Cách đây gần 100 năm, tiểu thuyết gia người Pháp Pierre Billotey đã có loạt bài du ký về Việt Nam với tựa đề “Đông Dương quanh co”, được đăng trên các số tạp chí Les annales – politiques et littéraires (Biên niên sử – Chính trị và Văn học) năm 1928. Dưới ngòi bút của tác giả, Đông Dương hiện ra như tấm gương phản chiếu vẻ đẹp đầy cuốn hút giữa lòng Viễn Đông huyền bí. Tạp chí Phương Đông xin trích dịch và giới thiệu một số phần để độc giả cùng mường tượng lại những nét đẹp vừa thân quen lại vừa lạ lẫm ở các vùng miền trên đất nước ta thuở xưa.
1. Băng qua vùng Thượng du Bắc Kỳ
Chúng tôi rời Hà Nội trước khi trời sáng. Những cột đèn điện hãy còn thắp sáng các đại lộ. Trên nền trời, ngôi sao cuối cùng và lưỡi trăng mảnh như tơ vẫn đang le lói.
Chúng tôi đã đi xuyên qua vùng đồng bằng bằng phẳng suốt hai giờ đồng hồ, nhưng trước mặt, tiến về phía đông và ở bên trái, những dãy núi bắt đầu hiện ra.
Chỗ kia là Kép, một thị trấn lớn. Tại đó, năm 1884, Tướng De Négrier đã giao chiến. Tiến xa hơn, mặt đất bắt đầu gồ ghề, phủ đầy cỏ cao và bụi rậm. Những khóm cây mọc lên từng cụm. Rừng bắt đầu hiện ra. Bên kia cánh rừng, con đường uốn mình dưới chân những vách đá trắng cao vút. Vụ phục kích Bắc Lệ đã diễn ra ở khu vực này. Không, dù có muốn, người ta cũng không thể nào quên rằng con đường này từng là đường chinh phạt…
Ra khỏi những hẻm núi rậm rạp ấy, phong cảnh xung quanh khiến ta liên tưởng đến họa tiết trang trí trên tách trà hay bình phong Trung Hoa. Những đỉnh núi hình nón xếp thành từng lớp nối tiếp nhau, để lại khoảng trống ở giữa khi đổi các góc nhìn khác nhau mà từ đó hiện ra những ngọn núi càng xa càng nhỏ dần. Trên mỗi đỉnh núi hầu như đều có một bóng cây màu đen cao trơ trọi. Trong thung lũng, xung quanh bạn, những người nông dân mặc áo chàm đang làm việc. Nếu quan sát họ thì thấy họ có những điểm khác so với người An Nam. Người ta thường quên rằng Đông Dương là nơi cư trú của những cộng đồng dân cư vô cùng đa dạng, có nguồn gốc khác nhau.

Ngay trong ngày, chỉ sau vài giờ di chuyển về phía đông, ta đã đến vùng đất cư ngụ của người Thổ – những người đến từ phương Bắc, có lẽ từ Tây Tạng, giống như người Mường, người Lào và nhiều dân tộc khác của Đông Dương. Người Thổ vẫn giữ nguyên ngôn ngữ chung với các anh em của họ, nhưng viết bằng chữ Hán, trong khi các dân tộc kia lại dùng chữ vay mượn từ Ấn Độ. Trang phục của người Thổ nhuộm đủ sắc độ của màu xanh lam, từ xanh nhạt thiên thanh đến xanh thẫm gần như đen, tùy theo việc vải được nhuộm một hay mười lần trong cùng một nồi chàm. […]
Bạn còn nhớ những minh họa của Gustave Doré cho tác phẩm Roland Furieux của Arioste chứ? Những ngọn núi chẻ thành vách dựng đứng, từ tầng mây cao đến tận đáy vực sâu; những khu rừng nguyên sơ với cây cổ thụ vặn xoắn, rễ cây quấn chằng chịt như loài bò sát; cả cái khung cảnh huyễn hoặc đó, ông khắc họa con người nhỏ bé, bước đi trong kinh ngạc? Đó chính là quang cảnh mà hôm nay tôi được chiêm ngưỡng. Và càng tiến sâu, càng đi vào vùng thượng du Đông Bắc Bắc Kỳ thì vẻ kỳ vĩ, độc đáo của phong cảnh càng hiện rõ.
