Tài liệu giải mật: Nixon, Kissinger và những kế hoạch theo chiến lược “Kẻ điên rồ” trong năm 1969

Trong một bản ghi nhớ năm 1972, Henry Kissinger, Cố vấn an ninh quốc gia của Tổng thống Mỹ Richard Nixon, đã giải thích với một quan chức của Bộ Quốc phòng rằng chiến lược của Nixon là làm cho “đối phương nghĩ rằng chúng ta có thể “điên rồ” và có thể sẽ thực sự đi xa hơn nữa”, để những đối thủ như Liên Xô hay Bắc Việt phải lùi bước và tuân theo ý muốn của Mỹ trong các cuộc đàm phán ngoại giao.  

Chính từ chiến lược “Kẻ điên rồ” (Madman) này, từ đầu năm 1969, Nixon và Kissinger đã khởi xướng các kế hoạch quân sự bí mật như “vờ” thả thủy lôi để răn đe ở Cảng Hải Phòng, và sau đó là một kế hoạch rải thủy lôi thực sự sau khi việc đe dọa thất bại. Thậm chí, Nixon còn nhờ trung gian người Pháp Jean Sainteny chuyển “tối hậu thư” đến Chủ tịch Hồ Chí Minh, cảnh báo chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa rằng nếu họ không phản hồi tích cực với các yêu cầu đàm phán của Hoa Kỳ trước ngày 1/11/1969, thì “các biện pháp có hậu quả nghiêm trọng và vũ lực” sẽ được thực hiện đối với Bắc Việt. Tạp chí Phương Đông trích dịch giới thiệu tới độc giả một số tài liệu giải mật về các kế hoạch này, qua phần giới thiệu của National Security Archive, một tổ chức nghiên cứu và lưu trữ phi chính phủ của Mỹ. Ngôn từ trong bài được giữ nguyên so với bản gốc để đảm bảo giá trị nghiên cứu, tham khảo.

1. Kế hoạch “vờ” thả thủy lôi tại Cảng Hải Phòng, tháng 4/1969

Thất vọng vì thiếu những chuyển biến thực chất trong các cuộc đàm phán ở Paris và việc Moscow không muốn hoặc không thể thuyết phục Hà Nội thỏa hiệp theo các điều khoản của Hoa Kỳ, Nixon và Kissinger đã khởi xướng một kế hoạch quân sự bí mật khác với hy vọng thúc đẩy sự hợp tác của Moscow hoặc sự đồng thuận của Hà Nội; nghĩa là, không chỉ là cuộc ném bom bí mật các khu vực căn cứ của đối phương ở Campuchia, vốn đã được phát động vào tháng 3. Theo đề xuất của Kissinger, Nixon đã ra lệnh cho Hải quân Hoa Kỳ tiến hành các cuộc tập trận rải thủy lôi ở Philippines và Vịnh Bắc Bộ, hy vọng rằng thủ đoạn này sẽ khiến Hà Nội tin rằng Washington đang chuẩn bị rải thủy lôi và phong tỏa Hải Phòng cùng các cảng ven biển khác dọc Biển Đông, do đó thúc đẩy họ tham gia vào các cuộc đàm phán cấp cao.

Tổng thống Mỹ Nixon và Cố vấn An ninh quốc gia Kissinger năm 1972. Ảnh: Getty Images

