Chiến tranh Thế giới thứ II nổ ra đã hình thành phe Đồng Minh gồm Liên Xô – Mỹ – Anh – Pháp… chống phát xít Đức, Ý, Nhật.
Kết thúc cuộc Chiến tranh Thế giới thứ II, các nước lớn như Mỹ – Liên Xô là đồng minh chống phát xít đã bàn nhau phân vùng ảnh hưởng trên thế giới. Khi đó Mỹ có vai trò lãnh đạo các nước Tây Âu – Bắc Âu phi cộng sản, Liên Xô có vai trò lãnh đạo các nước Đông Âu do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Vùng Trung Đông chịu sự ảnh hưởng của Anh và Pháp.
Một trật tự như vậy không tồn tại được bao lâu. Khi Hoa Kỳ phát hiện Liên Xô âm thầm mở rộng ảnh hưởng ở châu Âu, châu Phi, Trung Quốc – một nước Xã hội Chủ nghĩa (XHCN) ở châu Á cùng phe với Liên Xô chống đế quốc. Mỹ đã sớm phát hiện phe XHCN do Liên Xô lãnh đạo là nguy cơ đe dọa quyền lợi và an ninh của Mỹ trên toàn cầu. Từ đó, những cam kết sau kết thúc chiến tranh giữa Liên Xô với Mỹ bị đổ vỡ. Mỹ đã nhanh chóng lôi kéo các nước Tây Âu, Canada, Nhật Bản, Hàn Quốc, một số nước Đông Nam Á và Mỹ La-tinh thành một liên minh để chống lại hệ thống các nước do Liên Xô lãnh đạo. Cục diện đối đầu giữa hai hệ thống xuất hiện: Một bên tư bản phương Tây do Mỹ đứng đầu, một bên là liên minh các nước XHCN do Liên Xô đứng đầu. Với đường lối thù địch, hai phe thực hiện tổng hợp các biện pháp đối đầu về chính trị, quân sự, kinh tế và tư tưởng ngày một gia tăng và tạo ra một hình thái chiến tranh kiểu mới gọi là Chiến tranh lạnh.
Trong cuộc chiến tranh này, cả Hoa Kỳ và Liên Xô đã xây dựng được lực lượng đồng minh đông đảo và không phe nào vượt trội lúc ban đầu. Nhưng với sức mạnh của Liên Xô và với mục tiêu chống đế quốc giành độc lập, nhiều quốc gia trung lập, gọi là khối Không liên kết, đã nghiêng về phe XHCN do Liên Xô đứng đầu giương ngọn cờ chống đế quốc, chống xâm lược. Đặc biệt, cuộc chiến tranh Mỹ – Trung – Triều và cuộc chiến tranh Mỹ gây ra ở Việt Nam đã tăng sự ủng hộ đối với Liên Xô, Trung Quốc, khiến Mỹ vô cùng lo ngại.
Tuy nhiên, Liên Xô đã không tận dụng được lợi thế này, với nhiều chính sách đối nội, đối ngoại sai lầm diễn ra trong 45 năm nắm quyền, nhiều nước ở Đông Âu như Tiệp Khắc, Hungary, Ba Lan… đòi độc lập – ly khai với Liên Xô bằng các cuộc bạo loạn vào cuối những năm 50; và cuối những năm 80, cuộc chạy đua vũ trang với Mỹ đã tiêu hao tiềm lực của quốc gia, cộng với việc sai lầm trong đường lối phát triển kinh tế đã kéo Liên Xô khủng hoảng nghiêm trọng. Trong khi đó, Trung Quốc – người bạn đồng minh lớn nhất đã bất đồng nhiều vấn đề trong nội khối, đến mức coi nhau như kẻ thù, đã tách khỏi Liên Xô, nguy hiểm hơn là hợp tác với Mỹ để chống Liên Xô vào đầu những năm 70, kết cục Liên Xô suy yếu, tan rã vào đầu những năm 90, hệ thống xã hội chủ nghĩa hùng mạnh do Liên Xô đứng đầu cũng tan rã từ đây. Thế giới chuyển thành một cực do Mỹ đứng đầu và kéo dài cho đến đầu thế kỷ XXI.
Với niềm kiêu hãnh làm Liên Xô sụp đổ và tan rã hệ thống XHCN, Mỹ không còn đối trọng và coi mình là lãnh đạo thế giới. Trong thập kỷ 90, Mỹ đã thực hiện chính sách áp đặt giá trị Mỹ về dân chủ, nhân quyền để thâu tóm thế giới. Trong đó, tiếp tục làm suy yếu Nga và các nước Đông Âu mới tách khỏi hệ thống XHCN. Đặc biệt là những quốc gia không chịu lệ thuộc vào Mỹ, trong đó là các nước Hồi giáo ở Trung Đông. Mỹ đã ủng hộ các nhóm chống đối ở nước này gây ra các cuộc bạo loạn, lật đổ chế độ đang nắm quyền ở Nam Tư, ở Ukraine, ở Ả Rập, Lybia, Syria, Iraq… bằng các cuộc bạo động gọi là các cuộc Cách mạng màu, cách mạng hoa ở các nước này. Mỹ đã tấn công Iraq, tiêu diệt ông Saddam Hussein với chứng cứ giả tạo nước này sử dụng vũ khí hạt nhân. Đồng thời đẩy Iraq vào tình thế rối loạn, coi Mỹ là kẻ thù. Trong hơn 10 năm thực hiện vai trò một siêu cường, Mỹ không khuất phục được các quốc gia không theo Mỹ ở Trung Đông và Nam Âu. Sự đổ vỡ các chính thể đã lãnh đạo hàng chục năm ở các nước hồi giáo như Ả Rập, Iraq, Syria, Afghanistan đã gây rối loạn ở vùng này. Nhiều cuộc chiến tranh đẫm máu xảy ra giữa các quốc gia trong vùng, đặc biệt làn sóng Hồi giáo chống Mỹ ngày càng tăng, mà đỉnh cao là sự kiện khủng bố 11/09/2001 xảy ra tại New York gây ra một thảm họa cho nước Mỹ gây rung động thế giới. Vai trò, sức mạnh của Mỹ đã bị vùi dập từ sự kiện thảm họa này.