Mỗi bước chân, ta lại bắt gặp những suối nguồn trong vắt, không còn vàng đục như ở vùng đồng bằng, mà là những khe suối róc rách, những thác ghềnh, những con suối tung bọt trắng xóa. Trên những bụi cỏ cao, ngọn lau trắng đung đưa theo gió. Thỉnh thoảng, nhìn qua trái qua phải, một khe núi mở ra khoét thẳng vào đá, với khung cảnh xanh lam xa mờ khiến ta chợt liên tưởng đến nền tranh của Leonardo da Vinci.

Ở phía Bắc, hơi chếch về Đông Bắc Bắc Kỳ, đường biên giới cắt vào đất Trung Hoa một dải đất trông như bán đảo tròn trịa. Ở trung tâm “pháo đài” ấy có một thành phố: Cao Bằng với những mái nhà xếp bậc trên một ngọn đồi, nơi hợp lưu của hai con sông.
Tôi đến nơi vào buổi tối. Tại chốn biên viễn của xứ Đông Dương này, điều khiến tôi ngạc nhiên trước hết là thấy gần như toàn bộ đàn ông trong vùng đều đội mũ lưỡi trai hoặc mũ mềm bằng nỉ đen. Trên các con đường nhỏ của thị trấn, người qua lại đông đúc. Thoạt nhìn, tôi có cảm tưởng như đang ở một huyện lỵ quê mình vào ngày chợ phiên. Mọi người cùng đổ về một chỗ – quảng trường lớn. Tôi cũng bước theo. Ở đó, đám đông chen chúc như thể chuẩn bị xem một buổi hành quyết. Nhưng thực ra họ chỉ đang dự xem một buổi diễn tuồng Trung Hoa.
Sân khấu dựng bằng tre nứa, thắp sáng rực rỡ, lộ thiên, cao chừng 2m so với mặt đất. Phía sau, những nhạc công ngồi gõ trống lớn, khua phách, thổi sáo, gõ những chiếc chũm chọe rộng bản. Trước mặt họ là những nhân vật sặc sỡ, trong đó có một võ tướng trông giống hệt những hình vẽ trên tranh mộc bản, và, ít nhất tôi tin là vậy, một diễn viên thủ vai chính hoàng đế.
Cuối cùng, ở phía đầu sân khấu, hai cô đào nhỏ nhắn cực kỳ duyên dáng lả lướt, trong những xiêm áo dài thướt tha, mái tóc cầu kì cột chặt bằng một dải ruy băng lớn – một người màu hồng, một người màu xanh đậm, buộc thành hình bó hoa trên đỉnh đầu rồi buông lơi xuống vai, thả dài đến tận thắt lưng. Họ vừa múa vừa cất giọng trong một vở kịch phức tạp. Câu chuyện ra sao thì chẳng mấy quan trọng. Điều thu hút khán giả bản xứ chính là những động tác, và nhất là lối the thé đặc trưng mà người Hoa gọi là hát.
Thật ra quan sát khán giả ở đây cũng khá thú vị. Họ nghiêm trang lắng nghe những tiếng kêu the thé chói tai ấy – những âm thanh mà với chúng ta thì chỉ một chút thôi cũng đủ khiến người nghe phải bỏ chạy. Và rồi các bạn nghe thấy những “người yêu nhạc” bản xứ thì thầm với nhau bằng tiếng nói của họ: “Ôi, giọng hát thật là hay!” – cũng giống như chúng ta, ở nhà hát Opera, sẽ vỗ tay tán thưởng một giọng tenor xuất sắc vậy.
Buổi diễn kéo dài không ngừng nghỉ, rực rỡ và hoành tráng, lại hoàn toàn miễn phí. Điều này khiến tôi hết sức ngạc nhiên. Tôi hỏi: ai là vị mạnh thường quân đã tài trợ sân khấu cho cả thành phố thế này?
– Ba quan, người ta đáp.