Bộ trưởng Quốc phòng Melvin Laird đã chuyển tiếp bản kế hoạch vờ thả thủy lôi cho Kissinger từ Chủ tịch văn phòng Tổng Tham mưu trưởng Wheeler vào ngày 11/4/1969. Bản kế hoạch này được thiết kế để tạo ra “trạng thái do dự” trong giới lãnh đạo Bắc Việt bằng cách “tạo ra ấn tượng” rằng Washington đang chuẩn bị tiến hành các hoạt động rải thủy lôi chống lại Bắc Việt. Kế hoạch thả thủy lôi giả bao gồm các “hành động tuần tự” chi tiết từng bước một, bắt đầu bằng việc kiểm kê các tài sản thủy lôi của Bộ Tư lệnh Thái Bình Dương ở Bước 1. Bộ trưởng Laird viết rằng ông ta có “những nghi ngờ nghiêm trọng”. Tuy nhiên, Nixon và Kissinger vẫn khăng khăng rằng kế hoạch này phải được thực hiện vì họ muốn tìm cách thuyết phục giới lãnh đạo Bắc Việt chấp thuận chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ.

TUYỆT MẬT

KẾ HOẠCH THẢ THỦY LÔI GIẢ Ở CẢNG HẢI PHÒNG

Mục tiêu: Tạo ra sự do dự trong Chính phủ Bắc Việt về các hành động quân sự dự tính của Hoa Kỳ, đặc biệt khi chúng liên quan đến việc thả thủy lôi cảng Hải Phòng.

Câu chuyện chung: Hải quân Hoa Kỳ tiến hành thử nghiệm các kế hoạch thả thủy lôi trên toàn Thái Bình Dương, bao gồm các thủ tục hậu cần, huấn luyện, khả năng sẵn sàng thả mìn và thời gian phản ứng. Cuộc tập trận bao gồm việc di chuyển thủy lôi từ các khu vực lưu trữ đến các tàu hoạt động ở Biển Đông.

Giả định: Hoạt động quân sự gia tăng của Hoa Kỳ ở một số khu vực được chuẩn bị cụ thể sẽ được chính quyền Hà Nội chú ý thông qua các hệ thống tình báo và gián điệp cộng sản.

Khái niệm chung: Thực hiện một loạt các hành động quân sự riêng lẻ hoặc tập thể tạo ra ấn tượng rằng Hoa Kỳ đang lập kế hoạch hoặc cân nhắc đến việc rải thủy lôi/mìn ở cảng Hải Phòng. Mỗi hành động sẽ:

a. có thể phủ nhận được, cả công khai và trong chính phủ Hoa Kỳ;

b. có một câu chuyện ngụy trang phù hợp cho phép phủ nhận bất kỳ kế hoạch rải mìn thực tế nào trong trường hợp vô ý bị công khai;

c. tương đối kín đáo khi thực hiện riêng lẻ;

d. đáng tin cậy trong cả tương lai gần và xa.

Trình tự: Các hành động tuần tự sau đây cung cấp một kịch bản về các sự kiện được thiết kế để truyền tín hiệu đến chính quyền Bắc Việt. Những hành động này tạo ra một thứ tự hoạt động ngày càng tăng. Những bước ban đầu có thể dễ phủ nhận là một phần của bất kỳ kế hoạch rải mìn tổng thể nào hơn những bước sau, cả một cách công khai và trong chính phủ Hoa Kỳ. Các hành động bổ sung ở phía cuối vừa có nhiều khả năng đe dọa hơn, vừa khó có thể phủ nhận hơn theo thời gian:

Bước 1:

1. Tham mưu trưởng Hải quân (CNO) chuyển các yêu cầu qua tin nhắn đến Tổng Tư lệnh, Hạm đội Thái Bình Dương (người nhận thông tin thông thường), để:

Thứ 7, ngày 12/4             a. xác nhận hàng tồn kho thực tế trên tàu và vị trí của các tài sản thủy lôi của Bộ tư lệnh Thái Bình Dương. (tin nhắn có thể được truyền ở chế độ BÌNH THƯỜNG, sau đó được nâng cấp lên chế độ MẬT vào ngày hôm sau để tập trung sự chú ý.)

Chủ nhật, ngày 13/4        b. báo cáo tình trạng của các loại mìn và ước tính số giờ làm việc cần thiết để đưa vào trạng thái sẵn sàng hoạt động.

