Phóng viên chiến trường nước ngoài và cuộc kháng chiến chống Mỹ của dân tộc Việt Nam

Chiến thắng 30/4/1975 là một mốc son chói lọi trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, mở ra một kỷ nguyên hoà bình, thống nhất cho toàn thể người dân đất Việt. Để làm nên cuộc kháng chiến vĩ đại bậc nhất thế kỷ XX ấy, chúng ta không thể không nhắc tới sự hi sinh to lớn của những người lính anh hùng đã trực tiếp chiến đấu vì độc lập dân tộc, cùng sự góp sức của rất nhiều lực lượng khác, trong đó có những “chiến sĩ” trên mặt trận văn hoá văn nghệ – các nhà báo, phóng viên chiến trường. Bên cạnh báo giới Việt Nam với những cây bút tiên phong đã góp phần quan trọng vào việc chuyển tải, cập nhật tin tức về cuộc chiến, cổ vũ tinh thần chiến đấu của quân và dân ta, còn có các nhà báo, phóng viên nước ngoài cũng từng hoạt động rất sôi nổi trên lãnh thổ Việt Nam, dùng ngòi bút khách quan, trung thực của mình để phản ánh cuộc chiến chính nghĩa giành độc lập dân tộc của người Việt. Một số nhà báo đã có mặt tại Việt Nam từ những năm 50 của thế kỷ XX, và dành cả sự nghiệp để công bố cho thế giới thấy và lên án những tội ác chiến tranh, những sai lầm của nước Mỹ cùng những hi sinh, gian khổ, tinh thần đoàn kết, bất khuất của nhân dân Việt Nam trong cuộc chiến khốc liệt này.

Ngày 30/4/1975 lịch sử, có khoảng 40 phóng viên nước ngoài đã chấp nhận mọi rủi ro, nguy hiểm, sẵn sàng ở lại chứng kiến và đưa tin về sự kiện trọng đại của dân tộc Việt Nam. 50 năm sau, vào chiều ngày 27/4/2025, gần 50 cựu phóng viên chiến trường quốc tế đã có cuộc hội ngộ đặc biệt trong buổi giao lưu do Sở Ngoại vụ tổ chức tại thành phố Hồ Chí Minh, nhân dịp Việt Nam kỷ niệm 50 năm Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Buổi giao lưu đã trở thành cuộc trò chuyện thân tình giữa những người đồng nghiệp của làng báo Việt Nam và nước ngoài. Họ cùng nhau ôn lại ký ức về những ngày hoạt động trên các chiến trường, sự gắn bó với đất nước, con người Việt Nam trong những năm tháng gian khổ mà hào hùng. Mặc dù tới từ nhiều hãng thông tấn và hoạt động trên nhiều cương vị khác nhau, song họ đều có chung tình yêu hoà bình, yêu đất nước và con người Việt Nam, sẵn lòng ủng hộ nhân dân Việt Nam giành lại độc lập, tự do, thống nhất thông qua “mặt trận” truyền thông.

Những nhà báo có mối quan hệ lâu dài, bền vững và sự gắn bó đặc biệt với Việt Nam

Wilfred Graham Burchett

Wilfred Graham Burchett (1911 – 1983) là một phóng viên người Úc nổi tiếng từng tường thuật Chiến tranh thế giới thứ hai cho báo chí Anh, và cũng là phóng viên phương Tây đầu tiên có mặt tại Hiroshima, Nhật Bản sau khi Mỹ thả bom nguyên tử. Về mối gắn bó với Việt Nam, ông được biết đến như là phóng viên phương Tây hiếm hoi từng sống cùng với bộ đội Việt Nam tại chiến khu Việt Bắc và chiến trường miền Nam, kề vai sát cánh với nhân dân Việt Nam trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ.

Wilfred Burchett có mối quan hệ gần gũi với Chủ tịch Hồ Chí Minh, từng nhiều lần gặp gỡ và phỏng vấn Chủ tịch Hồ Chí Minh tại chiến khu Việt Bắc và Thủ đô Hà Nội trong suốt cuộc kháng chiến chống Pháp. Ảnh: Tư liệu

Với hàng trăm bài viết và tám cuốn sách về Việt Nam trong gần ba thập niên từ 1954, ông từng được coi là người “mở mắt” cho phương Tây về một thế giới vốn ít được biết tới: Thế giới huy hoàng của những người Cộng sản. Từ chỗ là nhà báo đứng về phía quân đội Đồng minh, Burchett đã đi theo con đường lí tưởng của riêng mình, đó là miêu tả sự thật về cuộc chiến ở Việt Nam qua con mắt của riêng ông, bất chấp điều này đi ngược lại những quan điểm chính trị của phương Tây và chính phủ đất nước ông. Wilfred Burchett luôn đứng về phía Việt Nam trong cuộc chiến chống Mỹ, trong khi Chính phủ Australia lại ủng hộ Washington và thậm chí còn góp quân cho cuộc chiến phi nghĩa của Mỹ. Điều này khiến ông bị chỉ trích và tẩy chay ở quê nhà, song Burchett vẫn chưa từng nản chí mà quyết tâm kiên định chọn phản ánh sự thật khách quan, cho thế giới thấy sự thật khốc liệt về cuộc xâm lược của Mỹ tại Việt Nam.