Ba quan là cách gọi ông chủ một sòng bạc. Ở Cao Bằng, vị này đã mời hẳn một gánh hát từ Trung Hoa sang, trả lương cho họ, lo toàn bộ chi phí. Nhưng đừng lo, Ba quan không phung phí tiền bạc của mình vô ích. Tay cáo già ấy làm vậy chỉ để nhử “ruồi” đến gần tơ nhện. Và rồi, không ít kẻ sẽ mắc bẫy.
Cờ bạc vốn bị cấm ở Đông Dương. Nên trong nội địa, nó vẫn nở rộ một cách lén lút, còn ở vùng biên giới, trò đỏ đen lại mặc sức sinh sôi. Người ta buộc phải cho phép vì nếu không, dân chúng sẽ kéo sang bên Tàu mà chơi. Còn hơn hết là để họ thua sạch tiền ở đây, khỏi phải đi đâu xa. Và lại, không được quên một chi tiết: các khoản thuế mà những ông Ba quan nộp chiếm một nửa ngân sách các tỉnh giáp ranh Vân Nam và Quảng Tây.
Tôi cũng làm như mọi người. Sau khi đứng một lát trước sân khấu, tôi bước vào chỗ của Ba quan. Chỉ có điều tôi không chơi, nhìn thôi là đủ rồi.
Trong một căn phòng thấp, sáng lờ mờ từ mấy chiếc đèn dầu tồi tàn, người chơi đứng chen chúc quanh một chiếc bàn cao trải chiếu cói. Hai tay nhân viên mặt mũi bặm trợn thì thu hết tiền cược. Một tên thứ ba, ngồi chễm chệ ở đầu bàn, thọc tay vào một chiếc túi, bốc ra cái chén rồi úp ngay xuống trước mặt. Thế là trước mắt mọi người hiện ra một số mảnh sứ nhỏ, trông y như những viên sỏi trắng. Nhanh nhẹn, hắn dùng một chiếc que xếp chúng thành từng nhóm bốn cái. Nếu đếm vừa khớp, ai đặt vào con số bốn thì thắng. Còn nếu thừa ra một, hai hoặc ba mảnh thì kẻ nào chọn đúng con số đó từ trước mới là người ăn cược.
Xa hơn một chút lại có chiếc bàn khác bày biện sẵn sàng. Bên cạnh, chung quanh, mấy bà hàng rong ngồi xổm bán bánh trái, đủ món ăn vặt. Người ta vừa chơi vừa ăn, bưng cả mâm lên sát mũi, vừa nhón từng miếng vừa ném đồng xu vào canh bạc. Mà để người chơi ném những đồng tiền xu ấy vào và hầu hết để thua, ở đây có đủ trò.
Ở Cao Bằng, người ta đánh bạc rất nhiều. Ngoài dân bản xứ, ở đây còn có 500 phu từ đồng bằng tới, mà họ cũng chẳng kém phần say sưa.

Tại sao phải tả con đường từ Cao Bằng ra biên giới? Vẫn là cảnh quan ấy thôi, chỉ có điều hiểm trở hơn. Con đường rất hẹp, bám vào vách núi dựng đứng, men theo một con sông chảy dưới vực sâu, rồi rẽ đi, dẫn đến một con đèo; trong tất cả những gì tôi từng thấy ở vùng này, đây hẳn là cảnh quan núi non hùng vĩ nhất.
Người ta đi lên rừng, dưới chân một bức tường đá dựng thẳng đứng, có lẽ cao đến 300 thước. Đối diện, những vách đá và đỉnh núi khác chắn ngang lối đi. Vâng, vẫn là thiên nhiên như tôi đã thấy trước khi đến Cao Bằng nhưng ở quy mô lớn hơn. Nơi tôi đặt chân đến quả thật là sự tổng hòa tuyệt vời của cả vùng, tất nhiên không phải dãy Alpes mà gợi nhắc đâu đó tới dải Pyrénées – không có những đỉnh núi quá dữ dằn mà lại khoác lên mình một lớp thảm thực vật phi thường.