Sự ảo tưởng sức mạnh của Mỹ với mục tiêu nắm cả thế giới đã dẫn tới sai lầm trong chính sách đối ngoại của hai đời Tổng thống Mỹ là Clinton và Bush. Trong hơn 10 năm nắm quyền, nước Mỹ đã suy giảm toàn diện về chính trị, đối ngoại, kinh tế và quốc phòng. Khẩu hiệu nước Mỹ đưa ra chống chủ nghĩa khủng bố: “Ai không ủng hộ chống khủng bố là kẻ thù của Mỹ” nhằm tập hợp lực lượng do Mỹ lãnh đạo, song đã không nhận được sự ủng hộ của nhiều nước, kể cả đồng minh của Mỹ, đặc biệt nhiều quốc gia đã quay mặt với Mỹ khi hoạt động khủng bố vẫn gia tăng theo từng năm, do vậy, liên minh chống khủng bố không đạt như Mỹ mong muốn.
Trong lúc Mỹ suy yếu thì Trung Quốc nổi lên vào đầu thế kỷ XXI. Trong 30 năm Mỹ coi Trung Quốc là đối tác quan trọng để chuyển hóa chính thể nước này theo các giá trị dân chủ của phương Tây. Hoa Kỳ đã giành cho Trung Quốc sự ưu ái đặc biệt trên nhiều lĩnh vực. Trung Quốc khôn khéo tận dụng điều kiện thuận lợi này đã nhanh chóng nổi lên hùng mạnh về kinh tế, khoa học và quốc phòng, từ đó vươn ra thế giới.
Trung Quốc đã có mặt ở nhiều quốc gia châu Âu, châu Phi, Mỹ La – tinh để cạnh tranh với Mỹ. Đặc biệt, Trung Quốc tranh chấp biên giới với nhiều quốc gia, nghiêm trọng nhất là mở rộng biển của Trung Quốc theo đường lưỡi bò chiếm trọn Biển Đông, gây ra xung đột chủ quyền với nhiều quốc gia Đông Nam Á, trong đó Việt Nam là trọng điểm. Nhưng phải đến khi Trung Quốc gửi tín hiệu tới Hoa Kỳ về sự trỗi dậy, quan hệ hai nước được xác định là quan hệ giữa “hai nước lớn kiểu mới”, Mỹ mới tỉnh ngộ. Các quan chức Nhà Trắng đánh giá Mỹ đã sai lầm nghiêm trọng về chiến lược giúp cho Trung Quốc mạnh lên như ngày nay. Và không có sự thay đổi nào như ảo tưởng của Mỹ. Trung Quốc vẫn là nước XHCN do Đảng Cộng sản Trung Quốc lãnh đạo, có nền chính trị vững chắc, trở thành cường quốc cạnh tranh với Mỹ về vai trò lãnh đạo thế giới. Nhưng phải mất vài năm, Hoa Kỳ mới chuyển trạng thái quan hệ với Trung Quốc từ hợp tác chiến lược sang chiến lược ngăn chặn, coi Trung Quốc là nguy cơ đe dọa an ninh nước Mỹ; đó là bước ngoặt quan trọng trong chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ. Nhưng các nước đồng minh của Mỹ trong khối EU và châu Á không nghĩ như Mỹ. Trong nhiều năm họ đã đi sâu vào thị trường Trung Quốc, hưởng nhiều lợi ở nước này và đang có nhiều dự án đầu tư dài hạn ở Trung Quốc nên đã không mặn mà với chính sách chống Trung Quốc Mỹ đưa ra mà giữ cân bằng với hai nước lớn này.
Ở châu Á – Thái Bình Dương, nơi Mỹ xác định là khu vực sống còn – là nơi đụng độ trực tiếp với Trung Quốc – khi Tổng thống Obama nắm quyền, nước Mỹ cũng không tạo được lực lượng đủ mạnh ở khu vực và thế giới. Về ngăn chặn sự trỗi dậy của Trung Quốc – chính sách xoay trục sang Thái Bình Dương – tập hợp sức mạnh của Mỹ, Úc, Nhật, Ấn Độ cũng chỉ dừng lại ở những tuyên bố, chưa có một chương trình hoạt động cụ thể ngăn chặn Trung Quốc. Chính quyền Obama mở các chiến dịch ngoại giao với các nước châu Á, làm mới quan hệ với các đồng minh cũ như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Philippines, Singapore, Thái Lan… và nâng tầm hợp tác với Malaysia, Indonesia, Việt Nam để hướng tới là đồng minh tiềm tàng của Mỹ. Nhưng vì chính sách thiếu quyết đoán và không rõ ràng của Obama đối với Trung Quốc nên chưa tạo được mặt trận mới như Mỹ mong muốn. Sự kiện Obama không thực hiện yêu cầu của Philippines khi nơi này bị Trung Quốc chiếm bãi Scarborough năm 2016 khiến cho quan hệ hai nước căng thẳng. Philippines chuyển hướng hòa dịu với Trung Quốc để tránh áp lực với nước này.