Sinh thời, Wilfred Burchett có mối quan hệ gần gũi với Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ông từng nhiều lần gặp gỡ và phỏng vấn Chủ tịch Hồ Chí Minh tại chiến khu Việt Bắc, khi chiến dịch Điện Biên Phủ đang diễn ra, và sau đó mỗi lần về Hà Nội, Burchett đều đến thăm vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc Việt Nam tại Phủ Chủ tịch. Trong kháng chiến chống Mỹ, ở tuổi ngoại ngũ tuần, ông vẫn xông pha trên chiến trường miền Nam Việt Nam, vào khu địa đạo Củ Chi với các du kích, mặc quần áo bà ba đen, vác ba lô, lội nước, đội mũ rơm… để đưa tin chân thực về cuộc chiến. Các nhà lãnh đạo Việt Nam từng nhiều lần tham khảo ý kiến của Burchett về một số vấn đề quốc tế. Phía Hoa Kỳ cũng đã từng mời ông làm trung gian đàm phán giữa chính quyền Nixon và Hà Nội trong thời gian diễn ra hội nghị Paris nhằm chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam.

Nayan Chanda

Khác với Wilfred Burchett, Nayan Chanda mặc dù mới đến Việt Nam từ những năm cuối của cuộc kháng chiến chống Mỹ, song lại là người gắn bó khăng khít với Việt Nam trong suốt giai đoạn hoà bình. Ông tới Việt Nam từ năm 1973, khi còn là phóng viên của tờ Tạp chí Kinh tế Viễn Đông (Far Eastern Economic Review) và quyết tâm ở lại đây sau ngày 30/4/1975 để chứng kiến thời khắc lịch sử huy hoàng của Việt Nam. Nayan Chanda kể lại, vào khoảng giữa tháng 4/1975, ông nhận được một tin nhắn khẩn từ biên tập viên ở Hong Kong rằng ông nên rời đi vì “không câu chuyện nào đáng để đánh đổi mạng sống cả”. Lúc này, trên cương vị Trưởng Văn phòng tạp chí ở Sài Gòn, ông viết thư trả lời, nói rằng “tôi đã theo dõi lịch sử Việt Nam suốt một thời gian dài và tôi muốn chứng kiến hồi kết của trận chiến này. Đó là trách nhiệm của tôi, không cần phải trả phí để bảo hiểm cho tôi”.

Phóng viên Nayan Chanda đến Việt Nam vào những năm cuối của cuộc kháng chiến chống Mỹ, song là người gắn bó với Việt Nam trong suốt giai đoạn hoà bình. Ảnh: VOV

Trong thời khắc lịch sử ngày 30/4/1975, ông Nayan Chanda đã vội vã lao ra ngoài với chiếc máy ảnh, chụp được bức ảnh xe tăng tiến đến cổng dinh. “Tôi vừa tiến lại gần những chiếc xe tăng, vừa vẫy tay chào những người lính ngồi trên đó. Khi họ vẫy tay đáp lại, tôi biết họ đã nhận ra tôi không có ý thù địch. Lúc đó tôi không hề có cảm giác sợ hãi. Điều quan trọng nhất đối với tôi lúc ấy, vì tôi là một phóng viên, là tôi cần phải chụp được khoảnh khắc đắt giá ấy”, ông nói. Sau khi chụp được ảnh, ông chạy về văn phòng và gửi một dòng tin nhanh với nội dung: “Hôm nay, lúc 11h25, chiến tranh tại Việt Nam kết thúc”.

Nayan Chanda xúc động nhớ lại: “Sau khi xe tăng tiến vào giải phóng Sài Gòn, đến trưa người dân đổ ra đường ăn mừng thắng lợi. Mọi người gặp nhau tay bắt mặt mừng dù mỗi người một phương nhưng họ xem nhau như anh em một nhà, hỏi han nhau rất thân tình. Những hình ảnh đó thật ấm áp và gây ấn tượng với tôi… Đêm hôm đó tôi đã ngủ rất ngon. Không còn tiếng trực thăng lượn trên đầu, không còn tiếng pháo kích. Tôi chợt cảm thấy: đó chính là hòa bình”. Về sau, khi đã tham gia công tác truyền thông trên nhiều chiến trường tại nhiều quốc gia khác nhau, ông Chanda vẫn không quên những ấn tượng tốt đẹp về đoàn quân Giải phóng Sài Gòn năm ấy. Ông từng nhận xét, nếu quân đội Taliban là một đoàn quân ô hợp thì bộ đội Việt Nam lại rất trật tự, kỷ luật, là đội quân chuyên nghiệp của một đất nước có truyền thống quân sự đáng tự hào.