Khi băng qua con đèo này, tôi được biết nó có tên là đèo Mã Phục, nghĩa là “ngựa quỵ xuống”. Chắc hẳn như các bạn cũng sẽ làm, tôi liền hỏi tại sao lại gọi nơi này bằng cái tên ấy. Và người ta đã kể cho tôi nghe câu chuyện về Nùng Trí Cao.
[…]
Đồn Trùng Khánh nằm trên gò cao ngay nơi biên giới, trông xuống thung lũng nơi năm, sáu con đường từ Trung Hoa đổ về và hợp lại đây, tạo thành lối thâm nhập tự nhiên, con đường mà từ đó người ta có thể tiến vào Bắc Kỳ.
Một vòng đồn hình vuông được bao quanh bằng dây thép gai; giữa mỗi mặt là một cánh cổng, ban đêm người ta đặt trước đó hàng rào chông di động; ở giữa là tòa nhà chính nơi lính khố An Nam cư ngụ, xung quanh là những dãy nhà chỉ có tầng trệt nằm quanh một sân vuông – tất cả đều rất sạch sẽ, tường trát màu vàng đất. Đó chính là đồn Trùng Khánh, công trình phòng thủ quan trọng nhất thuộc khu vực quân sự số 2.
Vài ngôi nhà mái lớn mang dáng dấp miền núi, hợp lại thành ngôi làng. Bên cạnh đó là một ngôi trường mới tinh, bắc cầu qua một con suối, và một khu chợ rộng lớn nơi dân tụ họp để buôn bán.
Chỉ huy đồn đón tiếp tôi. Ông là một đại úy khoảng 50 tuổi, từng phục vụ lâu năm ở châu Phi.
– Tôi ấy à, anh biết đấy – ông nói với tôi bằng giọng khiêm nhường – tôi vốn đi lên từ hàng lính ngũ thường thôi…
Trong số các chợ, chợ ở đồn Trùng Khánh là nơi lớn bậc nhất. Những người Nùng và Thổ khi mang ngựa hay gia súc tới đây đều phải nộp thuế và xuất trình giấy tờ. Họ cũng mang tới những con vịt, nhưng…là những quả trứng trước khi chúng nở. Vào ngày đã được tính toán cẩn thận, những quả trứng được vùi trong đống thóc đang lên men, có nhiệt độ tầm 40 độ C. Đến ngày định sẵn là ngày phiên chợ và cũng là ngày những chú vịt con sắp nở thì sáng sớm, trên quảng trường chợ chỉ thấy toàn trứng, hàng nghìn vạn quả. Đến chiều tối, chẳng còn sót quả nào nữa, chỉ còn lại vỏ trứng vương vãi và lũ vịt con chạy tung tăng khắp nơi. […]
Tôi đã đi khắp cả vùng, men theo biên giới, dọc một thung lũng được bao quanh bởi những ngọn núi Trung Hoa ở phía bắc và phía đông. Trên các mỏm núi, nơi này nơi kia, có thể thấy các pháo đài nhỏ mà Gallieni từng cho dựng lên như những cột mốc đánh dấu ranh giới Bắc Kỳ.
Thung lũng gần như bị bỏ hoang, chỉ quanh làng mới điểm vài mảng xanh tươi của ruộng lúa, hoặc những ô vuông trắng hồng dưới nắng – đó là những cánh đồng kiều mạch đang trổ bông. Thỉnh thoảng, bên bờ con sông, một chiếc bể lớn hiện ra, thành bể trát xi măng, ánh lên sắc xanh biếc, đó là nơi dân bản xứ nấu thuốc nhuộm chàm.
Cuối cùng, ở cuối con đường, tôi đi qua một cây cầu cổ có mái che, trĩu xuống, để lại sau lưng những túp lều lụp xụp của một xóm nhỏ. Sau một đoạn dốc ngoằn ngoèo, tôi hóa thân thành một tay leo trèo, vượt qua những con suối, bám vào các thân cây vắt ngang phía trên. Rồi công sức ấy được đền đáp xứng đáng: tôi đến dưới chân một trong những ngọn thác hùng vĩ nhất mà người ta có thể chiêm ngưỡng.

