chạm khắc tô điểm cho sự uốn lượn và đường nét của những con vật biểu tượng. Con rùa, biểu tượng của trường thọ, nhẹ nhàng nâng đỡ con hạc trên chiếc mai vững chắc của nó. Tiếp đó là những con đường rộng lớn, được bao quanh bởi các hồ nước, vườn tược tinh xảo và đầy hoa. Các cánh cổng nhẹ nhàng làm bằng gỗ chạm khắc với những khung hình có các ký tự trong Tam Tự Kinh về chính trực, trung thực, con đường dẫn tới hạnh phúc vĩnh cửu Những lan can với thiết kế duyên dáng bao quanh hồ cá sấu. Các bậc thềm rộng dẫn xuống vườn voi hoàng gia, nơi những con voi lớn diễu hành và vào những ngày lễ lớn, chúng được khoác lên mình những trang phục chiến đấu lộng lẫy. Các men gốm, sứ góp phần làm đẹp cho toàn bộ khuôn viên, các thềm sân và chòi nghỉ. Những không gian rộng lớn với cỏ xanh mát mắt. Tới một khoảng sân rộng lớn, ở phía cuối là điện có ngai vàng. Vào những ngày lễ, nơi này trở nên sống động với những lá cờ, cờ hiệu viền răng cưa uốn lượn, kèm theo các trang phục xa hoa. Các quan lại đứng thành từng nhóm theo cấp bậc của họ, bất động, tôn trọng nghi thức nghiêm ngặt và chu đáo, để lộ dưới ánh mặt trời những hoa văn bạc và vàng nhẹ nhàng trên cánh chuồn của chiếc mũ họ đội. Khi các quan cố định ánh nhìn vào chiếc sừng ngọc mà họ cầm trong tay, sẵn sàng làm nghi lễ vái lạy, những cánh nhỏ thêu trên lễ phục của họ cứng lại trên lưng.
Đại sảnh với vô số cột gỗ tếch, ngai vàng hiện ra. Giống như một vị thần, Hoàng đế, toàn thân khoác áo lụa vàng, màu mà chỉ ngài mới có quyền mặc trong cả nước, xuất hiện với dáng vẻ trang nghiêm, lấp lánh ánh vàng và đá quý. Các quan lại cấp cao, thái giám, phi tần đứng xung quanh, và cả các lính gác mặc trang phục đỏ viền xanh lá.
Tất cả cảnh tượng kì lạ và hùng vĩ này vốn có nguồn gốc lâu đời, được duy trì trung thành, ghi lại trong tâm trí người chứng kiến ấn tượng về một không gian rộng lớn đầy bí ẩn. Đây là vỏ bọc che giấu những âm mưu và tội ác mà triều đình An Nam, cũng giống như các triều đại phương Tây, không thể tránh khỏi trong lịch sử của mình.
Do ảnh hưởng của tục thờ cúng tổ tiên, việc bảo vệ để tránh cho lăng tẩm không bị xâm phạm và để bảo vệ sự an toàn cho lăng mộ của các nhà vua là vô cùng quan trọng. Do vậy, lăng mộ trở thành một phần đặc biệt quan trọng và việc nghiên cứu giúp chúng ta hiểu rõ hơn về tính cách của Hoàng đế.
Người An Nam, như chúng ta đã đề cập, tin rằng linh hồn của mình có thể tiếp tục di chuyển trong thế giới vật chất, cơ thể của họ cần được giữ nguyên hình dạng. Do đó, cần phải tránh không để các di hài bị phá hủy. Việc xâm phạm lăng mộ bị coi là một tội ác ghê gớm. Vì vậy các Hoàng đế thi hành mọi biện pháp để bảo vệ thi thể của mình. Họ luôn lo sợ rằng lăng mộ của mình bị xâm phạm nếu một cuộc đảo chính diễn ra. “Thực tế là, việc tìm kiếm dấu vết của các gia tộc quyền lực của 6 triều đại trước đây rất khó khăn, người ta vô vọng và không tìm thấy gì ngay cả ở dạng tàn tích”.