Sự kiện Mỹ không thực hiện nghĩa vụ bảo vệ đồng minh Philippines khi bị tấn công khiến cho các nước trong khu vực thiếu tin cậy vào chiến lược của Mỹ ở khu vực nên họ tìm con đường riêng cho mình.
Đáng chú ý, Hiệp định Thương mại châu Á – Thái Bình Dương do Mỹ đề xướng gồm 12 nước tham gia được coi là xương sống của chiến lược xoay trục của Obama. Về hình thức là Hiệp định Thương mại nhưng hiệp định này liên kết hầu hết các nước có tiềm lực kinh tế lớn, quân sự hùng mạnh ở châu Á, sẽ có ý nghĩa rất lớn để Mỹ thực hiện chiến lược ngăn chặn sự trỗi dậy của Trung Quốc ở khu vực. Nhưng chính quyền Obama đã thất bại, Quốc hội Hoa Kỳ không phê duyệt và sau đó đã bị ông Donald Trump rút khỏi Hiệp định này ngay sau ngày nhậm chức Tổng thống Mỹ (năm 2017).
Ông Donald Trump làm Tổng thống Hoa Kỳ năm 2017 với khẩu hiệu “Nước Mỹ trên hết” (vì nước Mỹ) đã khuynh đảo thế giới. Ông đã công khai tuyên chiến với Trung Quốc, xác định Trung Quốc là kẻ thù, là mối đe dọa an ninh của nước Mỹ. Ông cũng phản đối, lên án Trung Quốc tiến hành các hoạt động phi pháp độc chiếm Biển Đông, đe dọa và gây áp lực đối với Đài Loan cùng các quốc gia đồng minh như Nhật Bản và Hàn Quốc. Ông Trump cũng đã thi hành chính sách cứng rắn đối với Trung Quốc, đẩy tranh chấp thương mại thành cuộc chiến tranh kinh tế giữa hai nước. Tăng cường lực lượng hải quân, không quân ở châu Á – Thái Bình Dương, tăng cường các hạm đội hoạt động trên Biển Đông bằng các cuộc tập trận để thách thức, đe dọa Trung Quốc.
Ông Trump tiếp nhận chính sách xoay trục sang châu Á – Thái Bình Dương của ông Obama, nhưng có điều chỉnh chiến lược mới là Thái Bình Dương – Ấn Độ Dương, lập ra một liên minh mới gọi là “Tứ giác kim cương” gồm Mỹ, Úc, Ấn Độ, Nhật Bản: đều là những nước lớn có tiềm lực về quân sự, kinh tế hùng mạnh và được coi là xương sống nhằm đối phó với Trung Quốc ở hai đại dương. Nhóm này đã vạch ra các kế hoạch phối hợp quân sự ở 4 nước hoạt động ở Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương, trong đó củng cố các căn cứ quân sự ở Nhật, Hàn Quốc và Đài Loan… Tuy nhiên, sự gắn kết 4 nước không theo ý muốn của Mỹ. Trừ Nhật Bản, các nước còn lại ở vòng ngoài rất xa Trung Quốc. Với sự tính toán chiến lược đảm bảo lợi ích của từng nước, họ đều tính đến thị trường rộng lớn, hấp dẫn của Trung Quốc. Mặt khác, với các chính sách “Nước Mỹ trên hết”, Trump đã ép các nước đồng minh Nhật Bản, Hàn Quốc, Úc phải bỏ ra hàng tỷ đô la để chi cho quân đội Mỹ đồn trú ở các nước này, khiến cho các đồng minh của Mỹ và các thành viên “Tứ giác kim cương” không mặn mà với các chính sách ông Trump đã áp dụng chống Trung Quốc.
Để tập trung mặt trận chống Trung Quốc, chính quyền Trump đã rút quân ở nhiều nước Trung Đông là đồng minh hoặc thân Mỹ. Điều này đã tạo ra khoảng trống cho các nhóm khủng bố gây ra các cuộc chiến đẫm máu khi cái ô của Mỹ đối với Trung Đông không còn, các nước trong vùng sẽ quay lưng lại Mỹ và tìm kiếm chỗ dựa khác, nhất là Trung Quốc và Nga.