Ở đây, cả một dòng sông – sông Quây Sơn – đổ xuống thành trăm thác, trong một khán đài thiên nhiên tạo thành từ đá và cây cỏ. Mặt trời mọc chiếu những tia nắng gần như nằm ngang vào làn mây bốc lên như khói trên những ngọn thác, chiếu vào các dãy núi đá vôi, những khối lá xanh dày và cả dòng nước kia – trắng đến chói lòa nơi nó đổ xuống, rồi theo dòng chảy, dần lấy lại màu xanh biếc pha lơ, tinh tế đến tuyệt mỹ. Dưới chân tôi, bên bờ con sông mở rộng, những khóm lan vàng đang nở rộ.
2. Miền của “rắn biển”
Tôi chẳng còn biết rõ mình đang ở đâu nữa. Lúc đầu đêm, con tàu nhỏ thả neo, tìm nơi tránh gió, trong một vịnh nhỏ nơi những ngọn núi mọc dựng đứng một cách kỳ lạ vây quanh. Những đỉnh núi nối dài bốn phía rồi tan biến vào nền trời tối. Mặt nước phẳng lặng không gợn sóng; không gian tĩnh lặng tuyệt đối cùng nỗi bâng khuâng mơ hồ của tôi tạo nên ấn tượng huyền bí mạnh mẽ nhất mà tôi từng cảm nhận được, như linh cảm về một thế giới xa lạ nào đó. Nơi đây là một điểm mà tôi không rõ là điểm nào trong vịnh Hạ Long.
Trước khi thiếp đi trong khoang duy nhất của tàu Le Querne, tôi cứ lặp đi lặp lại cái tên ấy: Hạ Long. Tôi nghĩ đến con thần quái mà tên gọi đó gợi ra – con rồng từ trên mây hạ xuống để làm chủ vùng nước này. Người Trung Hoa sẽ nói với bạn rằng chính nó điều khiển các dòng hải lưu và sinh ra thủy triều. Vâng, tùy vào việc Hải Phòng – con rồng – rút sâu vào hang động của nó hay trồi ra khỏi đó, biển sẽ dâng nước lên hay rút xuống, có thủy triều lên hay xuống.
[…]
Khi tôi tỉnh dậy, nghe máy tàu rền rĩ, cảm thấy con tàu khẽ rung lên, và thế là cuộc hải trình qua quần đảo kỳ ảo bắt đầu. Ta lướt đi trên mặt biển màu ngọc bích, trong suốt, giữa những hòn đảo đá vôi cao vút, xám tím, đủ mọi hình dạng, kích cỡ. Sóng gặm mòn chân đảo. Những đỉnh núi cắt ngang trời. Ở bất kỳ khe nứt nào còn có thể, cây xanh lại bám vào lan rộng, chen giữa những vân đá trắng, cam hoặc vàng. Tôi có cảm giác như đang trôi giữa các đỉnh núi, những ngọn núi tựa như ở vùng thượng du Bắc Kỳ, nhưng ở đây chìm nửa mình trong nước, và gần tới mức tưởng chừng như sắp chạm vào nhau. Càng đi xa, ta càng khám phá ra những lạch nhỏ quanh co ngăn cách giữa chúng. Chúng tôi dừng lại trước hòn đảo. Tôi cùng ba người khác xuống một chiếc thuyền con. Vì thuyền không thể cập bờ, một trong số họ đã cõng tôi trên lưng lội qua đến đất liền. Chúng tôi trèo lên những bậc đá gập ghềnh, tiến tới miệng hang, từ xa trông nhỏ xíu và tưởng chừng không thể đến được. Thế rồi, sau vài bước chân, trước mắt tôi, trên đầu tôi, dưới chân tôi, cả một lòng hang khổng lồ mở ra, với những khối đá nằm ngổn ngang, những cột trụ khổng lồ nơi đá vôi vẽ thành các dòng chảy uốn lượn kỳ dị. Ta đi lên, rồi xuống, luồn dưới những mái vòm thấp để rồi lại thấy hiện ra những vòm khác cao hơn cả các nhà thờ chính tòa.

