Quốc thư trao đổi giữa Vua Louis XIV và Chúa Trịnh năm 1681

Sau khi Hội Truyền giáo Hải ngoại được thành lập, năm 1664, Thượng thư Colbert của nước Pháp đã lập ra Công ty Đông Ấn Độ (Compagnie des Indes Orientales), bề ngoài là nhằm phụ trách việc ngoại thương với các nước Châu Á, nhưng chủ yếu là làm bình phong để đưa các giáo sĩ đi truyền giáo. 

Sách “Việt Nam Pháp Thuộc Sử, 1884 – 1945” của Phan Khoang xuất bản tại Sài Gòn năm 1961 có ghi lại như sau:

“Giám mục Francois Pallu hết sức đề nghị với Thượng thư Colbert, xin lập chi cuộc cho công ty ở đất Đàng Ngoài. Năm 1674, Giám mục sang xứ Đàng Ngoài để dâng phẩm vật lên vua Lê Gia Tông, nhưng tàu gặp bão, phải ghé Phi Luật Tân. Vì thấy ông có mang theo một chương trình dự định thiết lập chi cuộc cho Công ty Đông Ấn Độ ở Đàng Ngoài nên viên toàn quyền Y-Pha-Nho bắt giam ông, rồi đưa về nước Ý. Sau khi được tha, Giám mục được Đức Giáo Hoàng sai sang dâng vua Đàng Ngoài một bức thư và phẩm vật (gồm một đồng hồ treo, có chuông, ban đêm trông thấy giờ, 2 cái gương soi, 80 chậu hoa, hoa bằng lụa, nhiều bức họa phẩm); Pháp hoàng Louis XIV cũng cấp cho ông 15.000 franc để làm lộ phí sang Viễn Đông, và thư cùng 20.000 franc để sắm phẩm vật dâng vua Xiêm La và vua Đàng Ngoài.

Năm 1680, Công ty Đông Ấn Độ sai một lái buôn là Chapelain và chiếc tàu Tonquin từ Surate (Ấn Độ) đem hàng hóa đến xứ Đàng ngoài. Chapelain dâng phẩm vật cho Vua, Chúa ta rồi được ở buôn bán, mở cửa hàng ở Hưng Yên. Năm sau, tàu Tonquin trở về, có chở theo ít hàng hóa như xạ hương và tơ lụa. Thấy chuyến đi ấy có kết quả, Giám mục Pallu bấy giờ ở Âu châu sang đến Surate, khuyên công ty cho một tàu khác sang Đàng Ngoài để ông sang đưa thư của Giáo hoàng và Pháp hoàng.

Năm 1682, Công ty Đông Ấn cho chiếc tàu Saint Joseph sang Đông; tàu ghé Xiêm La, Giám mục Pallu ở lại đấy; thư của Pháp hoàng Louis XIV thì ủy mấy giáo sĩ sang chuyến tàu ấy đem dâng, còn thư của Giáo hoàng thì không biết vì sao Giám mục không gửi đi… Thư ấy và phẩm vật dâng lên Trịnh Tạc (1657-1682). Mấy ngày sau Chúa mất. Chúa Trịnh Căn (1682-1709) mới kế vị cha, ủy lạo các giáo sĩ, trả lời thư và tặng vua Pháp mấy tấm hàng thêu”.

Tạp chí Phương Đông trân trọng giới thiệu với độc giả bức thư của vua Louis XIV gửi Chúa Trịnh Tạc, và bức thư phúc đáp của Chúa Trịnh Căn (Chúa Trịnh Tạc – Hoằng Tổ Dương Vương, mất năm 1682. Con trưởng của Trịnh Tạc là Trịnh Căn lên nối ngôi Chúa, tức Chiêu Tổ Khang Vương, giữ ngôi Chúa được 28 năm và mất năm 1709), in trong cuốn sách La Geste Francaise en Indochine (tạm dịch: Cử chỉ của Pháp ở Đông Dương) do Georges Taboulet biên soạn, xuất bản tại Paris năm 1955.

 

THƯ CỦA VUA NƯỚC PHÁP GỬI CHÚA TRỊNH, NGÀY 10 THÁNG 1 NĂM 1681

Vua Louis XIV của Pháp (1638-1715). Tranh của Hyacinthe Rigaud.

Kính thưa Quân Vương tối cao, tối hảo, tối dũng và tối hào hiệp, vị bằng hữu vô cùng thân thiết và tốt bụng của chúng tôi, cầu xin Thượng Đế ban sủng cho sự vĩ đại của Ngài trọn cuộc đời hạnh phúc!