Trước khi đến Việt Nam trong vai trò phóng viên, ông Chanda cũng có nhiều năm nghiên cứu lịch sử Việt Nam và Campuchia. Nhờ hai vai trò này, ông nhận thức được tầm quan trọng của những sự kiện sắp diễn ra tại Việt Nam. Sau chiến tranh, ông Nayan Chanda cũng viết rất nhiều bài báo và sách về Việt Nam. Trong các tác phẩm của mình, ông luôn gửi gắm thông điệp “Tình yêu của người Việt Nam dành cho đất nước của họ là điều mà toàn thế giới nên học hỏi”. Trở lại Việt Nam nhân dịp kỷ niệm 50 năm thống nhất đất nước, ông tâm sự: “Khi nhìn vào Việt Nam của năm 2025, bạn không thể nhận ra đất nước này vào năm 1975. Nơi đây đã trở thành một nơi hoàn toàn khác. Tôi đã luôn ở đây, ngắm nhìn nơi này đổi thay, đặc biệt từ khi công cuộc Đổi mới được khởi xướng năm 1986. Việt Nam hiện nay đang đi rất đúng hướng”.

Những phóng viên xông pha ghi lại tội ác chiến tranh của chính quyền Mỹ và Sài Gòn

Huỳnh Công Út (Nick Út): Bức ảnh “Em bé napalm”

Phóng viên ảnh Huỳnh Công Út (Nick Út) – một người Mỹ gốc Việt đưa tin cho Associated Press – đã chụp được những khoảnh khắc khủng khiếp về cuộc chiến tranh diễn ra trên đất nước mình. Tên tuổi của ông gắn liền với tấm ảnh “Em bé napalm” – tấm ảnh về một bé gái trần truồng vì bị hơi nóng của bom napalm thiêu rụi quần áo, đang chạy trốn khỏi ngôi làng bị ném bom, đã đoạt giải thưởng Pulitzer danh giá của báo chí thế giới vào năm 1972.

Nhớ lại thời khắc kinh hoàng ấy, ông cho biết, mình sẽ không bao giờ quên sự kiện diễn ra vào ngày 8/6/1972, tại Trảng Bàng (Tây Ninh). Ở ngôi làng nhỏ ấy, “em bé napalm” Phan Thị Kim Phúc trở thành gương mặt tố cáo tất cả sai lầm của nước Mỹ trong cuộc chiến tranh ở Việt Nam. Nick kể lại, khi chuyển phim về trụ sở, lúc đầu các biên tập viên đã bỏ đi những hình ảnh “tiêu cực” và in 5 trong 7 ảnh. Biên tập viên Carl Robinson cho biết, riêng hình ảnh “em bé napalm” sẽ “không thể sử dụng ở Mỹ”. New York Times cũng từ chối đăng ảnh vì với lý do người trong ảnh đang ở trạng thái khoả thân.

Biên tập viên ảnh Horst Faas của AP Saigon là người duy nhất phản đối tất cả những lời từ chối đăng ảnh. Ngay sau khi nhìn thấy tấm hình, ông đã yêu cầu “chuyển hình ảnh đi ngay lập tức”! Và bức ảnh đó đã được toàn thế giới biết đến sau khi đăng tải trên trang nhất của rất nhiều tờ báo lớn trên thế giới. Cũng từ đó, các bác sĩ ở khắp nơi trên thế giới đã tình nguyện chữa trị cho Kim Phúc.

Sau ngày nước nhà thống nhất, Nick đã nhiều lần trở về Việt Nam và chứng kiến quê hương vươn lên, phát triển từ đống tro tàn của chiến tranh, những ký ức kinh hoàng năm xưa cũng vơi bớt đau thương và như được chữa lành.

Henry Kamm: Vụ thảm sát Mỹ Lai

Henry Kamm, phóng viên của tờ New York Times, là người khiến cả thế giới bàng hoàng với việc đưa tin về vụ thảm sát Sơn Mỹ (vào lúc đó, báo chí và dư luận quốc tế gọi là thảm sát Mỹ Lai, năm 1968). Nhận được nguồn tin quan trọng từ một đại úy phi công Mỹ tố giác vụ thảm sát dã man đối với thường dân ở một làng thuộc tỉnh Quảng Ngãi do quân đội Mỹ gây ra, Henry Kamm lập tức yêu cầu thư ký đặt vé máy bay cho mình đi Đà Nẵng ngay đầu giờ chiều hôm đó.

Sáng hôm sau, Kamm có mặt ở làng Mỹ Lai, một ngôi làng hoàn toàn im ắng, không có bóng người. Một số ít những người sống sót trong trận thảm sát của lính Mỹ đã di tản sang làng kế bên để lánh nạn. Kamm bắt đầu thiết lập nguồn thông tin với những người sống sót này để đi tìm sự thật của vụ thảm sát. Không quá khó khăn, Kamm đã dựng lại được đầy đủ những tội ác của lính Mỹ trong vụ thảm sát qua lời kể của các nhân chứng sống sót.

