
Sáng 30/4/2025, bầu không khí trên khắp đất nước Việt Nam tràn ngập những thanh âm tự hào và xúc động. Tiếng kèn vang lên mở màn lễ kỷ niệm 50 năm Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước – một cột mốc chói lọi trong lịch sử dân tộc. Lá cờ đỏ sao vàng tung bay phấp phới trên bầu trời xanh, trong tiếng vỗ tay và hò reo của hàng vạn người dân. Nhìn dòng người hân hoan trên các tuyến phố và những cựu chiến binh tóc đã bạc phơ mỉm cười rưng rưng, chúng ta chợt hiểu sâu sắc rằng: Việt Nam là một dân tộc đặc biệt. Sự đặc biệt ấy không tự nhiên mà có, nó được hun đúc từ lửa đạn chiến tranh, từ máu và hoa của biết bao thế hệ người Việt.
Lịch sử đã thử thách dân tộc Việt Nam suốt hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước. Đất nước nhỏ bé này nằm bên cạnh một đế chế phong kiến khổng lồ, đã từng bị phương Bắc đô hộ hơn một nghìn năm. Từ thế kỷ II TCN cho đến tận thế kỷ X, dân tộc ta phải sống dưới ách thống trị của các triều đại phong kiến Trung Hoa. Thế nhưng, dù đêm trường nô lệ kéo dài, ý chí quật cường của người Việt chưa bao giờ tắt. Những cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng, Bà Triệu, đến chiến thắng Bạch Đằng năm 938 dưới thời Ngô Quyền… tất cả đã chứng minh một chân lý: người Việt Nam thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ. Chính trong lửa thử vàng ấy, bản lĩnh dân tộc được tôi luyện qua từng thế hệ, hun đúc nên một tinh thần bất khuất không gì khuất phục nổi.
Sau khi giành lại độc lập từ phương Bắc, suốt nhiều thế kỷ, Việt Nam lại phải liên tục chống trả các đợt xâm lăng từ phương Bắc. Lịch sử Việt Nam là một thiên anh hùng ca bất tận về những cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại. Mỗi chiến thắng như Chương Dương, Hàm Tử, hay Chi Lăng, Đống Đa… không chỉ bảo vệ non sông gấm vóc mà còn hun đúc lòng yêu nước nồng nàn cho muôn đời sau. Truyền thống ấy chính là nền tảng tạo nên một dân tộc quật cường, đặc biệt.
Bước sang thế kỷ XX, vận mệnh lại một lần nữa thử thách người Việt. Thực dân Pháp nổ súng xâm lược năm 1858, mở đầu gần một thế kỷ đô hộ. Hơn 80 năm, người dân Việt Nam rên xiết dưới ách thực dân, chịu bao cảnh lầm than mất nước. Nhưng cũng chính trong đêm trường ấy, ngọn lửa đấu tranh âm ỉ chưa khi nào lụi tàn. Năm 1945, dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cả dân tộc vùng lên Tổng khởi nghĩa, lật đổ xiềng xích thực dân phong kiến. Bản Tuyên ngôn Độc lập ngày 2/9/1945 vang vọng tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội tuyên bố: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập”. Đất nước bước sang một trang mới đầy hy vọng.