Sau khi rời đảo, con tàu Le Querne len lỏi qua một con kênh hẹp. Giờ đây, mặt biển mở rộng, và ta có thể phân biệt được bên trái là Hòn Gai và bờ biển, còn bên phải, rất gần thôi, vẫn là quần đảo với những lối thủy đạo đan xen. Thỉnh thoảng, dưới chân một ngọn núi giữa biển, một bãi nhỏ lấp lánh như viền vàng ngắn ngủi hiện ra. Những đường cong tuyệt đẹp, uốn cong gần như chạm tới sóng nước, nối liền các mũi đá của nhiều đỉnh núi. Ở nơi khác, giữa hai vách đá dựng đứng, người ta thường xuyên thấy thấp thoáng những hòn đảo và khối đá khác trên mặt biển sáng chói, hẹp dần rồi chia ra tứ phía.
Tàu Le Querne nối tiếp từ khe núi này sang khe núi khác. Tôi không nhìn thấy bờ nữa, cũng chẳng còn thấy Hòn Gai – giờ tôi đã ở giữa lòng những khúc quanh uốn lượn của vịnh, trôi giữa hai bức tường đá, mỗi phút một khung cảnh mới lại mở ra, lạ lùng, tuyệt diệu. Giữa những khối núi cao vút, nổi lên những hòn đảo nhỏ hơn, với hình thù kỳ quặc khiến người ta từ lâu đã ví chúng với đủ loài động vật.
Ở đây, người ta có cảm giác như đã trở về với thuở sơ khai của thế giới. Thật đấy, tôi sẽ chẳng ngạc nhiên chút nào nếu con rắn biển khổng lồ mà người ta đồn bỗng nhiên trồi lên trước mắt. Có người bảo vịnh Hạ Long buồn tẻ. Còn tôi, khung cảnh hoang sơ ngút ngàn hình khối này lại gợi lên cho tôi cảm giác vô tận. Và cảm giác ấy không khiến tôi buồn, mà trái lại, như thể tôi hòa tan vào chính nó. Thỉnh thoảng, người ta bắt gặp một chiếc thuyền câu nhỏ, đó là toàn bộ dấu vết của con người giữa biển trời này.
Lần này, con tàu thả neo trước một vách đá dựng đứng. Dù vậy, họ vẫn hạ thuyền con xuống nước, và tôi bước lên với lòng háo hức muốn biết các thủy thủ định đưa mình đi đâu khi họ chèo thẳng về phía bức tường đá khổng lồ kia. Khi gần chạm vào nó, một khe nứt dài đen kịt hiện ra – một mái vòm thấp đến mức vừa bước vào người ta đã phải cúi rạp mình xuống đáy thuyền. Những người chèo thuyền đổi mái chèo dài thay bằng những mái dầm ngắn như tấm ván giặt. Chúng tôi lặng lẽ trượt sâu vào bóng tối, nơi ánh sáng xám nhợt hắt lên làm những dải đá buông xuống từ trần hang gồ ghề hiện rõ. Tôi cảm nhận lối đi bắt đầu cong lại, rồi bất chợt trước mắt tôi, ngay dưới chân vách đá, mặt nước sâu bỗng hóa thành một màu xanh lục bảo sáng rực, như thể được thắp sáng bằng những bóng đèn điện dưới đáy. Thế rồi, chúng tôi tiến vào một cái hồ tròn, núi đá dựng đứng bao quanh hồ chính là ngọn núi mà chúng tôi vừa chui qua bên dưới. Đá xám với những vệt và rãnh chạy chéo nhau của nó trông như bị một bàn bào khổng lồ cào qua để lại vô số đường song song. Muốn sang vòng hồ thứ hai, chúng tôi thử luồn qua một khe hẹp hơn cả khe đầu tiên. Nhưng mũi thuyền lại quá cao, chỉ cách mặt nước chừng nửa mét, chạm vào trần đá, và chúng tôi không thể tiến thêm được nữa. Quanh tôi, trong ánh sáng nhòe, những khối đá nhô lên, những thạch nhũ rủ xuống. Dọc mép nước tĩnh lặng, những con hàu nhỏ bám ken dày và trên vòm hang mà tôi chạm được tay vào khi giơ lên, vỏ trai óng ánh ánh xà cừ hệt như những vệt sao vỡ trong bóng tối.