Sau khi thu thập đủ tư liệu, trở lại nhà riêng của viên cố vấn Mỹ, ông đã mượn điện thoại gọi về văn phòng của New York Times tại Sài Gòn, rồi từ đây bài viết của Kamm được chuyển sang trụ sở chính tại Mỹ. Ngay sáng hôm sau, cả thế giới đã biết đến tội ác của quân đội Mỹ đối với thường dân tại Việt Nam.

Cùng với nhà báo Seymour Hersh –  cây bút phóng sự điều tra dày dặn kinh nghiệm đã phanh phui sự kiện gây chấn động ở Mỹ Lai thông qua loạt bài phỏng vấn nổi tiếng với nạn nhân sống sót lẫn những người trực tiếp thi hành cuộc thảm sát, Henry Kamm và các phóng viên chiến trường Mỹ đã góp phần phơi bày sự thật về tội ác tàn bạo của quân đội Mỹ ra ánh sáng, khiến dư luận Mỹ và cả thế giới sửng sốt. Có thể nói, đây là một trong những vết nhơ khủng khiếp nhất mà quân đội Mỹ gây ra trong chiến tranh Việt Nam.

Eddie Adams: Bức ảnh “Hành quyết tại Sài Gòn”

Là phóng viên của Hãng thông tấn AP, nhà báo ảnh Eddie Adams đã khiến thế giới bàng hoàng trước tấm ảnh Tổng Giám đốc Cảnh sát Quốc gia Việt Nam Cộng hoà Nguyễn Ngọc Loan bắn thẳng vào đầu một tù binh đã bị trói chặt tay trên đường phố Sài Gòn vào ngày 1/2/1968, giữa bối cuộc tấn công và nổi dậy Tết Mậu Thân (1968) đang diễn ra ác liệt. Bức ảnh mang tên “Hành quyết tại Sài Gòn” đã khiến cho cả thế giới bàng hoàng trước tội ác của chính quyền Việt Nam Cộng hoà. Một năm sau, Adams đã giành được giải Pulitzer danh giá cho bức ảnh này. Năm 2007, bức ảnh được tạp chí Mental Floss bầu chọn là 1 trong 12 bức ảnh làm thay đổi bộ mặt thế giới.

Eddie Adams và bức ảnh “Hành quyết tại Sài Gòn” đã khiến cho cả thế giới bàng hoàng trước tội ác của chính quyền Việt Nam Cộng hoà, ảnh chụp năm 1969. Ảnh: Eric Koch for Anefo

Những tiếng nói phơi bày sự thật, đấu tranh với sự kiểm duyệt từ Washington

Peter Arnett

Peter Arnett đã viết hơn 2.000 bài báo cho Hãng tin AP về các cuộc chiến tranh, từ Việt Nam tới Afghanistan, Iraq. Năm 1966, ông được trao giải báo chí Pulitzer vì những tác phẩm báo chí viết về chiến tranh Việt Nam. Vào năm 1991, ông giành được giải thưởng Emmy cho phóng sự truyền hình trực tiếp về cuộc chiến vùng Vịnh năm 1991. Câu nói nổi tiếng của ông đã đi vào lịch sử như bằng chứng về tội ác của nước Mỹ trong cuộc chiến ở Việt Nam: “Ở Bến Tre, chúng tôi đã phải tàn phá thành phố để cứu lấy nó”.

Peter Arnett tác nghiệp trên chiến trường Việt Nam trong thời kì kháng chiến chống Mỹ. Ảnh: Peter Arnett cung cấp

Trong một lần chia sẻ kinh nghiệm 50 năm làm báo của mình gần đây, ông đã kể về cách thức đấu tranh trước sự kiểm duyệt của Chính phủ Mỹ để phản ánh đúng sự thật về cuộc chiến tranh ở Việt Nam. Arnett cho hay, ông đối mặt với áp lực rất lớn từ Chính phủ Mỹ để phải có những bài viết tích cực hơn về cuộc chiến tranh ở Việt Nam. Nếu làm “bồi bút”, ông hoàn toàn có thể làm được điều đó. Nhưng với lương tâm một người làm báo, ông đã dũng cảm viết ra những bài báo “khiến các quan chức cấp cao Mỹ giận dữ, lo lắng khi cố che đậy những bí mật bẩn thỉu đang diễn ra trong cuộc chiến tranh ở Việt Nam”. “Tại thời điểm đó, chính quyền Kennedy nói rằng thương vong của lính Mỹ ở Việt Nam là do tai nạn chứ không phải tử thương trong chiến trận” – ông cho biết.

