Giải phóng Buôn Mê Thuột: Một thắng lợi mang tầm chiến lược mở đầu cho Chiến dịch Tổng tấn công Giải phóng miền nam 30/4/1975

Nhân dịp kỷ niệm 44 năm Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, Tạp chí Phương Đông xin giới thiệu với bạn đọc một tài liệu do chính người Mỹ viết về chiến thắng Buôn Mê Thuột và sai lầm chiến lược của Nguyễn Văn Thiệu kéo theo sự sụp đổ nhanh chóng của chính quyền Việt Nam Cộng hòa và sự thất bại hoàn toàn của Mỹ trong cuộc chiến tranh Việt Nam. Tác giả của bài viết là Ray L. Bowers, một trung tá không quân Mỹ đã nghỉ hưu. Ông ta từng là Hoa tiêu trưởng của phi đội máy bay vận tải C-130 của Mỹ ở Việt Nam. Với cách nhìn của một sỹ quan không quân Mỹ đã trực tiếp tham gia cuộc chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam, tác giả đã tập hợp khá đầy đủ thông tin sự kiện và số liệu cụ thể về diễn biến sự sụp đổ của Chính quyền Sài Gòn và chiến thắng nhanh chóng của cách mạng Việt Nam trong chiến dịch mùa Xuân năm 1975, bắt đầu bằng chiến thắng Buôn Mê Thuột.

***

Vào đêm trước chiến thắng Vĩnh Long, Bộ Chính trị ở Hà Nội đã thông qua chiến lược 2 năm đầy quyết tâm gọi là các cuộc tấn công quan trọng với quy mô rộng lớn ở miền Nam trong năm 1975, tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc tổng tấn công và nổi dậy năm 1976. Ban Thường vụ Ủy ban quân sự Trung ương đã chuyển hóa quyết tâm chiến lược này thành các kế hoạch tấn công Buôn Mê Thuột – Một trung tâm dân cư quan trọng tại Tây Nguyên. Tướng Văn Tiến Dũng được điều vào vùng Nam Tây Nguyên của Việt Nam như là đại diện chỉ huy cấp cao của Hà Nội đã thiết lập Bộ chỉ huy của mình trong khu rừng phía Tây Buôn Mê Thuột. Tướng Dũng cho rằng Tướng Phạm Văn Phú chỉ huy lực lượng quân Nam Việt Nam ở vùng này có lẽ coi Kontum và Pleiku là những mục tiêu khả dĩ bị Cộng sản tấn công vì nó nằm gần căn cứ của cộng sản ở vùng ngã ba biên giới, có đường trực tiếp dẫn ra ven biển và có thế sẽ là trận chiến ác liệt như năm 1972. Tướng Dũng đã ra lệnh triển khai động binh và tác chiến nhiều hướng, trong khi đó vẫn bí mật triển khai lực lượng của mình để đạt được ưu thế về lực lượng tới mức 5 chọi 1 cho Buôn Mê Thuột. Các đơn vị bộ binh và thiết giáp đã triển khai vào các vị trí phía Tây mục tiêu, trong khi các đơn vị đặc công, nhỏ lẻ đã bí mật thâm nhập vào trong thành phố và vùng ven. Cuộc tấn công kéo dài một giờ đã khóa chặt tuyến đường nối giữa Pleiku và Buôn Mê Thuột.

Đại tướng Văn Tiến Dũng điện báo tin chiến thắng Tây Nguyên tháng 3/1975.

Ngay sau nửa đêm ngày 10/3, các xe tăng của cộng sản đã bắt đầu tiến vào Buôn Mê Thuột với tốc độ 25 dặm (40 km) /giờ. Các đơn vị đặc công công binh đồng loạt đốt cháy hai căn cứ sân bay ở phía đông thành phố. Ngay sau khi rạng sáng, các xe tăng đã tiến vào Trung tâm chỉ huy phía bắc thành phố. Các tuyến đường bị khóa chặt cũng với các cơ sở sân bay bị tấn công đã làm cho lực lượng bảo vệ thành phố không thể được tăng viện kịp thời. Tốc độ tấn công nhanh làm vô hiệu phương hướng của các đơn bị pháo và hạn chế hiệu quả của các cuộc không kích. Cho tới sáng ngày 11/3, các sỹ quan của tướng Dũng có thể báo cáo rằng “Trận đánh cơ bản đã được giải quyết” và tướng Dũng đã báo cáo Tướng Giáp rằng ông có ý định mở rộng các chiến dịch ra hướng Bắc. Khi cuộc chiến đang diễn ra ở phía Đông Buôn Mê Thuột, các máy bay trực thăng của chính quyền Sài gòn được tăng cường tiếp viện mặc dù phải chịu tổn thất nặng nề bới hỏa lực của quân đội Bắc Việt Nam.