Chúng tôi được nghe từ các thần dân của chúng tôi sống tại Vương Quốc của Ngài về sự bảo vệ mà Ngài đã ban cấp cho họ. Chúng tôi tán thưởng điều này nhiều hơn nữa bởi chúng tôi vốn đã dành cho Ngài tất cả sự tôn kính có được đối với một vị quân vương như được thể hiện bằng những chiến công anh dũng, và sự thán phục vì lẽ công bình mà Ngài đã thực thi tại Vương Quốc của Ngài. Chúng tôi cũng được thông báo rằng Ngài đã không vui lòng ban bố sự bảo vệ này cho các thần dân của chúng tôi nhưng Ngài đã đặc biệt ban cấp sự che chở hữu hiệu cho các ông Deydier và de Bourges (1). Chúng tôi đã ước ao rằng họ có dịp tôn vinh mọi ân sủng mà họ nhận được từ Ngài bằng việc dâng lên Ngài những món quà quý giá; thế nhưng bởi chúng tôi đã trải qua nhiều năm chiến tranh, trong đó toàn bộ Châu Âu đã liên kết chống lại chúng tôi, đã ngăn chặn tàu thuyền chúng tôi đi sang Ấn Độ [Dương]. Hiện nay, chúng tôi đã ở thời bình sau khi đã giành được nhiều chiến thắng và mở rộng Vương Quốc bằng việc chinh phục được nhiều địa điểm quan yếu, chúng tôi lập tức ra lệnh cho Hiệp hội Hoàng gia (Tức Công ty Đông Ấn Độ – Compagnie des Indes Orientales) do hoàng triều Pháp thành lập – ND) phải hiện diện tại Vương Quốc của Ngài càng sớm càng tốt, và đã chỉ thị các ông Deydier và de Bourges ở lại bên Ngài để duy trì mối giao hảo giữa các thần dân của chúng tôi với các thần dân của Ngài, đồng thời để báo cho chúng tôi hay biết về những cơ hội giúp chúng tôi có thể trình lên Ngài những bằng cớ về lòng tôn kính của chúng tôi và về ước muốn của chúng tôi được đóng góp vào sự hài lòng của Ngài cũng như các quyền lợi tốt đẹp nhất của Ngài.

Trước tiên, chúng tôi đã ra lệnh dâng lên Ngài một số tặng phẩm mà chúng tôi tin sẽ làm vừa lòng Ngài. Nhưng điều mà chúng tôi ao ước nhất, cho chính Ngài lẫn Vương Quốc của Ngài, là xin hãy để cho các thần dân của Ngài, những kẻ vốn đã sẵn tin ở định luật chỉ có một Thượng Đế chân chính duy nhất bao gồm cả đất và trời, được quyền tự do theo đạo. Bởi đây là luật tối thượng, cao quý nhất, thiêng liêng nhất và đặc biệt thích hợp nhất để tạo ra các vị quân vương có quyền trị vì tuyệt đối trên người dân.

Chúng tôi còn hoàn toàn tin rằng, nếu Ngài hay biết được các chân lý và châm ngôn mà đạo này (Thiên Chúa giáo) rao giảng, ngay chính Ngài sẽ đem lại trước tiên cho thần dân một tấm gương chói rạng về việc tin đạo. Chúng tôi cầu chúc Ngài nhận được ân sủng vô lường này cùng với một thời trị vì lâu dài và hạnh phúc. Chúng tôi cầu nguyện Thượng Đế vui lòng tăng tiến sự cao cả của Ngài bằng những thành quả rực rỡ nhất.