Arnett đã đưa tin chân thực về tất cả những gì mình nhìn thấy, bao gồm cả việc di chuyển, triển khai và các hoạt động điều hành của quân đội Mỹ, để đảm bảo rằng công chúng Mỹ được biết chính xác những gì mà chính quyền Mỹ đã gây ra trên đất nước Việt Nam. “Mối quan tâm của chúng tôi là thu thập tin tức, truyền tải đến công chúng với niềm tin rằng mọi thông tin phải được công bố. Chỉ có một lý do duy nhất mà một phóng viên phải đấu tranh đó là nói lên sự thật, toàn bộ sự thật”. Arnett ý thức được trách nhiệm nghề nghiệp của mình như một nhân chứng lịch sử đối với công chúng, do đó, ông đã cùng các đồng nghiệp đã dũng cảm phá tan bức tường kiểm duyệt vô cùng vững chắc để phơi bày sự thật khách quan, cho thế giới biết đến “bộ mặt thật” của chính quyền Mỹ trong cuộc chiến này.

Tom Fox

Tom Fox, phóng viên New York Times and Time Magazine trong chiến tranh Việt Nam, kể lại câu chuyện của mình bằng tiếng Việt một cách chân thực và xúc động. Năm 1966, ông không gia nhập quân đội Mỹ mà xin được đến Việt Nam làm tình nguyện viên, giúp đỡ người dân ở Tuy Hòa. Nhưng trong 2 năm làm việc, ông dần thấy cuộc chiến tranh mà người Mỹ từng nói là để giúp người Việt vốn không phải là sự thật. Người dân rất khổ, không hề được Mỹ giúp đỡ, nên ông quyết tâm học tiếng Việt, ăn uống như người Việt và trở thành phóng viên chiến trường, cho người Mỹ ở quê nhà và thế giới biết về những gian khó mà người dân Việt Nam đang phải gánh chịu. “Tôi đi khắp nơi ở miền Nam để giúp đỡ những đứa trẻ mồ côi, gia đình bị nghèo đói do chiến tranh. Vì thế mà tôi càng thấm thía những nỗi đau do chiến tranh gây ra” – ông nghẹn ngào chia sẻ.

“Hồi đó ở bên Mỹ người ta nói sang đây là làm điều tốt cho người Việt nhưng rồi tôi biết đó là nói láo. Sự thật không phải như vậy, đau khổ lắm. Nên 2 năm sau tôi bắt đầu học tiếng Việt, dùng nước mắm như người Việt…”. Từ đó, ông dần nảy sinh tình cảm với đất nước, con người Việt Nam và quyết định trở lại miền Nam trong vai trò phóng viên chiến trường. Ông lập gia đình với một người phụ nữ gốc Cần Thơ, và đến nay vẫn rất tự hào vì có thể nói tiếng Việt bằng chất giọng miền Tây trầm ấm.

Những nữ phóng viên quả cảm, quyết tâm đồng hành cùng dân tộc Việt Nam

Beverly Deepe

Là một nữ phóng viên tự do, Beverly Deepe đến Việt Nam vào năm 1962, khi mới chỉ có 8 phóng viên người nước ngoài sống và làm việc tại Sài Gòn. Trong suốt 7 năm ròng rã, Beverly Deepe đã sống, hít thở và viết về cuộc chiến tranh Việt Nam, cố gắng mô tả chân thực sự tàn bạo, sự phức tạp của nó cũng như của con người cho độc giả tạp chí Newsweek, New York Herald Tribune và Christian Science Monitor. Nữ phóng viên trẻ sớm nhận thấy những mầm mống cho một thảm họa toàn diện của Mỹ tại Việt Nam, và đã phơi bày hiện thực đó một cách không khoan nhượng cho đồng bào mình và thế giới chứng kiến. Sau này, khi hoà bình lập lại, Beverly Deepe mới được biết rằng một trong hai thông dịch viên bí ẩn đã giúp đỡ bà suốt thời gian tác nghiệp ở Việt Nam chính là vị tướng tình báo lừng danh Phạm Xuân Ẩn.

Nữ phóng viên chiến trường Beverly Deepe trên chiếc trực thăng rời khỏi Khe Sanh sau khi lấy tin tức về cuộc ném bom dữ dội của quân đội Mỹ, tháng 3 năm 1968. Ảnh: A.P.

Edith Madelen Ledever

Edith Madelen Ledever được hãng tin AP giao nhiệm vụ đưa tin về chiến tranh Việt Nam giai đoạn 1972 – 1973. Từng đưa tin cảnh quân đội Mỹ rút quân khỏi Việt Nam năm 1973, bà Edith Madelen Ledever cho biết, khi đó, bà là nữ phóng viên chiến trường duy nhất ở Việt Nam vào năm 1973. Sau bà có thêm vài đồng nghiệp nữ khác cũng được AP cử đến Việt Nam. Bà Edith Madelen Ledever xúc động kể lại: “Dù là phụ nữ nhưng chúng tôi không ngại xông pha chiến trường, đưa tin về tất cả các điểm nóng. Điều đau lòng là so với những vất vả của chúng tôi thì mất mát của người dân Việt Nam lớn hơn rất nhiều. Chúng tôi luôn trăn trở khi nhớ về những ký ức đau thương trong chiến tranh, nơi mà nhiều người bạn Việt Nam và cả các đồng nghiệp của chúng tôi đã ngã xuống”.