Thế nhưng, niềm vui chưa trọn thì thực dân Pháp quay lại, buộc nhân dân ta phải cầm súng một lần nữa. Cuộc kháng chiến chống Pháp gian khổ kéo dài 9 năm đã kết thúc bằng Chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”. Đó là một kỳ tích vẻ vang, lần đầu tiên trong lịch sử, một nước thuộc địa nhỏ bé đánh bại đội quân viễn chinh tinh nhuệ của chủ nghĩa thực dân phương Tây. Thế nhưng, ngay sau đó, đất nước lại bị chia cắt hai miền do sự can thiệp của Mỹ. Những năm 1960-1970, cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước diễn ra ác liệt chưa từng có. Mỹ – một siêu cường quân sự hùng mạnh nhất thế giới thời bấy giờ – đã huy động nửa triệu quân cùng vũ khí tối tân, rải hàng triệu tấn bom đạn xuống dải đất hình chữ S nhỏ bé. Bom đạn cày nát làng mạc, biết bao sinh mạng thường dân vô tội ngã xuống, đau thương chồng chất đau thương. Vậy mà, “không có gì quý hơn độc lập, tự do” – chân lý thiêng liêng mà Bác Hồ đã khẳng định – đã tiếp thêm sức mạnh cho cả dân tộc. Người Việt Nam quyết đứng lên chiến đấu bảo vệ Tổ quốc bằng mọi giá. Suốt 21 năm trường kỳ kháng chiến, hàng triệu thanh niên ưu tú đã ra chiến trường với lời thề “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Và rồi điều kỳ diệu đã đến. Mùa xuân năm 1975, chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử toàn thắng. Ngày 30/4/1975, những chiếc xe tăng húc đổ cánh cổng Dinh Độc Lập ở Sài Gòn, đánh dấu thắng lợi trọn vẹn của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
Khoảnh khắc ấy đã khép lại một thời kỳ chiến tranh đau thương, mở ra kỷ nguyên hòa bình, thống nhất đất nước. Bắc – Nam sum họp một nhà sau hơn 20 năm chia cắt. Cả dân tộc vỡ òa trong niềm vui độc lập, tự do. Đó là một trong những giây phút huy hoàng nhất trong lịch sử Việt Nam, đưa nước ta “ra khỏi đêm dài nô lệ, bước tới bình minh rực rỡ của tự do”. Nhìn lại chặng đường trường chinh đầy máu lửa ấy, ai cũng phải thừa nhận: nếu không có những đau thương và những chiến công chói lọi đó, Việt Nam đã không thể đặc biệt như ngày hôm nay. Những cuộc kháng chiến chống ngoại xâm liên tiếp, từ chống Pháp, chống Mỹ cho đến chiến tranh bảo vệ biên giới về sau, là một chuỗi kỳ tích nối tiếp trong trang sử vàng của dân tộc. Mỗi một kỳ tích đều đánh đổi bằng biết bao máu xương và nước mắt, nhưng chính nó đã hun đúc nên tâm hồn Việt Nam kiên cường, bất khuất và nhân ái. Càng trải qua gian khó, dân tộc ta càng tỏa sáng những phẩm chất cao quý: yêu nước, thương nòi, anh dũng, kiên trung. Đó chính là những giá trị khiến Cố vấn An ninh Quốc gia Mỹ Kissinger và Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai từng thừa nhận Việt Nam là nước đặc biệt và vĩ đại.
Chiến tranh kết thúc, tưởng rằng dân tộc Việt Nam sẽ được hưởng trọn vẹn hòa bình. Nhưng không, những thử thách mới lại đến, không kém phần khốc liệt. Năm 1975, đất nước bị tàn phá nặng nề, mọi thứ gần như bắt đầu từ con số 0. Chưa kịp hàn gắn vết thương chiến tranh, Việt Nam đã phải đối mặt với bao vây cấm vận về kinh tế và cô lập về ngoại giao từ nhiều phía. Suốt hơn một thập niên sau giải phóng, chúng ta sống trong tình cảnh bị phong tỏa gần như hoàn toàn với thế giới bên ngoài. Đời sống nhân dân vô cùng khó khăn, kinh tế kiệt quệ, cơ sở vật chất nghèo nàn. Thế nhưng, một lần nữa, tinh thần Việt Nam kiên cường lại tỏa sáng. Không khuất phục trước nghịch cảnh, đất nước đã tìm ra con đường đi lên bằng chính nội lực của mình.