Thứ 2, ngày 14/4             c. xác minh số lượng thủy lôi MK-36 trên các tàu sân bay đã triển khai.

d. báo cáo tình trạng sẵn sàng của mìn trên các phi đội máy bay đã lên tàu.

Thứ 2, ngày 14/4         2. Chỉ đạo Tổng tư lệnh, Hạm đội Thái Bình Dương, chuẩn bị 50 quả mìn MK-52, 50 quả mìn MK-50 và 50 quả mìn MK-55, và duy trì trạng thái sẵn sàng cao tại Subic.

Thứ 4, ngày 16/4         3. Vận chuyển bằng đường hàng không 50 quả mìn MK-52 từ mỗi điểm Yokosuka, Atsugi, Iwakuni và Naha đến Kho đạn dược Hải quân, Vịnh Subic, Philippines.

Thứ 5, ngày 17/4         4. Vận chuyển bằng đường hàng không tất cả các quả mìn MK-52 trơ, đã được cấu hình để huấn luyện từ các địa điểm ở Tây Thái Bình Dương đến Căn cứ Không quân Hải quân Cubi Point, Philippines, để huấn luyện và giảng dạy cho phi công/phi hành đoàn.

Bước 2:

Thứ 7, ngày 19/4         1. Vận chuyển bằng đường hàng không các quả mìn và nhân viên rà phá mìn từ Cubi Point để tấn công các tàu sân bay ở Vịnh Bắc Bộ.

Chủ nhật, ngày 20/4    2. Nạp mìn tiếp tế cho tàu chở đạn dược ở Vịnh Subic, và di chuyển tàu đến Vịnh Bắc Bộ. (điều này để đảm bảo những người bốc xếp bản địa sẽ biết việc này)

Thứ 2, ngày 21/4         3. Tải mìn lên tàu sân bay tấn công ở Vịnh Subic.

Bước 3:

Thứ 3, ngày 22/4         1. Tiến hành các cuộc tập trận tại nhà máy mìn từ Căn cứ Không quân Hải quân Cubi Point dành cho nhân viên phi đội bay trên tàu sân bay.

2. Cung cấp số lượng thích hợp phi công A-6 của Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ với nhiệm vụ bổ sung tạm thời từ Đà Nẵng đến Căn cứ Không quân Hải quân Cubi để có đủ năng lực mìn.

Thứ 6, ngày 25/4         3. Di chuyển 1.000 quả mìn từ Yokosuka đến Subic bằng tàu.

Bước 4: Các hành động bổ sung để nghiên cứu và xem xét thêm; ngày sẽ được xác định sau.

1. Di chuyển các tàu SAR (cứu hộ trên không) và tàu PIRAZ (tuần tra bằng radar) phía Bắc từ các vị trí hiện tại ở phía Nam đến các trạm dừng trước khi ném bom. Cung cấp lực lượng hộ tống phù hợp, CAP (tuần tra chiến đấu trên không)…

2. Tăng cường trinh sát trên các tuyến đường ven biển dẫn đến Hải Phòng.

3. Tiến hành giám sát liên tục và chuyên sâu các tuyến đường biển tiếp cận Hải Phòng bằng máy bay P-3 và ASW (máy bay chiến tranh chống tàu ngầm).

4. Thả dù thủy lôi rỗng xuống khu vực giả vờ là bãi mìn ngoài khơi các tuyến đường biển tiếp cận Hải Phòng. (nếu thời gian cho phép, có thể sản xuất các vật có hình dạng giống thủy lôi, có thể hòa tan trong nước.)