Gặp gỡ tướng Phú và các sỹ quan chỉ huy cao cấp của quân lực Việt Nam Cộng hòa tại “Nhà Trắng” (Văn phòng Tổng thống) của mình ở vịnh Cam Ranh, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu ra lệnh rút quân khỏi Kon Tum và Pleiku để tập trung nỗ lực chính vào việc chiếm lại Buôn Mê Thuột. Quay trở lại Pleiku, tướng Phú đã truyền đạt vắn tắt lại cho Bộ chỉ huy của mình sau đó ra lệnh rút quân xuống vùng biển theo đường số 7 chưa được sửa chữa và đã lâu không sử dụng. Các cuộc rút quân khỏi Tây Nguyên diễn ra sau đó phần lớn thiếu sự lãnh đạo chỉ huy, dãy hàng dài binh lính và người dân đã trải qua nhiều khó khăn khủng khiếp trước khi tới được Tuy Hòa. Lực lượng cộng sản tiếp tục truy kích và tiêu diệt đám tàn quân tan rã. Trong khi đó các cuộc sơ tán bằng hàng không khỏi Pleiku cũng nhanh chóng trở nên rối loạn. Những người sợ hãi tranh nhau lên máy bay vận tải. Khi nhìn lại, quyết định của Thiệu rút lui khỏi Tây Nguyên bị phê phán chỉ trích rất nhiều. Tướng Dũng của Bắc Việt Nam cho rằng đó là sai lầm chiến lược. Nguyễn Cao Kỳ, nguyên Tư lệnh Không quân Việt Nam Cộng hòa viết rằng Thiệu nên di chuyển từ Pleiku về Buôn Mê Thuột để bao vây mai phục khóa chặt lực lượng Bắc Việt. Nhưng lệnh rút quân có thể ít nguy hại hơn là việc thực hiện nó một cách rối loạn.

Trong tháng 3 năm 1975, lực lượng của cộng sản ở các tỉnh phía Bắc từ Quảng Trị đã tiến về hướng Nam từ Quảng Trị và từ các vùng rứng núi phía Đông tiến về Huế. Sự kháng cự của quân lực Việt Nam Cộng hòa rất yếu ớt, một phần do quyết định rút các sư đoàn chủ lực trước đó của quân lực Việt Nam Cộng hòa. Lực lượng thủy quân lục chiến của Việt Nam Cộng hòa ở Huế và khu vực phía Bắc Huế được lệnh thay thế các lực lượng lính dù ở Đà Nẵng. Kết quả là một cuộc tháo chạy rối loạn của lực lượng dân sự và binh lính bằng đường bộ, đường biển và máy bay trực thăng. Sự rối loạn nhanh chóng bao trùm Đà Nẵng. Hàng ngàn người đã tháo chạy bằng đường biển. Cuộc di tản bằng đường không cũng gây ra cảnh hỗn loạn tương tự như ở Pleiku. Chuyến bay cuối cùng khỏi Đà Nẵng là chuyến bay của Hãng vận tải Hàng không American Boeing 727 đã cất cánh ngày 29/3, chở 300 người, chủ yếu là binh lính. Những đám đông hỗn loạn và pháo kích của cộng sản làm cho các chuyến bay không thể tiếp tục. Huế và Đà Nẵng vì vậy cũng thất thủ sau khi kháng cự yếu ớt hoặc chẳng có sự kháng cự nào mặc dù được cho là được bảo vệ bởi 100 ngàn quân. Như ở Tây Nguyên, kỷ luật và nghĩa vụ quân nhân trong nhiều trường hợp bị coi là hàng thứ hai sau sự an toàn của các cá nhân và gia đình họ.

Chuẩn bị tiến về Sài Gòn 

Ở Tây Nguyên, lực lượng cộng sản chiến thắng trong lúc đang phải giải quyết việc quản lý các tỉnh mới “giải phóng”, đã đồng thời triển khai lực lượng tiến về bờ biển phía Đông. Lần lượt các tỉnh và các căn cứ ven biển bị thất thủ: Tuy Hòa, Nha Trang và (3/4) Vịnh Cam Ranh.