Tôi tin rằng mình là người đầu tiên viết về sự hiện diện của mười ngôi mộ nhỏ ở tỉnh Thái Bình, mà theo người dân địa phương, đây là các ngôi mộ thuộc triều đại tổ tiên của các Vua Trần. Những ngôi mộ này được sắp xếp tạo thành chữ “Vua”. Theo lời kể, bên phải là nơi đặt quan tài bằng đá của vị vua đầu tiên của nhà Trần. Dù sao đi nữa, những di tích này là tàn tích nhỏ bé nếu so với các lăng tẩm của Hoàng đế triều Nguyễn đang trị vì.
Ngoài ra, để tránh bị chỉ trích vì tội bất kính hoặc vì mục đích thận trọng, để bảo vệ bản thân trong tương lai, các nhà vua đều ban chỉ dụ cấp một số tiền nhất định dùng cho việc tu sửa lăng mộ vua của những triều đại trước.
Phải tính thêm rằng, ở quốc gia nhiệt đới này, sức mạnh lãng quên mà thiên nhiên mang lại luôn tràn ngập trên các công trình xây dựng. Tuy vậy, dường như không hợp lý khi nghĩ rằng các lăng mộ cổ xưa có tầm quan trọng như những lăng mộ của 6 vị Hoàng đế gần đây. Liệu chúng ta có nên cho rằng cách bài trí hoành tráng của các vị Hoàng đế này, hay vẻ ngoài của những con đường và lối đi gợi nhắc đến cung điện Versailles, là sự can thiệp về phong cách mà triều đình Vua Gia Long tiếp nhận từ phái đoàn chúng ta đã nhắc tới trước đó.
Điều này là có khả năng và là một giả thuyết chấp nhận được.
Không nên hiểu nghĩa của từ “lăng mộ” như cách ta vẫn thường hiểu, là một công trình, một lăng mộ có kích thước chỉ đủ lớn để chứa quan tài. Lăng mộ ở Huế là một khu vực rộng lớn trải dài nhiều hecta. Những nghệ nhân vĩ đại – các vị vua đã biết kết hợp công trình với thiên nhiên, trang trí và sử dụng các hiệu ứng mang lại cảm giác tuyệt vời. Tọa lạc tại khung cảnh tuyệt đẹp và hùng vĩ của đồi núi phủ thông, những cây đa khổng lồ và những cây phượng đỏ rực, các lăng mộ vô cùng ấn tượng và mang vẻ đượm buồn, tạo sự trang nghiêm và kính trọng. Đặc biệt có 4 lăng mộ đáng chú ý: Đó là lăng các Vua Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức.
Những đường đi rộng lớn, những bậc thang đá lộng lẫy dẫn lên sân thềm trang trí bằng những đỉnh vạc khổng lồ, những hồ dài gợi nhắc đến các hào nước trong vườn kiểu Pháp của ta, tất cả kết hợp lại tạo nên tổng thể có tính thẩm mĩ cao.
Tương ứng với trạng thái khác nhau của con người, các lăng mộ của Hoàng đế gồm 3 phần chính.
Trước tiên là khu vực lăng chính. Dưới một ngọn đồi lớn ở một vị trí bí mật, quan tài được giấu kín. Những cây cối, hoa lá phủ quanh trang trí toàn bộ nơi này. Một cánh cửa đơn độc, khóa bởi dây xích nặng, tượng trưng rằng nơi đây là bất khả xâm phạm.
Tiếp đến là đền thờ, nơi tập hợp những đồ quý hiếm và giá trị mà Vua dùng lúc sinh thời. Những đồ vật này đặt ở đây để tiếp tục phục vụ ngài ở thế giới bên kia. Trên bàn thờ được phủ kín đặt tấm vải che mặt Hoàng đế khi ngài trút hơi thở cuối cùng. Những cuốn sách, đồ dùng quen thuộc, ống hút thuốc, các chén trà nhỏ đặt trên kệ thờ để xung quanh. Các cựu phi tần, hoặc nếu sau khi họ mất, các nhà sư sống trong lăng là người phụ trách các nghi lễ cúng bái, dâng các mâm cỗ cúng trong sự im lặng, dành trọn cuộc đời mình để phụng sự công việc nghiêm trang này.