5. Bố trí các phi đội tàu khu trục ở khu vực cách Hải Phòng 20 dặm để giả vờ đe dọa phong tỏa.

6. Nạp thủy lôi và di chuyển tàu ngầm từ Subic.

7. Bổ sung hoặc tăng lượng thủy lôi dự trữ ở Tây Thái Bình Dương từ các kho của Hoa Kỳ.

8. Tiến hành các cuộc thảo luận mua sắm kín đáo với các nhà sản xuất thủy lôi của Hoa Kỳ.

Nguồn: Giải mật của Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ

2. DUCK HOOK: Kế hoạch thả thủy lôi thực sự ở Cảng Hải Phòng, tháng 7/1969

Việc không thể đe dọa Bắc Việt bằng cách vờ thả thủy lôi đã khiến Nixon và Kissinger cân nhắc triển khai một chiến dịch thả mìn thực sự nhằm vào Hải Phòng. Để đáp lại yêu cầu của Nhà Trắng, các sĩ quan cấp cao của Hải quân đã chuẩn bị một kế hoạch rải mìn, có mật danh là DUCK HOOK (có một kế hoạch riêng khác về việc phong tỏa Sihanoukville, Campuchia, để ngăn chặn nguồn tiếp tế đến tay du kích ở miền Nam Việt Nam). Mặc dù Kissinger muốn Bộ Quốc phòng, đặc biệt là Bộ trưởng Quốc phòng Laird, không được tham gia, nhưng nghi thức quân sự lại quy định khác, và chính Laird là người đã chuyển bản kế hoạch này cho Kissinger.

Bản kế hoạch chi tiết dài khoảng 50 trang được chia thành các phần: tóm tắt, đánh giá tình báo, các khái niệm và phương án của kế hoạch thả thủy lôi, các quy tắc giao tranh, một phần đánh giá lạc quan về các phản ứng có thể xảy ra của thế giới, và những liên hệ đến luật pháp quốc tế (không có vấn đề gì, theo các nhà hoạch định của Hải quân). Nền tảng cơ bản của DUCK HOOK là: hàng nhập khẩu qua Hải Phòng là “đòn bẩy” chính cho nền kinh tế Bắc Việt. Các tác giả lập luận rằng việc đóng cửa khu cụm cảng Hải Phòng “sẽ có tác động lớn đến nền kinh tế Bắc Việt và khả năng hỗ trợ chiến tranh ở miền Nam của Bắc Việt”. Chiến dịch thả thủy lôi chống lại Hà Nội bao gồm 3 phương án. Phương án Alfa sẽ gồm 3 tàu sân bay, phương án Bravo 2 và Charlie 1. Với mỗi phương án, mục đích là chặn các tàu buôn lớn tiếp cận cảng Hải Phòng cũng như “phá vỡ” mọi nỗ lực của Hà Nội nhằm sử dụng tàu nhỏ, nhẹ hơn để dỡ hàng từ các tàu buôn neo đậu ngoài bãi mìn.

Một lô hàng cuộn giấy để in báo đang được bốc dỡ từ một con tàu của Liên Xô tại cảng Hải Phòng, năm 1969. Ảnh: Marc Riboud

Trong những tháng tiếp theo, bản chất của kế hoạch DUCK HOOK sẽ thay đổi khi Kissinger và các phụ tá quyết định rằng chỉ cài mìn thôi là không đủ. Đến đầu tháng 10/1969, DUCK HOOK sẽ bao gồm các phương án ném bom vào các mục tiêu đô thị và công nghiệp ở Bắc Việt.

Sau đây là phần Tóm tắt của Kế hoạch DUCK HOOK.