Không chỉ các nước Trung Đông khủng hoảng lòng tin vào Mỹ, các nước EU cũng không nằm ngoài vòng xoáy này. Với khẩu hiệu “Nước Mỹ trên hết”, Trump đã cho thi hành nhiều chính sách đánh vào các Đồng minh châu Âu, không khác gì áp dụng đối với Trung Quốc, khiến cho các nước như Đức, Pháp… điêu đứng về kinh tế. Trump cũng chi phối mạnh mẽ với Liên minh quân sự NATO. Trump giảm đóng góp tài chính cho khối này và gây áp lực các nước thành viên đóng góp tài chính nhiều hơn cho khối này để chi phí cho các hoạt động quân sự của Mỹ. Trump cũng khẳng định các nước châu Âu phải lo tự bảo vệ mình. Trump quyết định rút bớt quân Mỹ ở Đức và Ba Lan, chỉ để lại một lực lượng nhỏ. Chiều ngược lại, các nước châu Âu vốn là đồng minh lâu đời của Mỹ cũng đã ban hành nhiều chính sách trả đũa và trừng phạt Mỹ về kinh tế, xem xét lại mối quan hệ hai bờ đại dương.
Thủ tướng Đức, Tổng thống Pháp và nguyên thủ nhiều nước lên tiếng phản đối mạnh mẽ chính sách của Trump đối với Liên minh châu Âu và tuyên bố phải từ bỏ chiếc ô của Mỹ. Châu Âu phải tìm lối đi riêng cho mình, không phụ thuộc vào Mỹ – thể hiện rõ nhất là EU đã xác định Trung Quốc là đối tác quan trọng về kinh tế. Điều này đi ngược với chính sách chống Trung Quốc của Donald Trump. Chính quyền Trump bị cô lập khi quyết định rút khỏi Cam kết Paris chống Biến đổi Khí hậu.
Nhìn lại những diễn biến lịch sử quan hệ của Hoa Kỳ kể từ khi kết thúc Chiến tranh lạnh cho tới nay, chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ đã không tạo được vị thế của nước Mỹ trên trường quốc tế. Sự ảo tưởng về sức mạnh, sự sai lầm về chiến lược quốc tế và sự bất ổn về nội bộ đã kéo nước Mỹ suy giảm toàn diện. Mỹ không còn đủ mạnh, đủ uy tín để tập hợp đồng minh như trước. Với một thế giới đa cực như hiện nay, để tạo được sự đồng thuận với chiến lược ngăn chặn sự trỗi dậy của các nước lớn là sự không tưởng.
Trong 4 năm cầm quyền, Trump để lại một gia sản ngổn ngang cho nước Mỹ. Kinh tế suy giảm, nội bộ bất ổn, đối tác và đồng minh nghi ngờ, xa lánh, khẩu hiệu “Nước Mỹ trên hết” đã làm cho nước Mỹ bị cô lập.
Ông Biden lên nắm quyền Nhà Trắng năm 2021 đã hiểu rõ hoàn cảnh của nước Mỹ, để khôi phục vai trò của Hoa Kỳ đối với cộng đồng quốc tế không dễ diễn ra một sớm một chiều. Ông Biden vẫn theo đuổi mục tiêu vì nước Mỹ; vẫn coi Trung Quốc là quốc gia gây nguy hại cho an ninh của Mỹ. Sau một năm nắm quyền, ông Biden chưa có dấu hiệu gì thay đổi chính sách chống Trung Quốc của ông Trump. Nhưng khác với ông Trump, Biden có những bước đi khôn khéo hơn: bằng cách lên án những vi phạm của Trung Quốc, hướng dư luận quốc tế nhìn nhận Trung Quốc là nguy cơ đe dọa an ninh toàn cầu. Biden tái tham gia các tổ chức quốc tế, tham gia giải quyết những vấn đề đe dọa an ninh toàn cầu như chống dịch Covid-19, cung cấp vaccine cho các nước, tham gia trở lại chương trình chống biến đổi khí hậu ở Hội nghị COP26; Hoa Kỳ điều chỉnh chính sách thuế quan, thương mại mà chính quyền Trump áp dụng với các nước đồng minh châu Âu và ủng hộ quan điểm của Liên minh châu Âu – NATO, lên án và trừng phạt Nga, ủng hộ Ukraine chống Nga. Mỹ lên án và cổ vũ các nước đồng minh lên án Trung Quốc ăn cắp công nghệ phục vụ cho quốc phòng Trung Quốc, đàn áp người Duy Ngô Nhĩ ở Tân Cương, vấn đề độc lập của Hồng Kông, đặc biệt là các hoạt động lấn chiếm phi pháp ở Biển Đông, Biển Hoa Đông, đe dọa chủ quyền các quốc gia trong vùng và an ninh vận tải quốc tế, để áp dụng biện pháp trừng phạt kinh tế Trung Quốc. Mỹ cũng sử dụng vấn đề Đài Loan đòi chủ quyền để lôi kéo dư luận lên án, phản đối Trung Quốc dùng vũ lực chiếm Đài Loan và tạo cớ đưa quân đội Mỹ tới Biển Đông và Hoa Đông.