Năm 1993, đúng 20 năm sau, bà đã trở lại thăm Việt Nam và ấn tượng nhất với bà lúc đó là người Việt Nam không còn thù hằn gì với người Mỹ, bản thân bà cũng được chào đón nồng nhiệt. Sau đó, bà còn nhiều lần đến Việt Nam, đến Thành phố Hồ Chí Minh vào các dịp kỷ niệm 35 năm, 40 năm và bây giờ là 50 năm. Bà Ledever hiện đang là Trưởng Văn phòng AP tại Liên hợp quốc. Cứ mỗi lần trở lại Việt Nam, bà đều choáng ngợp trước sự thay đổi, vươn mình phát triển phi thường của nước Việt, người Việt. Đi dọc chiều dài đất nước để cảm nhận vẻ đẹp hoà bình của dải đất hình chữ “S”, bà Edith cho biết: “Tôi thấy Thành phố Hồ Chí Minh và Việt Nam đang ngày càng trở nên hiện đại, tôi ấn tượng nhất với sự cởi mở của Việt Nam”.

Francoise Demulder

Là phóng viên của hãng AFP của Pháp, bà Francoise Demulder đã quyết tâm túc trực tại Dinh Độc Lập trước ngày 30/4/1975. Với sự nhạy cảm vốn có của người phóng viên chiến trường, bà đã biết được số phận của chế độ Sài Gòn và sẵn sàng chờ đợi được chứng kiến thời khắc lịch sử của dân tộc Việt Nam.

Nhờ lòng dũng cảm đặc biệt, bà trở thành người phóng viên duy nhất trên thế giới có may mắn chụp được thời khắc lịch sử: 2 chiếc xe tăng đầu tiên của quân giải phóng Việt Nam trong đội hình thọc sâu của Lữ đoàn 203 thiết giáp tiến vào Dinh Độc Lập, chiếc xe tăng 390 húc đổ cổng rồi tiến vào Dinh, cảnh quân giải phóng cầm cờ chạy lên những bậc thềm tiến vào Dinh Độc Lập để cắm cờ, báo hiệu chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng lúc 11 giờ 30 phút ngày 30/4/1975. Những bức ảnh nổi tiếng của bà F. Demulder được đăng tải trên báo chí khắp thế giới, trở thành biểu tượng cho sự thất bại của Mỹ và đánh dấu sự kết thúc của cuộc chiến tranh Việt Nam.

Quyết tâm ở lại Sài Gòn đến tận ngày Giải phóng, Francoise Demulder đã chụp được cảnh xe tăng đầu tiên của quân Giải phóng tiến vào Dinh Độc Lập, trưa ngày 30/4/1975. Ảnh: Francoise Demulder

Sau đó, bà còn theo xe zeep của quân giải phóng đưa Dương Văn Minh sang Đài phát thanh Sài Gòn để tuyên bố đầu hàng và chụp được những tấm ảnh Dương Văn Minh đọc tuyên bố đầu hàng vô điều kiện, cùng nhiều tấm ảnh về hoạt động của Quân Giải phóng khi tiếp quản thành phố Sài Gòn, cảnh lễ mừng chiến thắng tại Sài Gòn ngày 1/5/1975.

20 năm sau khi chiến tranh kết thúc, vào tháng 4/1995, bà Demulder đã trở lại Việt Nam, mang theo các bức ảnh tư liệu mà bà chụp được vào những phút cuối cùng của chiến tranh Việt Nam. Qua chuyến thăm đó, một nhầm lẫn lịch sử đã được đính chính. Theo bức ảnh của Demulder, chiếc xe tăng húc đổ cổng chính của Dinh Độc Lập là xe tăng mang số hiệu 390, chứ không phải chiếc 843 như đã được công nhận trước đó. Cũng trong chuyến trở lại Việt Nam, Demulder tìm lại những người lính đã có mặt trên chiếc xe tăng 390 và có cuộc gặp gỡ đầy xúc động với họ.