Tôi quay về con tàu Le Querne một lần nữa. Nó lại lên đường, lướt giữa muôn vàn đỉnh núi – cao thấp, dị dạng, khác nhau nhưng lại cùng thuộc về thế giới mang vẻ huyền ảo. Ở đây, từ biển với đá và chút ít cây cỏ, thiên nhiên đã tạo nên một vũ trụ riêng, hầu như chẳng còn dấu vết gợi lại thế giới của con người nữa.
Trước mắt tôi, dưới mặt trời, phía trên đường chân trời, nằm giữa bầu trời rực sáng, tôi tưởng như thấy những hòn đảo đang bay – ảo ảnh hiện ra giữa không trung. Dù mỗi hang động đều mang vẻ riêng, tôi không muốn miêu tả hết những nơi đã đi qua. Hang nào cũng có thể làm phông nền cho bức tranh Ngày phán xét cuối cùng – nhất là hang Sửng Sốt với những cột đá khổng lồ, những ống thạch nhũ sáng như pha lê, những dải tua buông xuống phủ kín vách đá, những mảng đá trắng nhợt nở rộ như hoa, những hốc sâu đến mức người ta phải dừng bước, không dám tiến thêm.
Nhiều lần, tiếng còi tàu vang lên gọi những người đánh cá mà ta thấy bóng thuyền của họ thấp thoáng xa xa. Họ chèo lại gần, ghé mạn tàu Le Querne, đưa lên những giỏ đầy cá màu xanh trắng, vằn, đốm – những con cá đẹp nhất trần gian. Trên mỗi chiếc thuyền mà cánh buồm cong như cánh dơi, căng trên tấm vải mỏng như màng bọc, là cả một gia đình sinh sống: ông bà, con trẻ, phụ nữ. Và kia là những người vợ – gan dạ, ngồi trên mũi thuyền để chèo; còn người chồng ngồi phía sau. Ở giữa, trên bếp lửa nhỏ bập bùng khói, người phụ nữ nhà quê đang nấu cơm.
Giờ đây, chúng tôi đang trôi trên vịnh Bái Tử Long, phần kéo dài của vịnh chúng tôi vừa đi qua, trông giống hệt vịnh trước. Ngày tàn dần. Mọi thứ lại càng rực rỡ hơn. Một thứ ánh sáng màu cam cháy bỏng đổ lên các vách núi, trên những tường đá lởm chởm cột gãy. Bóng tím của chúng chồng lên nhau từng lớp. Xa xa, các đảo nhỏ nhuốm màu tím sậm, hiện ra dưới bầu trời ánh hồng rồi xanh lục và xanh lam, mà thật nhạt làm sao, sắc xanh ấy…
[…]
Tối hôm ấy, con tàu Le Querne neo trong cảng Cẩm Phả, nơi phần lớn tàu hàng của người Nhật đến chở than từ Hòn Gai và các mỏ ven biển. Sáng hôm sau, tôi đã ở trong vịnh Hạ Long, giữa các lối thủy đạo và muôn đảo. Tàu dừng trước một hòn đảo dựng đứng, và viên thuyền trưởng – một người Bắc Kỳ như toàn thủy thủ tàu Le Querne – nói với tôi rằng ở đó có một hang rất đẹp. Trời ạ, hang động thì tôi đã thấy gần như chán rồi. Thế nhưng, tôi vẫn lên bờ và bước vào.
Ngay lập tức, hang này hiện ra khác hẳn những hang trước, gập ghềnh hơn, phức tạp hơn. Chúng tôi liên tục đi từ hang này sang hang khác, leo qua những khối đá chất chồng trên các hốc đen ngòm. Những cột đá khổng lồ nghiêng, rồi thẳng, rồi lại nghiêng, vươn lên tận trần hang cong vặn, nơi ánh sáng đỏ nhạt chỉ le lói soi qua từng khoảng. Lối đi ngày càng hẹp lại, và bây giờ, chúng tôi phải bám vào những phiến đá đổ khắp nơi để trèo lên. Cứ thế tiến lên mãi. Hết khoang này lại mở ra khoang khác, nối tiếp không ngừng.