Hàng chục nghìn người tị nạn đã chạy ra đảo Phú Quốc bằng các tàu của Mỹ và các tàu khác, và rất nhiều người đã bỏ mạng. Máy bay vận tải chở người tị nạn và hàng tiếp tế. Các tin đồn về các cuộc đảo chính và các cuộc thương lượng chính trị đã lan truyền trong cả ở những vùng vẫn còn dưới sự kiểm soát của chính quyền Sài Gòn. Thiệu đã phản ứng với tuyên bố khẳng định mục tiêu vững chắc và cho bắt thành viên của các tổ chức đối lập phi cộng sản.

Hội nghị ở Hà Nội ngày 24/3, Bộ Chính trị kết luận rằng thời cơ nhanh chóng kết thúc chiến tranh đã tới. Ngày hôm sau tướng Dũng được lệnh tiến thẳng về Sài Gòn. Tốc độ tiến quân được xem là rất quan trọng và hy vọng sẽ chiếm được thành phố Sài Gòn trước mùa mưa khoảng hai tháng. Kế hoạch của cộng sản tiến về Sài Gòn là kế hoạch tổng hợp và đồng bộ. Các lực lượng ở Tây Nguyên đã chuyển hướng hành quân, vượt qua 6 con sông tiến về phía Nam. Trong đầu tháng 4 các xe tải chất đầy lính và thiết bị từ Buôn Mê Thuột tiến về Lộc Ninh. Các lực lượng khác từ các tỉnh phía Bắc đã đổ về phía Nam dọc theo vùng ven biển và các tuyến đường nội địa trong khí thế chiến thắng quân sự. Từng đoàn người hành quân dưới sự bảo vệ của lực lượng pháo phòng không. Các tàu thuyền cộng sản chở người và đồ tiếp tế đã cập bến vịnh Cam Ranh. Máy bay vận tải hạ cánh ở Đà Nẵng, Kon Tum và nhiều nơi khác.

Các nhà lãnh đạo cộng sản theo dõi rất sát những tín hiệu động thái mà các đơn vị không quân Mỹ ở Thái Lan có thể tham gia vào chiến dịch. Chính quyền Ford bị điều luật điều chỉnh Fulbright tháng 7 năm 1973 phủ quyết các khoản tài trợ cho các hoạt động chiến đấu của quân đội Mỹ ở Đông Dương. Do không khí dư luận trên cả nước Mỹ nên mọi yêu cầu của Tổng thống Ford về điều binh các đơn vị không quân Mỹ chắc chắn bị từ chối. Thay vào đó, Ford chỉ thúc giục thông qua quỹ đã yêu cầu từ đầu hồi tháng Giêng: 300 triệu đô la viện trợ quân sự cho Sài Gòn và 222 triệu đô la cho Phnom Penh.

Giải phóng Buôn Mê Thuột ngày 10/3/1975 mở đầu Chiến dịch Tây Nguyên

Dư luận công chúng Mỹ phản đối sự can thiệp tham chiến

Kết quả thăm dò của Gallup công bố tháng 3 kết luận rằng 78 % dư luận công chúng Mỹ phản đối việc tiếp tục trợ giúp cho các nước Đông Nam Á. Các nghị sỹ đều thống qua ý kiến đã được nhất trí trước đây về những yêu cầu đòi hỏi viện trợ bổ sung. Hạ nghị sỹ Paul Mc Closky, người phản đối lâu dài sự tham gia chiến tranh của Mỹ, đã cho rằng: Viện trợ có hiệu quả nên dành cho việc bảo vệ những người Cambodia thoát khỏi bạo lực rõ ràng đang diễn ra  trong các trại tập trung sau chiến thắng của lực lượng nổi dậy. Đầu tháng 3, nhóm các nghị sỹ đảng Dân Chủ của cả Thượng viện và Hạ viện đã biểu quyết phản đối yêu cầu của Tổng thống Ford. Một số thượng nghị sỹ còn bày tỏ nhận thức thống nhất của cả nước Mỹ rằng việc tiếp tục viện trợ sẽ chỉ kéo dài sự giết chóc và thất bại là không tránh khỏi. Tướng Westmoreland, nghỉ hưu ở South Carolina, đã lên tiếng có vẻ rất lạc lõng khi ủng hộ việc khôi phục các cuộc không kích. Thất bại các yêu cầu viện trợ tiếp đã phản ánh rõ quyết tâm của Mỹ đứng ngoài cuộc chiến đã tạo thêm một cú đánh giáng vào tinh thần và ý chí kháng cự của quân lực Việt Nam Cộng hòa.