TÓM TẮT KẾ HOẠCH THẢ MÌN Ở CỤM CẢNG HẢI PHÒNG

1. Phần này tóm tắt kế hoạch cài mìn ở cụm cảng Hải Phòng, bao gồm Cẩm Phả và Hòn Gai.

Bối cảnh

2. Năm 1968, lượng hàng hóa vận chuyển qua Hải Phòng trung bình là 4.100 tấn mỗi ngày. Tính đến thời điểm này trong năm 1969, lưu lượng trung bình này đã tăng lên 5.200 tấn mỗi ngày. Khoảng 90% toàn bộ hàng nhập khẩu qua đường biển vào Bắc Việt đi qua Hải Phòng. Liên Xô cung cấp khoảng 50% trong số này. Lượng hàng hóa này ước tính không chỉ bao gồm thực phẩm và các sản phẩm dầu mỏ góp phần vào việc tiến hành chiến tranh, mà còn bao gồm xe tải, máy phát điện và các vật liệu hỗ trợ chiến tranh khác (xem Tab A). Việc đóng cửa cụm cảng Hải Phòng sẽ có tác động lớn đến nền kinh tế Bắc Việt và khả năng hỗ trợ chiến tranh ở miền Nam của Bắc Việt Nam.

Kế hoạch thả thủy lôi ở cụm cảng Hải Phòng

3. Kế hoạch thả thủy lôi (Tab C) được thiết kế để chặn tàu có mớn nước sâu đi vào các cảng Hải Phòng, Hòn Gai và Cẩm Phả (tất cả đều nằm trong cụm cảng Hải Phòng), và không để Bắc Việt cố gắng sử dụng tàu nhẹ để dỡ hàng từ các tàu có mớn nước sâu buộc phải neo đậu ở phía ngoài các bãi mìn.

4. Có ba phương án được nêu trong Kế hoạch cài mìn, đó là: A: 3 tàu sân bay; B: 2 tàu sân bay; và C: 1 tàu sân bay. Phương án A, sử dụng 154 quả mìn/605 thủy lôi destructor, mang lại khả năng đánh thủy lôi toàn diện và hiệu quả nhất tại khu cụm cảng Hải Phòng và hoàn thành nhiệm vụ chỉ trong một lần phóng (trừ quãng thời gian ngắn khi không có tàu sân bay lớn nào khả dụng). Phương án A có nhược điểm là thời gian phản ứng lâu hơn vì một trong ba tàu sân bay liên quan có thể đang ở cảng khi kế hoạch được khởi xướng. Phương án B và C, sử dụng 98 quả mìn và 400 – 600 quả thủy lôi, mang lại khả năng cài mìn hiệu quả các kênh nước sâu với thời gian phản ứng nhanh hơn nhiều. Nhược điểm vốn có trong phương án B và C là bãi mìn ít dày đặc hơn và loại bỏ một số bãi thủy lôi nhất định ở vùng nước nông.

5. Thời gian trì hoãn kích hoạt vũ khí là 72 giờ đối với tất cả các loại mìn để có đủ thời gian cho tàu của nước thứ ba rời đi.

6. Việc sử dụng mìn không phải là hành động tấn công vì không có vũ khí nào được nhắm cụ thể vào bất kỳ mục tiêu nào. Bất kỳ thiệt hại nào xảy ra đối với tàu thuyền Bắc Việt hoặc tàu thuyền của nước thứ ba đều là do họ tự gây ra do quyết định xâm nhập vào vùng biển đã được tuyên bố công khai là không an toàn. Không có sự ép buộc nào từ phía Hoa Kỳ.

7. Các kế hoạch cũng quy định các đợt phóng tiếp theo, khi được ra lệnh, để đặt các bãi thủy lôi. Các kế hoạch này được thiết kế để phá hoại việc vận chuyển hàng bằng tàu nhẹ nếu trinh sát phát hiện ra rằng Bắc Việt đang dỡ một lượng lớn hàng hóa từ các tàu đang neo đậu. Các quả thủy lôi sẽ không được giao trước 48 tiếng kể từ khi các bãi mìn ban đầu được đặt (24 giờ là thời gian trễ tối đa có thể được thiết lập cho các quả thủy lôi).

8. Các tàu SAR (tìm kiếm và cứu nạn) và tàu PIRAZ (tuần tra bằng radar) sẽ được bố trí ở phía bắc để cung cấp sự hỗ trợ cần thiết. Máy bay BARCAP (tuần tra chiến đấu ngăn chặn trên không) và TARCAP (tuần tra chiến đấu nhắm mục tiêu trên không) cũng sẽ được cung cấp.