Bên cạnh những gương mặt tiêu biểu kể trên, cũng không thể không nhắc đến những nhà báo, những tác giả vẫn bền bỉ, thầm lặng ghi lại trang sử hào hùng của dân tộc Việt Nam và sự thật về tội ác của Mỹ cho thế hệ trẻ trên toàn thế giới biết đến. Đó là Stanley Karnow – tác giả cuốn Việt Nam – Một thiên lịch sử (nguyên tác: Vietnam, a history), hiện đang được nhiều trường học ở Mỹ sử dụng làm sách giáo khoa chính thức trong chương trình giảng dạy của mình. Đó là nhà báo Neil Sheehan – người từng có mặt trong những năm bi thảm nhất của cuộc Chiến tranh Việt Nam, đã dành ra 16 năm để viết tác phẩm Sự lừa dối hào nhoáng (nguyên tác: A bright shining lie). Cuốn sách đoạt giải thưởng National Book Award – Hoa Kỳ năm 1988 và giải thưởng Pulizer năm 1989, là một tài liệu khổng lồ với những phân tích chi tiết, sống động về toàn bộ tham vọng và sự sa lầy của đế quốc Mỹ ở Việt Nam. Hay nữ nhiếp ảnh gia người Pháp Catherin Leroy (1945-2006) – người nổi tiếng với những bức ảnh dữ dội, trần trụi về Chiến tranh Việt Nam; và cũng là tác giả bài báo về bộ đội Việt Nam ở Huế giữa chiến dịch Tết Mậu Thân lịch sử (1968), đã làm rúng động hàng triệu trái tim yêu hoà bình, thổn thức hướng về Việt Nam.

Ghi nhận những đóng góp của các phóng viên nước ngoài cho cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân Việt Nam

Có thể thấy, những phóng viên chiến trường nói trên đều là những nhà báo giữ vững tôn chỉ làm nghề – kiên quyết phản ánh chính xác những sự thực khách quan của cuộc chiến, không thiên vị hay đưa tin sai lệch, bất chấp những đe doạ từ chính quyền nước mình. Với tinh thần là “người thư ký trung thành của thời đại”, các phóng viên đã dũng cảm, khảng khái thể hiện tinh thần phản đối chiến tranh, lên án tội ác của Mỹ tại Việt Nam, đồng thời nêu bật cho thế giới thấy lòng yêu nước nồng nàn và sức mạnh chiến đấu phi thường của toàn thể nhân dân Việt Nam.

Không những cam kết đưa tin trung thực, kịp thời, một số phóng viên còn trở thành nhân chứng lịch sử. Mặc cho mưa bom bão đạn, hay những lời chỉ thị, khuyến cáo về mức độ nguy hiểm nếu ở lại Việt Nam trong những giờ phút cuối cùng của cuộc chiến, họ vẫn lựa chọn ở lại để bắt lấy những thời khắc quan trọng đánh dấu sự kiện trọng đại trong lịch sử Việt Nam và thế giới. Những nhà báo chiến trường ấy đã không quản ngại hiểm nguy, gian khó, bất chấp tính mạng của họ ở thế ngàn cân treo sợi tóc, chính họ, để đưa lại cho chúng ta những thông tin chân thực nhất về thời điểm lịch sử cách đây 50 năm. Nayan Chanda, Beverly Deepe, Francoise Demulder, Peter Arnett… cùng nhiều phóng viên chiến trường khác đã bất chấp hiểm nguy để đem lại những cái nhìn đa chiều về cuộc chiến tranh ở Việt Nam, từ những ngày đầu của cuộc chiến cho đến tận ngày Giải phóng. Họ không ngần ngại đi sâu vào thực địa, cùng sinh hoạt với người lính, người dân Việt Nam, để thấu hiểu nỗi đau và tinh thần chiến đấu oanh liệt của một dân tộc quật cường. Chính họ, cùng với báo giới trong nước, đã tiếp thêm sức mạnh cho người Việt chiến đấu và chiến thắng trong cuộc chiến không cân sức trước một kẻ thù hùng mạnh gấp nhiều lần.

Đặc biệt, khi tác nghiệp trong không khí đậm mùi thuốc súng hàng ngày, những bài báo, đoạn phim của những phóng viên dũng cảm ấy đã góp phần dấy lên phong trào phản chiến, chống chiến tranh Việt Nam mạnh mẽ và sôi nổi tại Mỹ và trên toàn thế giới. Họ đã giúp cho dư luận thế giới hiểu thêm thực trạng miền Nam Việt Nam từ khi quân đội Mỹ can thiệp vào nơi này – đó là sự phẫn nộ về tội ác chứ không hề có sự hàm ơn. Những bức ảnh, những trang viết của họ đã góp công lớn trong việc kêu gọi nhân dân tiến bộ trên toàn thế giới lên tiếng ủng hộ Việt Nam, gây sức ép cho Mỹ trên bàn đàm phán, buộc họ phải chấp nhận thất bại.

Có lẽ, nếu cuộc chiến ở Việt Nam không để lại cho họ nhiều ấn tượng sâu sắc đến thế, thì nhiều nhà báo quốc tế đã không chọn ở lại lâu dài đến vậy để đồng hành với người dân Việt Nam. Với nhiều người trong số họ, Việt Nam không còn là một quốc gia nơi họ đến để thực hiện công việc của mình, mà nơi đây đã trở thành một phần tuổi trẻ của họ. Một thời, họ đã dám sống và tranh đấu cho lí tưởng bảo vệ lẽ phải, đã hoà vào cuộc chiến đấu của dân tộc Việt Nam để sống hết mình cho lương tâm thời đại, cho những giá trị chân thực, chính trực của nghề báo mà họ dặn lòng phải luôn luôn khắc ghi. Có những phóng viên ban đầu tới Việt Nam chỉ vò tò mò về cuộc chiến, song trước những điều mắt thấy tai nghe, họ đã mang trong mình tinh thần phản chiến, sẵn sàng lên án cuộc xâm lược tàn ác của nước Mỹ đối với dân tộc Việt Nam.