Chính quyền Mỹ khăng khăng đòi hỏi phê duyệt quỹ viện trợ bổ sung, Henry Kissinger, là Bộ trưởng Ngoại giao, khi bị Ủy ban Chuẩn chi của Quốc hội dồn ép vào ngày 15/4 cũng không đưa ra được bảo đảm rằng quỹ viện trợ đó có thể ổn định được tình hình chiến sự.

Quân ngụy ở Buôn Ma Thuột ra hàng ngày 10/3/1975

Các cuộc di tản đường không của những người Việt Nam, người Mỹ và người nước ngoài khác đã được triển khai từ những tuần đầu tháng 4, vì vậy đã giảm bớt được số người đòi hỏi được vận chuyển vào giờ phút cuối của cuộc di tản. Cho tới ngày 19/4, tổng số người di tản mới đạt được 5000 người, quá xa với con số 170.000 người Việt Nam tị nạn theo số lượng dư đoán của một số người Mỹ. Trong thời gian này, các nhà chức trách miền Nam Việt Nam cũng đã nới lỏng các thủ tục xuất cảnh nên cũng làm tăng lên dòng người ra đi. Các máy bay vận tải C-130 và C-141 của không quân Mỹ cũng tham gia vào chiến dịch quy mô lớn chuyển chở người di tản  tới căn cứ Clark ở Philippines để vận chuyển tiếp tới các trại ở Guam và Wake. Ngày 26, 27/4 có 6000 người rời khỏi Sài Gòn trên 46 chuyến bay C-130 và 28 chuyến bay C-141. Nhân viên quân sự Mỹ là người điều hành quá trính xem xét, sắp xếp người lên máy bay. Hoa Kỳ cũng nhận được một ít sự hỗ trợ của thế giới tự do trong các hoạt động nhân đạo này.

Thiệu từ chức khi cộng sản đã tiến gần

Trong khi cuộc tiến công của cộng sản vào Sài Gòn đã đạt tới những giai đoạn cuối cùng, cuộc chiến ác liệt diễn ra ở Xuân Lộc, cách Sài Gòn khoảng 30 dặm (48 km) đã làm cô lập một số đơn vị tinh nhuệ còn lại của chính quyền Sài Gòn. Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu tuyên bố từ chức trên truyền hình quốc gia vào ngày 21/4 với lời chỉ trích đau đớn đầy nước mắt rằng nước Mỹ đã bỏ rơi Nam Việt Nam và công khai lời hứa hẹn cam kết trước đây của Nixon. Thiệu được thay thế bởi Phó Tổng thống già, kém năng lực Dương Văn Minh, trong khi tướng Nguyễn Cao Kỳ có khả năng lôi cuốn vẫn nằm bên lề, đang nói về việc lãnh đạo bảo vệ Sài Gòn giống như là bảo vệ thành phố Stalin-grad.

Diễn biến nhanh chóng của tình hình chiến sự, pháo kích và hỏa lực phòng không của cộng sản đã buộc phải phải dừng hoạt động của máy bay C-141 sau các phi vụ ngày 27/4. Máy bay C-130 tiếp tục hạ cánh mặc dù sân bay Biên Hòa đã bị đốt cháy. Tình hình sân bay Tân Sơn Nhất xấu đi nhanh chóng. Cuộc tấn công của máy bay Cessna A-37 Dragonfly, trước đó là máy bay của Mỹ, do phi công Bắc Việt điều khiển tiếp tục phá hỏng sân bay Tân Sơn Nhất. Ngay sau nửa đêm 29/4 các khẩu pháo 130 mm mới bố trí của quân Bắc Việt đã khai hỏa vào sân bay Tân Sơn Nhất phá hỏng một số máy bay, trong đó có cả C-130 của không quân Mỹ. Ngay sau khi bình minh, pháo kích và các đám đông thực sự không kiểm soát được đã buộc Đại sứ Graham Martin phải ra quyết định đau đớn là điều các máy bay C130 đang chờ đợi trên không bay đi và bắt đầu chiến dịch di tản bằng máy bay trực thăng.