9. Tab A mô tả Đội hình Chiến đấu của Không quân Bắc Việt [mà Mỹ] có thể gặp phải. Nếu xét đến việc nhiệm vụ này chỉ ở mức độ tương đối thấp (khoảng 300′), thì có rất ít hoặc không có nguy hiểm nào từ máy bay MIG hoặc các vị trí tên lửa SA-2. Trong hầu hết các trường hợp, các bãi mìn được chọn đều nằm ngoài phạm vi của AAA (phòng không), mặc dù một số lối ra khỏi khu vực mục tiêu sẽ tiếp cận với hệ thống phòng không. Dựa trên các đường bay đã lên kế hoạch và các vị trí đã biết của phòng không Bắc Việt, tỷ lệ mất máy bay dự kiến ​​sẽ là khoảng 3% (ước tính thận trọng).

10. Kế hoạch có bao gồm các điều khoản về việc tiếp tục trinh sát để kiểm tra hiệu quả của các bãi mìn và phản ứng của Bắc Việt. Các hoạt động rải lại mìn/thủy lôi sẽ được thực hiện khi cần thiết để duy trì tính toàn vẹn của các bãi mìn khác nhau.

Đội 8 Công binh Hải quân phối hợp với Công an vũ trang trục vớt thủy lôi MK-52 của Mỹ tại cửa Nam Triệu, Hải Phòng, tháng 6/1972. Ảnh: Báo Hải quân Việt Nam

11. Vì mục đích nghi binh, vài tuần trước khi thực hiện, lực lượng PIRAZ và SAR sẽ được di dời đến các vị trí ở Vịnh Bắc Bộ mà họ sẽ chiếm giữ trong nhiệm vụ thực tế. Sau khoảng 12 giờ tại vị trí, họ sẽ trở về các khu vực hoạt động hiện tại. Việc di dời này sẽ được lặp lại theo các khoảng thời gian ngẫu nhiên (khoảng 10 ngày một lần) để lực lượng phòng thủ của Bắc Việt Nam quen với việc này và dụ họ hạ thấp cảnh giác khi nhiệm vụ thực sự được thực hiện.

12. Các quy tắc chi tiết về giao tranh được liệt kê trong Tab D. Việc ngăn chặn hỏa lực phòng không sẽ được yêu cầu đối với các địa điểm phòng không có mối đe dọa lớn nhất đối với lực lượng của chúng ta. Tên lửa Talos được phép sử dụng trên đất liền để chống lại máy bay MIG thù địch đe dọa lực lượng Hoa Kỳ.

13. Các phản ứng có thể xảy ra của Liên Xô, Trung Quốc Cộng sản và Bắc Việt đã được phân tích và xuất hiện trong Tab E. Một kết luận thú vị của phân tích này là phần lớn sự lo lắng về Việt Nam trên toàn thế giới đã lắng xuống và rất có thể việc thả mìn ở khu cụm cảng Hải Phòng nói chung sẽ được hiểu là một biểu hiện của sự quyết tâm, trong khi một năm trước, nó có thể bị coi là sự liều lĩnh.

Cán bộ kỹ thuật Hải quân ta nghiên cứu thủy lôi MK-52 của Mỹ để chế tạo thiết bị rà phá. Ảnh tư liệu Cục Kỹ thuật Hải quân