Với sự nỗ lực của Hoa Kỳ, trong năm 2021 ông Biden đã có thành công nhất định cải thiện một bước vai trò quốc tế. Các nước đồng minh châu Âu như Đức, Anh, Pháp, Canada… đã bớt căng thẳng như thời Tổng thống Trump cầm quyền và cùng với Mỹ, hủy bỏ dự án 5G của Trung Quốc ở những nước này; hạn chế việc bán các sản phẩm công nghệ cao liên quan đến phát triển quốc phòng của Trung Quốc. Các nước EU cũng hủy nhiều hợp đồng kinh tế – thương mại với Trung Quốc và rút các tập đoàn sản xuất ra khỏi Trung Quốc. Chính quyền Biden cũng lôi kéo thành công các đồng minh Anh, Pháp, Canada, Úc, Nhật Bản, Hàn Quốc… lên án Trung Quốc đe dọa Đài Loan, độc chiếm Biển Đông, uy hiếp vận tải quốc tế, đe dọa khai thác tài nguyên biển của các nước trong vùng. Theo đó, các nước này đã triển khai lực lượng quân sự hùng mạnh tới Biển Đông, eo biển Đài Loan, tập trận để uy hiếp Trung Quốc, đẩy Trung Quốc vào cuộc chạy đua vũ trang, phô diễn tiềm lực quân sự đối đầu với Mỹ và đồng minh của Mỹ, gây tình hình rất căng thẳng có thể đụng độ quân sự bất kể lúc nào. Mới đây, Mỹ đã lôi kéo Anh – Úc lập nhóm AUKUS để thực hiện dự án phát triển tàu ngầm hạt nhân trang bị cho Úc, sẽ là mối đe dọa tiềm tàng đối với Trung Quốc. Cứ coi đây là thành tích của chính quyền Biden về tập hợp lực lượng để tăng cường sức mạnh giải quyết các mối đe dọa toàn cầu, đồng thời giành ưu thế cạnh tranh và ngăn chặn các nước mới nổi uy hiếp quyền lợi của nước Mỹ. Tuy nhiên, không thể cho rằng các đồng minh của Mỹ sẽ chịu sự lãnh đạo của Mỹ như thời hậu Chiến tranh lạnh. Ngày nay, họ nhận thức Trung Quốc là mối đe dọa trật tự thế giới và an ninh toàn cầu.
Cùng hành động với Mỹ, ngăn chặn sự bành trướng của Trung Quốc; nhưng lợi ích quốc gia của các nước này vẫn không thay đổi. Họ cần phải hợp tác với nhau để ngăn chặn những nguy cơ đến từ Trung Quốc. Song họ vẫn cần Trung Quốc – một thị trường to lớn về vốn và cung ứng hàng hóa – để thoát khỏi khủng hoảng. Bằng chứng là nhiều nước EU vẫn ký hiệp định hợp tác thương mại, đầu tư với Trung Quốc, và trong từng vấn đề cụ thể, sự phản đối Trung Quốc của từng nước đồng minh của Mỹ có mức độ khác nhau. Philippines, Nhật Bản, Hàn Quốc là một ví dụ. Họ không phản ứng gay gắt vấn đề người Duy Ngô Nhĩ ở Tân Cương và vấn đề Hồng Kông. Một lý do khiến các nước đồng minh không thả hết mình với chính quyền Biden, điều đó được rút ra từ chính quyền Donald Trump. Đồng minh của Mỹ phải tự mình tìm hướng đi an toàn và có lợi nhất, không thể dựa vào chiếc ô của Mỹ như trước đây, bằng chứng là Liên minh châu Âu đã bàn tới sự phát triển độc lập với Mỹ. Khối NATO cũng nêu vấn đề cần cải tổ, cần phải có lực lượng quân sự của Liên minh châu Âu độc lập.
Đến thời điểm này cho thấy, Mỹ nỗ lực phục hồi sức mạnh, củng cố đồng minh theo truyền thống đã bị chính quyền Tổng thống Donald Trump làm suy yếu. Nhưng như phân tích ở trên, với bối cảnh thế giới đa cực hiện nay, liên kết các quốc gia đồng minh theo sự lãnh đạo của Mỹ rất khó lập lại được thời kỳ Donald Trump cầm quyền, ảnh hưởng nghiêm trọng tới sức mạnh của Mỹ trên toàn cầu.
Khi xem xét tập hợp lực lượng của Mỹ, vấn đề đặt ra là Trung Quốc đã tạo dựng sức mạnh thế nào? Trung Quốc là quốc gia mới nổi vào cuối thập niên đầu của thế kỷ XXI. Sau 30 năm thực hiện đường lối cải cách của Đặng Tiểu Bình, tận dụng sức mạnh, tiềm lực từ sự ưu ái của Hoa Kỳ và thế giới tư bản, Trung Quốc đã vươn mình trở thành một cường quốc chỉ đứng sau Mỹ về kinh tế. Vào thời kỳ đầu cải cách mở cửa (70-90) là thời kỳ ém mình chờ thời, lùi tức là giấu tiềm lực, giấu phương thức, giả thua kém… nhưng về hành động thì rất sôi động, quyết tâm đưa Trung Quốc trở thành siêu cường vào giữa thế kỷ XXI. Đây là thời điểm Trung Quốc tận dụng sự lỏng tay của Mỹ và phương Tây để thâm nhập vào các quốc gia giàu có, “xin được làm thuê, xin được mở mang xuất khẩu và thương mại.” Giai đoạn này Trung Quốc đã thiết lập được quan hệ với Mỹ và các nước giàu có ở châu Âu – với khẩu hiệu “Hai bên cùng thắng”. Với sự cởi mở của Mỹ và châu Âu, nền kinh tế và các giá trị khác của Trung Quốc đã thâm nhập sâu vào các nước này. Một lực lượng không nhỏ doanh nghiệp, các nhà khoa học, học sinh sinh viên… được các nước cho nhập cảnh; họ đã sớm trở thành một cộng đồng người Hoa, trong đó Mỹ cho phép 28 viện Khổng Tử đặt trụ sở ở các trường đại học danh tiếng của Mỹ. Ước tính có hàng triệu người Trung Quốc sống thường trú ở hầu khắp các bang của nước Mỹ, nhân tố Trung Quốc đã thâm nhập sâu vào xã hội Mỹ. Họ là chỗ dựa cho Trung Quốc thực hiện chiến lược chuyển hóa xã hội Mỹ để hiện đại hóa Trung Quốc. Trung Quốc đã là chuỗi cung ứng hàng hóa lớn nhất đối với các nước này. Riêng ở Mỹ, trên 60% hàng tiêu dùng nhập từ Trung Quốc. Người dân Mỹ đã quen dùng hàng rẻ của Trung Quốc.