Năm 1986, công cuộc Đổi Mới được khởi xướng, thắp lên hy vọng đưa Việt Nam thoát khỏi khủng hoảng. Từ đó, Việt Nam từng bước vượt qua mọi rào cản, vươn mình hội nhập với cộng đồng quốc tế. Chỉ mười năm sau Đổi Mới, Việt Nam đã bình thường hóa quan hệ với các nước lớn, phá bỏ thế cô lập. Năm 1995, Việt Nam thiết lập quan hệ ngoại giao với Hoa Kỳ, gia nhập ASEAN – cánh cửa rộng mở để kết nối với khu vực Đông Nam Á năng động. Những năm đầu thập niên 2000, Việt Nam tiếp tục gia nhập APEC, WTO và nhiều tổ chức quốc tế khác, hòa mình vào dòng chảy toàn cầu. Sau nửa thế kỷ hòa bình, Việt Nam đã vươn lên mạnh mẽ, trở thành một quốc gia phát triển năng động. Thành phố Hồ Chí Minh ngày nay với những tòa nhà chọc trời vươn cao là minh chứng cho sự “thay da đổi thịt” kỳ diệu của đất nước. Từ một quốc gia nghèo nàn vì chiến tranh tàn phá, Việt Nam đã vươn lên trở thành một nền kinh tế phát triển nhanh hàng đầu thế giới. Những con số biết nói: tăng trưởng GDP trung bình 6-7% một năm trong suốt ba thập kỷ qua, liên tục nằm trong nhóm các nước tăng trưởng kinh tế cao nhất toàn cầu. Đời sống người dân được cải thiện rõ rệt, tỷ lệ hộ nghèo giảm mạnh, diện mạo đất nước thay đổi từng ngày. Việt Nam đã từ đống tro tàn chiến tranh vươn lên thành con hổ kinh tế mới của châu Á, là trung tâm sản xuất của thế giới, được bạn bè quốc tế ngưỡng mộ.
Không chỉ kinh tế, Việt Nam còn gặt hái nhiều thành tựu trong quan hệ đối ngoại. Từ chỗ bị cô lập, giờ đây Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao rộng mở với hầu hết các quốc gia trên thế giới. Đặc biệt, ta đã thiết lập quan hệ đối tác chiến lược và đối tác chiến lược toàn diện với hầu hết các cường quốc và trung tâm kinh tế lớn: từ Nga, Trung Quốc đến Nhật Bản, Ấn Độ, từ Liên minh châu Âu đến Hoa Kỳ. Việt Nam hiện là bạn, là đối tác tin cậy của các nước láng giềng trong khu vực ASEAN và các nước lớn trên thế giới. Chúng ta cũng tích cực đóng góp vào các vấn đề toàn cầu: hai lần làm Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc, tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình LHQ, chủ trì thành công nhiều hội nghị quốc tế (APEC 2017, Thượng đỉnh Mỹ-Triều 2019…). Tất cả cho thấy vị thế Việt Nam đã vươn lên một tầm cao mới trên trường quốc tế.
Thời gian thấm thoát thoi đưa, đã 50 năm trôi qua kể từ ngày 30/4/1975 lịch sử. Nửa thế kỷ – quãng thời gian đủ dài để nhìn lại và cảm nhận sâu sắc dư âm của ngày đại thắng năm xưa. Ngày 30/4 giờ đây không chỉ là dịp kỷ niệm chiến thắng, mà đã trở thành biểu tượng cô đọng nhất của mọi giá trị cao quý mà dân tộc Việt Nam gây dựng: đó là chiến thắng, là độc lập, là hòa bình, là phát triển và hội nhập. Tất cả hội tụ trong lễ kỷ nhiệm ngày thống nhất đất nước. Trên khắp các tỉnh thành, cờ Tổ quốc được treo rực rỡ, các hoạt động kỷ niệm diễn ra sôi nổi. Đặc biệt, lễ diễu binh, diễu hành quy mô lớn càng làm cho không khí thêm trang trọng, hào hùng.