14. Tàu thuyền của quốc gia thứ ba sẽ có ba lựa chọn: Không vào, vào với rủi ro hoặc neo đậu bên ngoài. Nhiều nghiên cứu cho thấy có đủ xà lan, thuyền tam bản và thuyền buồm cho các hoạt động chuyển hàng nhẹ nhưng đây là một hoạt động rất khó khăn, đòi hỏi số lượng người rất lớn và thời gian quá nhiều. Hoạt động này đặc biệt khó khăn trong mùa gió mùa Đông Bắc (tháng 9 đến tháng 5). Hơn nữa, khi di chuyển từ tàu vào bờ, các tàu chuyển hàng nhẹ rất dễ bị tàu và máy bay tấn công mà không gây ra rủi ro trái phép cho tàu của quốc gia thứ ba hoặc không có nguy cơ giết chết thường dân trên bờ. Nếu quyết định cấm các tàu chuyển hàng nhẹ khi chúng di chuyển từ tàu vào bờ, có thể sử dụng hỏa lực trên mặt nước cũng như trên không.

15. Các quy tắc của luật pháp quốc tế liên quan đến việc rải mìn đã được xem xét lại. Các luật chiến tranh truyền thống không bao gồm việc rải mìn trừ khi trong tình trạng chiến tranh. Lịch sử chính trị và công nghệ của Chiến tranh lạnh đã khiến các luật chiến tranh, vốn dựa trên sự phân đôi “chiến tranh hay hòa bình”, trở nên lỗi thời và không liên quan. Các hành động tự vệ là hợp pháp theo luật pháp quốc tế. Do đó, việc rải mìn cảng Hải Phòng và các khu vực xung quanh, như được mô tả trong kế hoạch này, được coi là một hành động thực hiện hợp pháp quyền tự vệ tập thể của Nam Việt Nam và Hoa Kỳ chống lại sự xâm lược của Bắc Việt Nam (Xem Tab F).

Nguồn: Giải mật của Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ

3. Bản ghi nhớ Jean Sainteny gửi Tổng thống Nixon về việc chuyển “thông điệp” của Nixon cho Bắc Việt, tháng 7/1969

Đi kèm với DUCK HOOK là những lời đe dọa tàn khốc do Nixon và Kissinger truyền đạt trực tiếp và gián tiếp, cảnh báo Hà Nội rằng nếu họ không phản hồi tích cực với các yêu cầu đàm phán của Hoa Kỳ trước ngày 1/11, thì “các biện pháp có hậu quả nghiêm trọng và vũ lực” sẽ được thực hiện đối với Bắc Việt.

Chủ tịch Hồ Chí Minh và Cao ủy Pháp Jean Sainteny trên tàu Émile Bertin năm 1946. Ảnh: Keystone-France

Theo khuyến nghị của Kissinger và phù hợp với ý định gia tăng đe dọa của họ, Tổng thống Nixon đã gặp Jean Sainteny vào ngày 15/7 để yêu cầu ông ta thực hiện một sứ mệnh tới Hà Nội. Nhiệm vụ chủ yếu dành cho Sainteny là chuyển một lời cảnh báo không thành văn từ Nixon, trong đó có một sự ám chỉ gián tiếp đến hoạt động rải mìn và phong tỏa mà Nixon và Kissinger khi đó đang cân nhắc:

Ông ấy [Nixon] đã quyết định hy vọng vào một kết quả tích cực từ các cuộc hội đàm tại Paris trước ngày 1/11 và ông ấy đã chuẩn bị thể hiện thiện chí bằng một số cử chỉ nhân đạo, mà ông Kissinger sẽ sẵn sàng thảo luận chi tiết. Tuy nhiên, nếu đến ngày này – ngày kỷ niệm lệnh ngừng ném bom [của Tổng thống Johnson năm 1968] – mà không có giải pháp có giá trị nào được đưa ra, ông ấy sẽ rất tiếc khi buộc phải dùng đến các biện pháp có hậu quả to lớn và vũ lực… Ông ấy sẽ dùng đến bất kỳ biện pháp nào cần thiết.

NHÀ TRẮNG

Washington

Ngày 16/7/1969

Kính gửi ngài Kissinger:

Sáng nay Sainteny đã duyệt bản dịch trước khi rời đi Florida.