Theo một hướng khác, Trung Quốc hướng vào châu Phi và Nam Mỹ, tiếp cận với các quốc gia chậm phát triển hoặc giàu tài nguyên, cảm hóa các nhà lãnh đạo của những nước này chấp nhận sự “đầu tư” của Trung Quốc để phát triển kinh tế. Với đường lối này, tính đến năm 2020, Trung Quốc đã tạo được 25 khu hợp tác thương mại với 16 quốc gia châu Phi (Ai Cập, Nigeria, Nam Phi, Angola, Algeria, Zambia, Sudan…). Tập trung vào các dự án khai thác mỏ, dầu, các loại quặng, xây dựng cơ sở hạ tầng, Trung Quốc đã ký Hiệp định thương mại với 40 quốc gia ở châu Phi. Do lực lượng lao động ở các nước châu Phi thấp kém nên hầu hết Trung Quốc đều đưa máy móc, nguồn cung ứng và lực lượng lao động đến châu Phi thực hiện dự án. Theo McKinsey, đã có trên 10 ngàn doanh nghiệp và khoảng 1 triệu lao động là người Trung Quốc đến châu Phi để thực hiện các dự án. Từ kinh tế, Trung Quốc đã ràng buộc nhà lãnh đạo các nước châu Phi ủng hộ Trung Quốc trong quan hệ quốc tế, tạo lợi thế và ảnh hưởng lớn của Trung Quốc ở lục địa này, cạnh tranh với Mỹ và các nước phương Tây.
Từ năm 2015 đến nay, Trung Quốc tích cực vươn tới châu Mỹ Latinh – nơi đây có 1,4 triệu người gốc Hoa sinh sống. Đến năm 2020, Trung Quốc đã đầu tư 140 tỷ đô la Mỹ vào 5 quốc gia (Venezuela, Brazil, Argentina, Mexico, Ecuador) tập trung vào các dự án khai thác mỏ và dầu khí, xây dựng cơ sở hạ tầng. Với việc Trung Quốc đổ vốn lớn vào các dự án cho các nước nói trên trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế, các nước này coi Trung Quốc như chiếc phao cứu nền kinh tế của họ. Vai trò của Trung Quốc được các nước xác nhận ở một khu vực đã từng là sân sau của Mỹ, tạo ra cuộc cạnh tranh quyết liệt giữa Mỹ và Trung Quốc, không chỉ kinh tế mà chính trị rất gay gắt kéo theo sự bất ổn của một số quốc gia trong vùng. Trong đó, Venezuela và Ecuador đã bị Mỹ cấm vận, trừng phạt kinh tế nhiều năm. Trung Quốc đã ký kết thành công nhiều dự án khai thác mỏ, dầu khí ở Canada, đã cung cấp nguồn tài nguyên lớn cho nước này.
Không thể không nhắc đến chiến lược tăng cường sức mạnh của Trung Quốc qua chiến lược xây dựng cơ sở hạ tầng “Vành đai, Con đường” được ông Tập Cận Bình chỉ đạo từ năm 2013. Gần 10 năm thực hiện chiến lược này, Trung Quốc đã đầu tư các dự án kinh tế, thương mại ở 70 quốc gia, tập trung ở các nước Đông Nam Á, Tây Á, Đông Phi, Nam Âu và Nga. Ngoài những dự án khu công nghiệp với số vốn hàng chục tỷ USD ở Pakistan, Miến Điện, Campuchia… các dự án xây dựng ở các quốc gia Đông Nam Á, các nước ven biển Ấn Độ Dương và Tây Á, hoàn thành nhiều tuyến đường quan trọng như tuyến đường sắt Trung Quốc – Thổ Nhĩ Kỳ, Trung Quốc – Lào và tiếp tục nối tuyến với Thái Lan, Malaysia, Singapore, Campuchia, Trung Quốc với Pakistan, Trung Quốc với Kyrgyzstan – Mông Cổ và Nga… Con đường tơ lụa trên biển Trung Quốc dự kiến kết nối với Việt Nam – Indonesia để gắn kết với các quốc đảo khác ở khu vực. Chiến lược vành đai, con đường của Trung Quốc đã bị Mỹ, Nhật và nhiều nước phương Tây cảnh báo là bẫy nợ Trung Quốc giăng ra để thao túng nền kinh tế và chính trị của các nước có đề án. Một số nước như Pakistan, Sri Lanka, Malaysia, Miến Điện, Lào đã nhận rõ những nguy cơ phải nhượng lại tài nguyên để trả nợ Trung Quốc. Gần đây, Pakistan, Sri Lanka, Miến Điện, Malaysia, Thái Lan đã thu hẹp hoặc đình chỉ dự án với số vốn hàng chục tỷ đô la. Tuy nhiên cuộc thoái lui này sẽ chịu sức ép rất lớn từ Trung Quốc, nguy cơ các nước này lệ thuộc vào Trung Quốc vì những khoản nợ kếch xù.
