
Trong một bản ghi nhớ năm 1972, Henry Kissinger, Cố vấn an ninh quốc gia của Tổng thống Mỹ Richard Nixon, đã giải thích với một quan chức của Bộ Quốc phòng rằng chiến lược của Nixon là làm cho “đối phương nghĩ rằng chúng ta có thể “điên rồ” và có thể sẽ thực sự đi xa hơn nữa”, để những đối thủ như Liên Xô hay Bắc Việt phải lùi bước và tuân theo ý muốn của Mỹ trong các cuộc đàm phán ngoại giao.
Chính từ chiến lược “Kẻ điên rồ” (Madman) này, từ đầu năm 1969, Nixon và Kissinger đã khởi xướng các kế hoạch quân sự bí mật như “vờ” thả thủy lôi để răn đe ở Cảng Hải Phòng, và sau đó là một kế hoạch rải thủy lôi thực sự sau khi việc đe dọa thất bại. Thậm chí, Nixon còn nhờ trung gian người Pháp Jean Sainteny chuyển “tối hậu thư” đến Chủ tịch Hồ Chí Minh, cảnh báo chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa rằng nếu họ không phản hồi tích cực với các yêu cầu đàm phán của Hoa Kỳ trước ngày 1/11/1969, thì “các biện pháp có hậu quả nghiêm trọng và vũ lực” sẽ được thực hiện đối với Bắc Việt. Tạp chí Phương Đông trích dịch giới thiệu tới độc giả một số tài liệu giải mật về các kế hoạch này, qua phần giới thiệu của National Security Archive, một tổ chức nghiên cứu và lưu trữ phi chính phủ của Mỹ. Ngôn từ trong bài được giữ nguyên so với bản gốc để đảm bảo giá trị nghiên cứu, tham khảo.
1. Kế hoạch “vờ” thả thủy lôi tại Cảng Hải Phòng, tháng 4/1969
Thất vọng vì thiếu những chuyển biến thực chất trong các cuộc đàm phán ở Paris và việc Moscow không muốn hoặc không thể thuyết phục Hà Nội thỏa hiệp theo các điều khoản của Hoa Kỳ, Nixon và Kissinger đã khởi xướng một kế hoạch quân sự bí mật khác với hy vọng thúc đẩy sự hợp tác của Moscow hoặc sự đồng thuận của Hà Nội; nghĩa là, không chỉ là cuộc ném bom bí mật các khu vực căn cứ của đối phương ở Campuchia, vốn đã được phát động vào tháng 3. Theo đề xuất của Kissinger, Nixon đã ra lệnh cho Hải quân Hoa Kỳ tiến hành các cuộc tập trận rải thủy lôi ở Philippines và Vịnh Bắc Bộ, hy vọng rằng thủ đoạn này sẽ khiến Hà Nội tin rằng Washington đang chuẩn bị rải thủy lôi và phong tỏa Hải Phòng cùng các cảng ven biển khác dọc Biển Đông, do đó thúc đẩy họ tham gia vào các cuộc đàm phán cấp cao.
Bộ trưởng Quốc phòng Melvin Laird đã chuyển tiếp bản kế hoạch vờ thả thủy lôi cho Kissinger từ Chủ tịch văn phòng Tổng Tham mưu trưởng Wheeler vào ngày 11/4/1969. Bản kế hoạch này được thiết kế để tạo ra “trạng thái do dự” trong giới lãnh đạo Bắc Việt bằng cách “tạo ra ấn tượng” rằng Washington đang chuẩn bị tiến hành các hoạt động rải thủy lôi chống lại Bắc Việt. Kế hoạch thả thủy lôi giả bao gồm các “hành động tuần tự” chi tiết từng bước một, bắt đầu bằng việc kiểm kê các tài sản thủy lôi của Bộ Tư lệnh Thái Bình Dương ở Bước 1. Bộ trưởng Laird viết rằng ông ta có “những nghi ngờ nghiêm trọng”. Tuy nhiên, Nixon và Kissinger vẫn khăng khăng rằng kế hoạch này phải được thực hiện vì họ muốn tìm cách thuyết phục giới lãnh đạo Bắc Việt chấp thuận chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ.