Điều đáng nói là lễ diễu binh của Việt Nam không mang màu sắc phô trương vũ khí, đe dọa bất kỳ quốc gia nào, mà trái lại, đó là dịp để phô diễn sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc. Thay vì phô trương vũ khí hiện đại, các cuộc diễu binh của Việt Nam chú trọng thể hiện tinh thần đoàn kết và ý chí kiên cường của một dân tộc yêu chuộng hòa bình. Trên lễ đài, chúng ta thấy hình ảnh các lực lượng quân đội, công an sánh vai cùng công nhân, nông dân, trí thức, thanh niên, phụ nữ… bước đều trong một nhịp. Mọi giai tầng xã hội, mọi dân tộc anh em trên mảnh đất hình chữ S đều chung một hàng ngũ, cùng hướng về màu cờ Tổ quốc. Đó chính là biểu tượng đẹp nhất cho sức mạnh đại đoàn kết – nguồn sức mạnh vô địch đã giúp Việt Nam vượt qua mọi kẻ thù xâm lược. Tiếng bước chân rầm rập vang vọng trên quảng trường không nhằm thị uy, mà để nhắc nhở chúng ta về giá trị của độc lập hòa bình, về trách nhiệm giữ gìn và phát huy thành quả cách mạng. Đồng thời, qua những cuộc diễu binh trang nghiêm mà giản dị ấy, Việt Nam muốn gửi tới bạn bè quốc tế thông điệp: sức mạnh lớn nhất của Việt Nam nằm ở những con người đặc biệt, tinh thần gắn kết quốc gia đặc biệt. Nhìn những đoàn quân và nhân dân diễu hành với khí thế hừng hực chúng ta tự hào biết bao khi sống trong một đất nước đồng lòng chung sức. Tự hào biết bao khi nghĩ rằng dân tộc mình tuy nhỏ bé nhưng đã viết nên những trang sử hào hùng khiến cả thế giới khâm phục. Từ Điện Biên Phủ 1954 đến Đại thắng Mùa Xuân 1975, từ những năm tháng cô lập nghèo nàn đến một Việt Nam hội nhập, phát triển hôm nay, tất cả đều là phép màu có thật được tạo nên bởi ý chí và khát vọng Việt Nam.
Dịp lễ 30/4 năm nay càng thêm ý nghĩa khi có nhiều bạn bè quốc tế đến chung vui, chúc mừng. Lãnh đạo của các nước láng giềng và đối tác lớn đã tới và gửi những lời chúc nồng ấm đến nhân dân ta, ca ngợi ý chí quật cường và thành tựu 50 năm xây dựng đất nước. Hình ảnh những vị khách quốc tế bắt tay chúc mừng các vị lãnh đạo Việt Nam trên lễ đài cho thấy vị thế mới của đất nước ta. Từ một dân tộc từng phải chiến đấu cho sự thừa nhận của thế giới, nay Việt Nam đã trở thành một thành viên có uy tín trong cộng đồng quốc tế.
Nhìn lại quá khứ, chúng ta có quyền tự hào sâu sắc về những gì dân tộc mình đã trải qua và đạt được. Biết bao xương máu đã đổ xuống để tô thắm màu cờ Tổ quốc, để mỗi chúng ta hôm nay được sống trong độc lập, tự do. Lịch sử oai hùng ấy là tài sản tinh thần vô giá, nhắc nhở thế hệ trẻ về trách nhiệm gìn giữ và phát huy. Tự hào quá khứ nhưng không ngủ quên trên chiến thắng, người Việt Nam hiểu rằng đặc biệt không có nghĩa là tự mãn, mà là động lực để tiếp tục phấn đấu vươn lên. Nửa thế kỷ hòa bình đã qua, một tương lai tươi sáng đang mở ra trước mắt. Với nền tảng là truyền thống anh hùng và tinh thần đoàn kết đã được thử thách qua thời gian, Việt Nam đang tự tin sải những bước vững chắc trên con đường phát triển.
Và cứ mỗi dịp 30/4 trở về, triệu trái tim Việt Nam lại hòa chung một nhịp đập tự hào, như một lời nhắc nhở thiêng liêng: Hãy trân trọng quá khứ, đoàn kết trong hiện tại và vững tin hướng tới tương lai. Bởi chính những điều đó đã và đang làm nên một Việt Nam – dân tộc đặc biệt trong trái tim bạn bè thế giới.