Ông ấy yêu cầu hủy bản sao các ghi chú của ông ấy và bản dịch sau khi ngài đã cho Tổng thống xem. Ông ấy đã có bản gốc các ghi chú.

Tony Lake

Bản dịch               TUYỆT MẬT

Tôi sẽ cố gắng gặp Mai Văn Bộ trước sự chứng kiến ​​của Xuân Thủy và sẽ trao cho ông ấy bức thư gửi cho ông Hồ, lưu ý với ông ấy rằng lần này tôi được ủy quyền cho ông ấy biết rằng Tổng thống Nixon đã cho phép tôi trao bức thư này cho ông ấy. Tôi sẽ yêu cầu ông ấy gửi bức thư này đến Hà Nội nhanh chóng và an toàn nhất có thể. Tôi sẽ thông báo cho ông ấy về chuyến đi của ông Kissinger đến Paris vào ngày 4/8 cũng như mong muốn của ông Kissinger được biết phản ứng của Hà Nội đối với thông điệp của Tổng thống.

Tôi sẽ nói thêm rằng tôi có quen biết cá nhân Tổng thống Nixon, tôi đã có một cuộc trò chuyện với ông ấy về Việt Nam vào năm 1966 sau khi tôi trở về từ Hà Nội.

Vào tháng 5 và trong những ngày gần đây, ông ấy đã nói chuyện với tôi một cách hoàn toàn chân thành.

Từ những cuộc trò chuyện đó, tôi tin rằng Tổng thống Nixon thực lòng muốn chấm dứt cuộc chiến này và ông sẵn sàng thảo luận về nó một cách thiện chí với các nhà chức trách cao nhất của chính quyền Hà Nội với điều kiện là ông cũng sẽ tìm thấy ở họ mong muốn thực sự cùng đạt được một kết quả.

Nhưng ông sẽ không để mình bị mắc bẫy bởi chiến thuật kéo dài các cuộc đàm phán với hy vọng rằng dư luận của công chúng Hoa Kỳ, vì đã chán chiến tranh, sẽ kết thúc bằng việc chấp nhận một cuộc rút quân vô điều kiện – một cái bẫy mà ông ấy sẽ không rơi vào trong bất kỳ hoàn cảnh nào.

Đoàn đàm phán Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Hội nghị Paris, ngày 25/1/1969. Từ trái qua phải: ông Lê Đức Thọ, ông Xuân Thủy, ông Hà Văn Lâu. Ảnh: AP

Ông ấy đã quyết định hy vọng vào một kết quả tích cực từ các cuộc hội đàm tại Paris trước ngày 1/11 và ông ấy đã chuẩn bị thể hiện thiện chí bằng một số cử chỉ nhân đạo, mà ông Kissinger sẽ sẵn sàng thảo luận chi tiết. Tuy nhiên, nếu đến ngày này – ngày kỷ niệm lệnh ngừng ném bom [của Tổng thống Johnson năm 1968] – mà không có giải pháp có giá trị nào được đưa ra, ông ấy sẽ rất tiếc khi buộc phải dùng đến các biện pháp có hậu quả nghiêm trọng và vũ lực… Khi nói về giải pháp, ông ấy không có ý nói đến những cử chỉ như thả một vài tù nhân, mà là những bước đi cho thấy chiến tranh sắp kết thúc.

Bất kể dư luận hay sự phản đối của công chúng, ông Nixon quyết tâm đưa cuộc chiến này sớm đến hồi kết. Ông hoàn toàn từ chối tiếp tục đàm phán và đánh nhau. Nếu cách tiếp cận ngoại giao này thất bại, ông sẽ dùng đến bất kỳ biện pháp nào cần thiết.■

Nguồn: Thư viện Tổng thống Nixon/Hồ sơ Văn phòng Kissinger

Hoàng Anh dịch

BÌNH LUẬN

BÀI VIẾT LIÊN QUAN