Phút cuối cùng rút khỏi Sài Gòn

Trong suốt 18 giờ của Chiến dịch Gió mùa “Operation Frequent”, các phi đội máy bay trực thăng chủ yếu là của Thủy quân lục chiến Mỹ và  máy bay trực thăng H-53 và H-46s của không quân Mỹ đã chuyên chở ra các tàu ngoài khơi tổng số khoảng 1.373 người Mỹ, 6.422 người không phải là người Mỹ và 989 quân nhân thủy quân lục chiến Mỹ được bố trí ở ngoài để bảo vệ quá trình bố trí người lên máy bay. Nhiều người di tản di chuyển trong các đoàn xe tới các điểm đón bốc người ở Đại sứ quán Mỹ ở Tân Sơn Nhất đã bị đám cướp bóc và binh lính Việt  Nam Cộng hòa quấy nhiễu. Máy bay UH-1s Air American đã bốc một số người từ các địa điểm rải rác trong thành phố. Các máy bay chiến đấu của hải quân và không quân Mỹ, bao gồm cả máy bay “Wild Weasel” chống SAM mới triển khai tới Korat, Thái Lan cũng bay lượn trên đầu, 2 chiếc F-4s cũng đã tiêu diệt trận địa phòng không 57 mm của đối phương ở vị trí cách Sài Gòn 10 dặm (16 km) về phía Bắc Sài Gòn vào buổi chiều muộn. Đại sứ Martin đã phải dừng dòng người Mỹ lại để đưa đi di tản càng nhiều người Việt Nam càng tốt. Mặc dù một nửa các chuyến bay được thực hiện vào ban đêm nhưng không có mất mát thương vong nào xảy ra. Chiến dịch Gió mùa kết thúc ngay sau khi Martin ra đi, ông ta bước lên máy bay chỉ sau khi có lệnh yêu cầu bắt buộc của Nhà Trắng. Những người thủy quân lục chiến cuối cùng rời khỏi nóc nhà đại sứ quán Mỹ sau bình minh ngày 30/4, khi những kẻ cướp bóc đã vào vơ vét tài sản trong các tầng dưới của tòa nhà sứ quán Mỹ.

Hàng chục nghìn người Việt Nam đã rời bỏ đất nước ra đi bằng đường biển. Nhiều người được chuyển lên các tàu hải quân Mỹ ở trên biển. Rất nhiều người đã tới Philippines hoặc Thái Lan. Một số người đã trốn thoát trên các máy bay trực thăng hoặc máy bay vận tải. Có khoảng 130.000 người tị nạn chạy khỏi Việt Nam mùa xuân năm 1975. Phần lớn số họ bắt đầu cuộc sống mới ở Mỹ, khoảng hơn 1.000 người định cư ở các nơi khác và ít nhất 1.500 người, nhiều người trong số có gia đình còn ở lại phía sau đã quay trở lại Việt Nam.

Sau “cái đêm của những máy bay trực thăng” , Sài Gòn vẫn giữ được tương đối bình yên. Vào giữa sáng ngày 30/4, Tướng Dương Văn Minh, vị Tổng thống chỉ được hai ngày đã kêu gọi các lực lượng Việt Nam Cộng hòa ngừng chiến. Các binh lính mất ý chí nhanh chóng đã vứt bỏ quân phục và nhiều người trong số họ đã tham gia vào các hoạt động cướp bóc. Chỉ một vài tiếng nổ rời rạc vang lên khi xe tăng quân đội Bắc Việt đang ầm ầm tiến vào Sài Gòn, 5 giờ sau khi chuyến bay trực thăng cuối cùng cất cánh, các xe tăng đã tràn qua cổng Dinh Độc lập. Sự sụp đổ của chính quyền Sài Gòn thật may mắn được diễn ra một cách không đổ máu.

***

Tài liệu trên đây của chính người Mỹ cũng đã góp phần làm nổi bật nghệ thuật quân sự tài tình của Đảng ta trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975. Yếu tố bất ngờ và nghệ thuật sử dụng lực lượng đã tạo nên chiến thắng Buôn Mê Thuột mang tính đột phá về chiến dịch, chiến lược. Trận đánh Buôn Mê Thuột là đòn điểm huyệt bất ngờ làm đảo lộn thế phòng thủ của địch ở Tây Nguyên, buộc địch phải rút khỏi Kontum và Pleiku, dẫn đến hàng loạt sai lầm khác tạo điều kiện cho quân đội ta giải phóng toàn bộ Tây Nguyên và Nam Trung Bộ. Buôn Mê Thuột là trận đánh mở màn cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đại thắng mùa xuân 1975./.

Theo Tạp chí Phương Đông

BÌNH LUẬN

BÀI VIẾT LIÊN QUAN