Cuộc gặp lại của những phóng viên chiến trường trong nước và quốc tế đúng dịp kỷ niệm 50 năm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, đã một lần nữa khẳng định giá trị của hòa bình và sự tri ân của Việt Nam đối với bạn bè quốc tế nói chung và các nhà báo nước ngoài nói riêng – những người đã chọn đứng về phía chính nghĩa, sẵn sàng ủng hộ Việt Nam trong những lúc khó khăn, gian nguy nhất. Trở lại Việt Nam sau nửa thế kỷ (kể từ ngày 30/4/1975), các phóng viên chiến trường cùng nhau ôn lại nhiều ký ức đau thương nhưng cũng xen lẫn niềm hạnh phúc. Mỗi người một câu chuyện, nhưng tất cả cựu phóng viên chiến trường đều có điểm chung là tình cảm nồng nàn với dải đất hình chữ “S”. Trên tất cả, họ cùng có chung một tình yêu vô bờ bến đối với Việt Nam, một đất nước xinh đẹp và những con người bao dung, đã từng vào sinh ra tử với họ trên chiến trường ác liệt. Sau Giải phóng, một số phóng viên chiến trường thậm chí đã trở lại Việt Nam, lấy vợ người Việt, học tiếng Việt để thêm hiểu, thêm yêu đất nước mà họ đã gắn bó suốt một thời thanh xuân.

Buổi gặp gỡ các cựu phóng viên chiến trường diễn ra trong không khí ấm áp, vui vẻ, đúng tại sân thượng của khách sạn Caravelle – nơi hơn 50 năm trước các phóng viên quốc tế thường tác nghiệp. Ảnh: VOV

Cuộc giao lưu lần này được tổ chức đúng tại sân thượng của khách sạn Caravelle – địa điểm họp mặt, làm việc của phóng viên nước ngoài tại Sài Gòn trước ngày Giải phóng. Sau 50 năm, đạo diễn, nhà văn, nhà báo, cựu phóng viên chiến trường Xuân Phượng (96 tuổi) không khỏi ngậm ngùi khi nghĩ đến đến các phóng viên chiến trường Việt Nam và quốc tế đã mất. “Các anh chị ấy không còn có dịp để dự ngày vui hôm nay. Tôi nhiều lần nhận được thư của người nhà các phóng viên chiến trường ấy, họ mong rằng có dịp đến thăm Việt Nam. Có con trai một phóng viên chiến trường Pháp đã mất, viết thơ cho tôi nói rằng, bố của anh ấy có khuyên anh “Phải một lần đến Việt Nam, thăm lại những nơi bố đã đi qua để hiểu vì sao bố lại tự nguyện đi vào con đường giúp đỡ Việt Nam trong những năm ấy”, bà Phượng nghẹn ngào kể lại.

Có mặt tại buổi giao lưu, nhà văn, nhà báo cách mạng Đoàn Minh Tuấn (94 tuổi) – từng là phóng viên chiến trường từ năm 1961 đến ngày thống nhất đất nước –  đã bày tỏ sự ghi nhận và tình cảm trân quý đối với những đồng nghiệp nước ngoài yêu Việt Nam, yêu hòa bình trong thời đại hội nhập hôm nay. “Rất cám ơn những người bạn Mỹ đã luôn ở bên cạnh Việt Nam. Các bạn phóng viên chiến trường, dù phía bên kia hay bên này, chúng ta đều là những người bạn. Việt Nam có chính sách hòa hợp dân tộc và ngoại giao cây tre, dù gió nào thì rạp xuống rồi cũng vùng dậy, không thể đè bẹp được cây tre” – ông Tuấn khẳng định.

Nhân ngày Báo chí Cách mạng Việt Nam 21/6, xin gửi lời tri ân và sự tôn vinh đối với những cống hiến to lớn của các phóng viên chiến trường nước ngoài từng hoạt động tại Việt Nam trong suốt cuộc kháng chiến trường kì của dân tộc. Chính những hi sinh thầm lặng của họ đã góp phần không nhỏ làm nên chiến thắng vĩ đại của nhân dân Việt Nam, giúp thế giới chứng kiến một Việt Nam đau thương mà anh hùng, đã và đang từng bước chữa lành vết thương chiến tranh để vươn mình hội nhập, tiến đến một kỷ nguyên mới sau 50 năm độc lập, thống nhất.■

Đinh Thảo

BÌNH LUẬN

BÀI VIẾT LIÊN QUAN