Chúng tôi đã lang thang từ lâu. Mỗi bước đi, tôi đều tự nhủ rằng mình vẫn chưa thấy tảng đá hình tháp nhọn, hay khối đá phủ đầy những con bạch tuộc hóa thạch, hay những cụm kết tinh trông như bông súp lơ đâu. Rồi tôi bắt đầu nhận ra hai người thủy thủ bản xứ cầm đuốc đang đi tới đi lui tán loạn, quơ mấy bó tre đang cháy dở với vẻ rất bối rối. Một linh cảm thoáng hiện trong tôi: phải chăng họ đã lạc đường? Ban đầu, tôi cố xua ý nghĩ đó đi. Nhưng càng nhìn họ hối hả, hoang mang chạy khắp nơi, tôi càng tin rằng mình đã đoán đúng.
Những ngọn đuốc tre cháy gần hết. Chúng tôi chỉ còn ánh sáng chưa đầy 10 phút nữa. Vậy là chúng tôi vẫn tiếp tục đi, hay đúng hơn, tiếp tục lạc lối.

Không lâu sau đó, chúng tôi tới hang động cuối cùng, rất lớn. Ở đó, một luồng sáng yếu ớt lọt xuống qua một khe hở nhỏ trên đỉnh vòm. Sau một đoạn leo trèo gian nan, vượt qua một đống đá vụn chất cao như núi, chúng tôi cũng đến được lối mở ấy, đó chỉ là một khe nhỏ xuyên qua ngọn núi. Tôi bước ra ngoài, hít luồng không khí tự do, ngẩng lên nhìn ánh sáng của bầu trời. Cả ánh sáng và không khí đều khiến tôi thấy dễ chịu vô cùng. Chỉ có điều kém vui… chúng tôi đang ở gần đỉnh của một mỏm đá dựng đứng, chênh vênh cao vút so với mặt biển.
– Không có cách nào xuống được đâu – hai người thủy thủ nói.
Tôi bảo họ cố hết sức gọi người trên Le Querne. Nhưng con tàu ấy vẫn ở chỗ cũ – tức là bên kia đảo, quá xa để thủy thủ đoàn nghe thấy tiếng. Dẫu vậy, hai người vẫn hét thật to, gần như khản cổ. May mắn thay, có một chiếc thuyền tam bản nhỏ đang chèo gần đó. Nó tiến lại, từ xa nhìn chỉ như cọng rơm trên mặt nước xanh.
Rồi chúng tôi nhận ra thực chất có thể xuống được đến mép biển. Chuyến xuống núi ấy, dĩ nhiên, chẳng hề dễ dàng: chúng tôi lần mò qua những tảng đá ngăn cách bởi các hốc sâu, nơi bụi cây chen chúc và dây leo quấn quanh người, níu lấy chân. Nhưng ít ra, chúng tôi không gặp phải những vách đá dựng đứng hay chênh ra ngoài như tôi từng lo sợ, những thứ đó có thể chặn lối chúng tôi mãi mãi.
Ở dưới chân núi, giữa sỏi và đá, chiếc thuyền cập bến. Trên thuyền chỉ có một bà lão và một đứa bé. Thêm một đống củi nhỏ đang tàn dần, lửa sắp tắt. Hai người thủy thủ cầm lấy mái chèo, và chúng tôi lướt nhanh qua kênh nước, vòng quanh “kim tự tháp quỷ quyệt” mà ít phút trước tôi đã nghĩ mình sẽ lạc trong lòng nó mãi. Lạy chúa, trông nó cao và lớn biết bao! Chúng tôi phải mất một lúc lâu mới vòng hết được quanh nó, mà đúng hơn, chỉ nửa vòng thôi! Nghĩ mà xem, tôi đã đi xuyên qua nó từ chân lên tới tận gần đỉnh.■ (Hết)
Pierre Billotey
Lê Hằng Nga (dịch)