Đi xa hơn, ở giữa khoảng sân rộng lớn, sừng sững một tấm bia khắc những từ ngữ đẹp đẽ nhất được chọn lựa để ghi lại thành tựu vĩ đại dưới triều đại nhà vua trị vì.
Tấm bia nặng, vững chãi, đứng yên chắc chắn. Từ đó hiện lên vẻ uy nghi của vương triều trong sự tôn kính của thần dân mà chẳng cần phô trương. Danh tiếng ở phương Đông không rình rang kèn trống mà tự khẳng định mình một cách thầm lặng.
Bổ sung vào tổng thể này là một chòi nghỉ ở mỗi lăng, còn được gọi với tên “Ngự lâu”, nằm trên ngọn đồi, từ đây có thể nhìn bao quát toàn bộ khu lăng mộ. Đây là nơi Vua khi còn tại vị thường ngồi để quan sát và chỉ đạo những công trình trong quá trình xây dựng hoặc tận hưởng việc thư giãn.
Không phải lúc nào Huế cũng là thành phố chiêm nghiệm và yên bình. Người trị vì cũng không luôn luôn ẩn mình trong cung điện; đôi khi, ngài tham gia vào những nghi lễ lớn, trang trọng trong năm và xuất hiện trước người dân. Có một khu rừng, mà mỗi cây trong đó đều do một trong những quan văn đầu tiên của triều đình trồng, bao quanh đàn tế. Mỗi ba năm, vào ban đêm, Hoàng đế đến nơi này trong vai trò của đại tế sư chủ trì lễ tế Nam Giao, sau khoảng thời gian trai giới, ngài thực hiện việc hiến tế những con trâu đen béo tốt tới các vị thần.
Vào những dịp này, người ta đem từ kho của bộ Hộ những bộ sưu tập vải quý, đủ các loại trang sức, những tấm giấy lớn màu nghệ tây, điểm xuyết vàng, dùng để viết các chiếu chỉ. Những lễ phục sặc sỡ, các đồ dùng cho nghi lễ như kiệu, lọng, các bàn thờ nhỏ dễ di chuyển. Trong số các lễ hội này, lễ hội thanh nhã và thơ mộng nhất là lễ Tịch điền vào mùa xuân. Hoàng đế sẽ dùng một chiếc cày có tay cầm bằng vàng được chạm khắc, trong khi dân chúng quỳ xung quanh, cày một đường rạch trên mặt đất để cầu sự bình an của Đức Phật ban cho các cánh đồng.
Chúng ta không biết trong tương lai Đông Dương sẽ trở nên như thế nào.
Có thể thế kỉ mà chúng ta đang bước vào sẽ chứng kiến sự hiện diện của lá cờ ba màu nước Pháp bay phấp phới trên các bức tường cung đình Huế. Có lẽ viễn cảnh triều đình tàn lụi và triều đại này dần suy tàn đang mở ra trước mắt. Và một nỗi buồn hiện lên khi ta thấy rằng, việc tiến bộ, chinh phục sẽ khó có thể hòa hợp với việc bảo tồn các con đường, lăng mộ, bóng dáng nhẹ nhàng của những ngôi chùa và cả những nghi lễ cung đình trọng đại.■ (Hết)
Pierre Pasquier
Lê Hằng Nga dịch
Chú thích:
[1] Sébastien Le Prestre de Vauban (1633-1707) là một trong những kỹ sư quân sự vĩ đại nhất trong lịch sử Pháp. Ông là một tướng lĩnh và kỹ sư quân sự dưới triều đại Vua Louis XIV. Vauban nổi tiếng với những cải tiến quan trọng trong chiến lược phòng thủ và xây dựng các công sự. (ND)