Chiến lược xây dựng cơ sở hạ tầng, xây dựng các hành lang và đầu tư kinh tế không chỉ mang tới lợi ích lớn về kinh tế mà còn giúp Trung Quốc chuyển hàng triệu lao động đi theo các dự án thường trú ở các nước này, khai thông bế tắc đường vận chuyển xuống Ấn Độ Dương và đi Nam Âu, thực hiện cuộc chiến tranh nhân dân và ngoại giao nhân dân, tạo được chỗ đứng lâu dài trong vùng. Các nhà phân tích quân sự bình luận, các cảng Trung Quốc đã xây dựng ở Campuchia, Miến Điện, Pakistan, Sri Lanka… sẽ là những căn cứ để lực lượng vũ trang Trung Quốc thực hiện chiến lược ở Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương, đối trọng với chiến lược xoay trục của Hoa Kỳ và bảo vệ quyền lợi của Trung Quốc trong vùng.
Khi đánh giá Mỹ không giữ được vai trò của một siêu cường quốc, Trung Quốc vươn lên, cạnh tranh với Mỹ và đặt lại luật chơi quốc tế đã nhiều năm phụ thuộc vào Mỹ. Trong bối cảnh Mỹ từ bỏ tham gia nhiều tổ chức quốc tế và khu vực thì Trung Quốc tích cực bù vào khoảng trống Mỹ để lại. Đến năm 2020, Trung Quốc đã có chân ở 74 tổ chức quốc tế và khu vực, từ đó Trung Quốc giành lợi thế gây ảnh hưởng tới các nước, kể cả đưa ra phủ quyết ở Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc với tư cách là thành viên của Hội đồng này, nếu xét thấy những vấn đề bất lợi cho Trung Quốc.
Những năm gần đây, Trung Quốc bị Mỹ và các nước lên án mạnh mẽ về những hoạt động trái phép ở Biển Đông, vi phạm nghiêm trọng về Luật Biển năm 1982. Đặc biệt Trung Quốc thua kiện Philippines về đường lưỡi bò ở Biển Đông theo phán quyết của trọng tài Quốc tế năm 2016. Tuy tuyên bố không chấp nhận phán quyết của trọng tài nhưng Trung Quốc đã thấy sự bất lợi lớn trong hoạt động tranh chấp Biển Đông. Từ cuối năm 2020, Trung Quốc chuyển hướng dùng luật của Trung Quốc và Luật Quốc tế để giải quyết tranh chấp. Trong hai năm 2020 – 2021, với nỗ lực vận động quốc tế, Trung Quốc đã giành ghế thẩm phán của Tòa án Quốc tế về biển và Tòa án về Công Lý, đồng thời tiếp tục đứng đầu 4 trong 15 cơ quan của Liên Hợp Quốc (Tổ chức Phát triển Công nghiệp (Unido); Liên minh Viễn thông Quốc tế (ITU); Tổ chức Nông lương Quốc tế (FAO) và Tổ chức Hàng không Dân dụng Quốc tế (ICAO). Với việc nắm quyền lãnh đạo các tổ chức này, Trung Quốc hy vọng sẽ tác động làm thay đổi luật chơi quốc tế và chi phối trong lĩnh vực đấu tranh pháp lý mang lại lợi thế cho Trung Quốc.
Trong thời kỳ cải cách mở cửa, Trung Quốc tránh xa các liên minh chính thức, chỉ có một đồng minh chính thức duy nhất là Triều Tiên. Hai nước này có hiệp ước phòng thủ chung. Ngày nay, Trung Quốc đã có hàng chục quan hệ đối tác chính thức với các quốc gia trên khắp thế giới, đỉnh cao là hợp tác Trung – Nga – Pakistan và Iran, thuộc loại hợp tác chiến lược toàn diện, mở rộng trao đổi hợp tác quân sự. Gần đây, trước tình hình Mỹ và các nước đồng minh gia tăng hoạt động ở Biển Đông, Đài Loan và Vịnh Ba Tư, Trung Quốc đã tổ chức cuộc tập trận với Nga, Pakistan, Iran, đối trọng với các cuộc tập trận của Mỹ và đồng minh.
Trung Quốc cũng xây dựng cơ chế quan hệ với một số quốc gia Đông Nam Á như Thái Lan, Miến Điện, Campuchia, Lào, Malaysia, Việt Nam… và các nước xa hơn như Brazil, Ai Cập, New Zealand. Dựa trên nguyên tắc song phương, Trung Quốc cũng nỗ lực xây dựng các cơ chế đa phương do Trung Quốc lãnh đạo như tổ chức Hợp tác Thượng Hải (SCO), Diễn đàn Hợp tác Trung Quốc – Châu Phi và Diễn đàn Hợp tác Quốc gia Trung Quốc – Ả Rập.