Saint-Germain-en-Laye, ngày 10 tháng 1 năm 1681,

Người bạn vô cùng thân thiết và tốt bụng của Ngài,

Ký tên: Louis

THƯ TRẢ LỜI CỦA CHÚA TRỊNH GỬI VUA LOUIS XIV

Chúa miền Bắc Việt Nam gửi đến Quốc Vương nước Pháp bức thư này để bày tỏ với Ngài những tình cảm tốt đẹp nhất của Chúa. Chúa lấy làm vui mừng được biết rằng lòng tín đạo là một đức tính vững chắc của con người và rằng lẽ công bình là một điều quan trọng nhất. Do đó, việc thực hành lòng tín đạo và lẽ công bình chỉ có thể mang lại các kết quả tốt đẹp mà thôi. Trong thực tế, mặc dù nước Pháp và Vương Quốc chúng tôi có sông núi và biên cương khác nhau, nhưng nếu lòng tín đạo và lẽ công bình bao trùm khắp làng xã chúng ta, sự điều hành của chúng ta sẽ biểu lộ thiện cảm và chứa chất những tặng phẩm quý báu. Sự thông tin của Ngài, đến từ một xứ sở cách xa ngàn vạn dặm và xuất phát từ trái tim, đã chứng nhận cho sự thành thật của Ngài, thật đáng cứu xét kỹ lưỡng và ca ngợi vô cùng. Phép lịch sự đối với khách lạ không phải là điều bất thường tại xứ sở chúng tôi. Không có một khách ngoại quốc nào lại không được chúng tôi đón tiếp nồng hậu. Làm sao chúng tôi lại từ chối được một người đến từ Pháp quốc, một trong những vương quốc nổi danh nhất trên thế giới, yêu mến chúng tôi và mong muốn đến thăm và mang hàng hóa đến với chúng tôi? Những cảm xúc về lòng tín đạo và lẽ công bình này thực sự đáng được ca ngợi biết bao.

Phủ chúa Trịnh. Hình vẽ trong cuốn A Description of the Kingdom of Tonqueen của Samuel Baron, 1685. Chú thích: Buổi chầu của Chúa Đàng Ngoài. 1. Chúa ngồi trên một cái võng (trên lầu). 2. Các quan theo thứ bậc. 3. Lính nội phủ canh gác (dưới trệt). 4. Binh lính (nhóm 3 người hai bên đang vác hèo).

Về ước muốn của Ngài rằng chúng tôi nên hợp tác trong việc truyền bá tôn giáo của Ngài, chúng tôi không dám cho phép làm việc này, bởi có một phong tục cổ truyền, được ban ra bằng các chỉ dụ, chính thức ngăn cấm việc này. Ngày nay, các chỉ dụ được ban hành chỉ là để thi hành một cách trung thực [cổ tục đó]; không có lòng trung thành, sẽ không có gì ổn định. Làm sao chúng tôi có thể xem nhẹ một tập tục đã được thiết lập vững chắc để thỏa mãn cho một quan hệ bằng hữu riêng tư? Ngày nay nước Pháp mang hàng hóa sang đất nước chúng tôi để bán hay trao đổi; nước Pháp thực hành lẽ công bình thông qua sự thịnh vượng và thực thi lòng tín đạo… Trong cung cách này, tình hữu nghị được đặt trên lẽ công bình và lòng tín đạo, và chính vì thế có thể bền chặt như vàng hay đá. Khi đó tại sao lại bắt buộc rằng chúng ta phải có cùng một ước muốn [tôn giáo]?

Chúng tôi xin Ngài hiểu rõ rằng đây là sự thông đạt của chúng tôi về mối giao hảo của chúng ta. Chúng tôi gửi đến Ngài một món quà khiêm tốn với hảo tâm của chúng tôi.

Thư này được viết vào tiết lập đông và trong một ngày tươi đẹp.■

Ngô Bắc dịch

 

Chú thích:

1. Theo sách “Việt Nam Pháp Thuộc Sử, 1884 – 1945” của Phan Khoang, “Giáo sĩ Deydier được giám mục Lambert de la Motte phái sang Đàng Ngoài từ năm 1666. Ban đầu, ông phải cải trang làm kẻ buôn bán, sống cực khổ ở Kẻ Chợ (Thăng Long) và phải trải qua nhiều khó khăn, vất vả để giảng đạo. Năm 1669, Chúa Trịnh Tạc lại ra lệnh cấm đạo, đốt phá các giáo đường và bắt giam giáo đồ. Cũng năm ấy, Giám mục De la Motte đi một chiếc tàu Pháp đến kinh lược miền Bắc thay cho Pallu, đem theo giáo sĩ Jacques de Bourges để ở lại cùng Deydier lo việc tông đồ… Giám mục Lambert de la Motte và hai giáo sĩ De Bourges và Bouchard đến xứ Đàng Ngoài, ăn bận như người buôn bán, tự nhận là nhân viên Công ty Đông Ấn Độ. Tuy bị người Hà Lan tố cáo với Vua, Quan Việt Nam, nhưng Giám mục và hai giáo sĩ cũng được đất làm nhà ở rồi giả danh buôn bán để truyền giáo…”.

BÌNH LUẬN

BÀI VIẾT LIÊN QUAN