Trong thời khắc thiêng liêng, chúng ta cũng không quên con người đặc biệt nhất của dân tộc đặc biệt Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh chính là kết tinh cao nhất của tinh thần Việt Nam, hội tụ trong con người của Bác tất cả những phẩm chất cao quý nhất của dân tộc ta. Ở Người, ta thấy một ý chí bất khuất trước mọi thế lực xâm lăng; một trí tuệ sáng suốt để dẫn dắt con đường cứu nước; một nghị lực kiên cường vượt qua muôn vàn gian khó; cùng tấm lòng nhân ái bao la và đức khiêm nhường hiếm có.
Những phẩm chất ấy không phải ngẫu nhiên mà có, mà chính là sự kết tinh từ truyền thống ngàn năm của dân tộc, tỏa sáng rực rỡ nơi con người Hồ Chí Minh. Từ chỗ đất nước bị áp bức lầm than, tưởng chừng như “không” còn chút ánh sáng hy vọng, chính Chủ tịch Hồ Chí Minh đã biến điều tưởng như không thể ấy thành hiện thực, đã “biến không thành có”. Khi chưa có lực lượng, Người dựng nên lực lượng; khi chưa có đường lối, Người tìm ra ánh sáng học thuyết cách mạng để mở lối đi; khi chưa có phương pháp, Người đem về phương pháp đấu tranh đúng đắn và niềm tin chiến thắng.
Bác Hồ đã bôn ba khắp năm châu bốn biển, mang về cho dân tộc ta ngọn đuốc lý luận cách mạng, mở ra con đường giải phóng dân tộc hoàn toàn mới mẻ. Nhờ đó, nhân dân Việt Nam từ tay trắng đã đứng lên giành độc lập, tự do mùa thu năm 1945. Tiếp đó, dưới ngọn cờ của Người, cả dân tộc tiếp tục làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ và đặt nền móng vững chắc để năm 1975, non sông thu về một mối.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã mở ra một thời đại mới cho dân tộc – thời đại Hồ Chí Minh, thời đại của độc lập, tự do và tự cường dân tộc. Ở thời đại ấy, mỗi người dân Việt Nam từ thân phận nô lệ đã trở thành người làm chủ quê hương, mang trong mình lòng tự hào và ý thức tự chủ mãnh liệt. Chính tấm gương và tư tưởng của Bác đã truyền cho toàn dân tộc một nguồn cảm hứng vô tận, đánh thức tinh thần yêu nước nồng nàn và ý chí tự lực, tự cường vốn tiềm ẩn trong con Lạc cháu Hồng. Nhờ ánh sáng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, dân tộc ta bước sang một trang mới, tự tin sánh vai cùng các cường quốc năm châu như ước nguyện Người ấp ủ.
Trong dòng chảy hào hùng của lịch sử dân tộc thế kỷ XX, Chủ tịch Hồ Chí Minh chính là mắt xích trung tâm, nối quá khứ oanh liệt với tương lai rạng rỡ của đất nước. Người đã kế thừa và hoàn thiện những giá trị đặc biệt nhất của dân tộc Việt Nam, đưa những phẩm chất ấy lên tầm cao mới và tạo thành di sản tinh thần vô giá cho muôn đời sau. Tinh thần bất khuất, trí tuệ, kiên cường, nhân ái, khiêm nhường – những giá trị cốt lõi kết tinh ở Bác Hồ – đã trở thành tài sản chung của dân tộc ta.
Chúng ta, những thế hệ tiếp nối, không được phép đánh mất những giá trị đặc biệt đó, mà phải luôn trân trọng, hoàn thiện, phát huy và truyền lại cho con cháu mai sau. Bởi lẽ, trong kỷ nguyên mới mà chúng ta đang vươn tới, chính những giá trị ấy, với Hồ Chí Minh là biểu tượng rạng ngời, sẽ mãi mãi là nền tảng sức mạnh, là ngọn lửa tinh thần dẫn dắt dân tộc Việt Nam vững bước vào tương lai.■
Xuân Sơn