Với tham vọng và tầm nhìn chiến lược tính đến thời điểm này, Trung Quốc đã tương đối thành công trong việc tập hợp lực lượng quốc tế để cạnh tranh với Mỹ. Tuy nhiên, chưa có một tiêu chí nào để đánh giá liên minh nào mạnh hơn. Nhưng có thể nêu ra một số nhận xét về cách tập hợp lực lượng của hai siêu cường:
Mỹ đã có các đồng minh truyền thống trong Chiến tranh lạnh rất hùng mạnh, được xây dựng trên sức mạnh quân sự và ngoại giao, mục tiêu là xuất khẩu giá trị dân chủ Mỹ và phương Tây, tiến hành tấn công, cô lập hoặc lật đổ các quốc gia xác định là thù địch. Toàn bộ hệ thống liên minh do Mỹ lãnh đạo, Mỹ là chiếc ô che các nước đồng minh. Thắng lợi của Mỹ và các nước đồng minh là làm sụp đổ Liên Xô và tan rã phe XHCN vào đầu thập kỷ 90, chấm dứt Chiến tranh lạnh và sự đối đầu giữa hai phe khác ý thức hệ. Nhưng sau đó, Mỹ phạm phải nhiều sai lầm trong quan hệ quốc tế, Mỹ suy yếu trong vai trò lãnh đạo, mâu thuẫn về quyền lợi của các nước đồng minh với Mỹ ngày càng tăng lên. Chủ nghĩa dân tộc, dân túy phát triển, nhiều nước đồng minh suy yếu, thiếu gắn kết giữa các nước đồng minh, thậm chí trở thành đối địch nhau. Đặc biệt, khi Donald Trump nắm quyền nước Mỹ với khẩu hiệu “Nước Mỹ trên hết”, Trump đã đẩy nhiều nước đồng minh đối đầu về quyền lợi, cắt đứt quan hệ truyền thống với Mỹ, vì vậy các nước đồng minh đã quay mặt với Mỹ. Liên minh do Mỹ lãnh đạo suy yếu đáng kể. Sau một năm nắm quyền, ông Biden đã kéo các đồng minh trở lại liên minh với Mỹ. Tuy nhiên, dựa vào công cụ ngoại giao đối đầu và hợp tác quân sự, khó có thể nói rằng liên minh này còn sức mạnh như thời kỳ Chiến tranh lạnh. Các nước đồng minh chưa thể quên những gì nước Mỹ đã đối xử với họ khi Trump nắm quyền; và họ cần phải thoát khỏi khủng hoảng kinh tế hơn là đối đầu quân sự.
Đối với Trung Quốc, xây dựng được mạng lưới quan hệ với nhiều nước trên thế giới, trong đó liên minh với một số nước lớn là rất thành công. Trung Quốc đã khôn khéo nêu ra khẩu hiệu “Hợp tác cùng thắng”, phát triển hài hòa, thịnh vượng chung. Trung Quốc không áp đặt và xuất khẩu các giá trị của nước Trung Quốc Cộng sản, không chỉ trích, phê phán dân chủ, nhân quyền; điều này khiến cho các quốc gia dễ chấp nhận hợp tác với Trung Quốc. Công cụ xây dựng liên minh của Trung Quốc trên cơ sở hợp tác kinh tế, hợp tác đầu tư thương mại, cấp vốn vay, xây dựng cơ sở hạ tầng rất phù hợp với các quốc gia nghèo và chậm phát triển. Đặc biệt, Trung Quốc rất giỏi thuyết phục, ràng buộc các nhà lãnh đạo vào các dự án đầu tư của Trung Quốc nên rất khó khăn đi ngược lại với những thỏa thuận đã ký với Trung Quốc; Và muốn có lợi thì phải ủng hộ Trung Quốc; điều này được minh chứng qua câu nói của Thủ tướng Campuchia Hun Sen: “Nếu không dựa vào Trung Quốc thì tôi sẽ dựa vào ai?” Có một thực tế là các quốc gia Đông Nam Á cần hợp tác với Trung Quốc để phát triển kinh tế nhưng không hẳn đã cùng phe với Trung Quốc. Họ cũng cần sự có mặt của Mỹ để đảm bảo an ninh khu vực. Trung Quốc cũng đang phải đối mặt với sự hoài nghi sâu sắc trên toàn cầu về những ý định lâu dài và khuynh hướng bá quyền của mình. Ở ngay những đối tác trong sáng kiến Vành đai và Con đường, nhiều quốc gia đã nói rõ không muốn chỉ liên kết với Trung Quốc hoặc với Mỹ.
Thế giới ngày nay đang chứng kiến cuộc đối đầu giữa hai siêu cường Mỹ – Trung, đang đưa thế giới vào trạng thái đối đầu giữa hai hệ thống thời Chiến tranh lạnh. Những bước đi mang tính chất đối đầu nhau giữa Mỹ và Trung Quốc ở khu vực Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương chưa có dấu hiệu nhượng bộ nhau và đang tiến đến khả năng xung đột vũ trang bất kể lúc nào, đe dọa an ninh toàn cầu.
Ở thời điểm này, cộng đồng quốc tế cần nghiêm túc suy nghĩ về cách sống chung, nỗ lực để giữ cho sự ổn định quan hệ Mỹ – Trung, có sự tham gia của các quốc gia đồng minh vì hòa bình, an ninh, thịnh vượng thế giới, ngăn chặn kết cục xấu, ngăn chặn một thế giới bị chia rẽ, một khối đối lập bao vây triệt tiêu nhau.■
Xuân Sơn
(Theo Tạp chí Phương Đông)