TUYỆT MẬT KẾ HOẠCH THẢ THỦY LÔI GIẢ Ở CẢNG HẢI PHÒNG Mục tiêu: Tạo ra sự do dự trong Chính phủ Bắc Việt về các hành động quân sự dự tính của Hoa Kỳ, đặc biệt khi chúng liên quan đến việc thả thủy lôi cảng Hải Phòng. Câu chuyện chung: Hải quân Hoa Kỳ tiến hành thử nghiệm các kế hoạch thả thủy lôi trên toàn Thái Bình Dương, bao gồm các thủ tục hậu cần, huấn luyện, khả năng sẵn sàng thả mìn và thời gian phản ứng. Cuộc tập trận bao gồm việc di chuyển thủy lôi từ các khu vực lưu trữ đến các tàu hoạt động ở Biển Đông. Giả định: Hoạt động quân sự gia tăng của Hoa Kỳ ở một số khu vực được chuẩn bị cụ thể sẽ được chính quyền Hà Nội chú ý thông qua các hệ thống tình báo và gián điệp cộng sản. Khái niệm chung: Thực hiện một loạt các hành động quân sự riêng lẻ hoặc tập thể tạo ra ấn tượng rằng Hoa Kỳ đang lập kế hoạch hoặc cân nhắc đến việc rải thủy lôi/mìn ở cảng Hải Phòng. Mỗi hành động sẽ: a. có thể phủ nhận được, cả công khai và trong chính phủ Hoa Kỳ; b. có một câu chuyện ngụy trang phù hợp cho phép phủ nhận bất kỳ kế hoạch rải mìn thực tế nào trong trường hợp vô ý bị công khai; c. tương đối kín đáo khi thực hiện riêng lẻ; d. đáng tin cậy trong cả tương lai gần và xa. Trình tự: Các hành động tuần tự sau đây cung cấp một kịch bản về các sự kiện được thiết kế để truyền tín hiệu đến chính quyền Bắc Việt. Những hành động này tạo ra một thứ tự hoạt động ngày càng tăng. Những bước ban đầu có thể dễ phủ nhận là một phần của bất kỳ kế hoạch rải mìn tổng thể nào hơn những bước sau, cả một cách công khai và trong chính phủ Hoa Kỳ. Các hành động bổ sung ở phía cuối vừa có nhiều khả năng đe dọa hơn, vừa khó có thể phủ nhận hơn theo thời gian: Bước 1: 1. Tham mưu trưởng Hải quân (CNO) chuyển các yêu cầu qua tin nhắn đến Tổng Tư lệnh, Hạm đội Thái Bình Dương (người nhận thông tin thông thường), để: Thứ 7, ngày 12/4 a. xác nhận hàng tồn kho thực tế trên tàu và vị trí của các tài sản thủy lôi của Bộ tư lệnh Thái Bình Dương. (tin nhắn có thể được truyền ở chế độ BÌNH THƯỜNG, sau đó được nâng cấp lên chế độ MẬT vào ngày hôm sau để tập trung sự chú ý.) Chủ nhật, ngày 13/4 b. báo cáo tình trạng của các loại mìn và ước tính số giờ làm việc cần thiết để đưa vào trạng thái sẵn sàng hoạt động. Thứ 2, ngày 14/4 c. xác minh số lượng thủy lôi MK-36 trên các tàu sân bay đã triển khai. d. báo cáo tình trạng sẵn sàng của mìn trên các phi đội máy bay đã lên tàu. Thứ 2, ngày 14/4 2. Chỉ đạo Tổng tư lệnh, Hạm đội Thái Bình Dương, chuẩn bị 50 quả mìn MK-52, 50 quả mìn MK-50 và 50 quả mìn MK-55, và duy trì trạng thái sẵn sàng cao tại Subic. Thứ 4, ngày 16/4 3. Vận chuyển bằng đường hàng không 50 quả mìn MK-52 từ mỗi điểm Yokosuka, Atsugi, Iwakuni và Naha đến Kho đạn dược Hải quân, Vịnh Subic, Philippines. Thứ 5, ngày 17/4 4. Vận chuyển bằng đường hàng không tất cả các quả mìn MK-52 trơ, đã được cấu hình để huấn luyện từ các địa điểm ở Tây Thái Bình Dương đến Căn cứ Không quân Hải quân Cubi Point, Philippines, để huấn luyện và giảng dạy cho phi công/phi hành đoàn. Bước 2: Thứ 7, ngày 19/4 1. Vận chuyển bằng đường hàng không các quả mìn và nhân viên rà phá mìn từ Cubi Point để tấn công các tàu sân bay ở Vịnh Bắc Bộ. Chủ nhật, ngày 20/4 2. Nạp mìn tiếp tế cho tàu chở đạn dược ở Vịnh Subic, và di chuyển tàu đến Vịnh Bắc Bộ. (điều này để đảm bảo những người bốc xếp bản địa sẽ biết việc này) Thứ 2, ngày 21/4 3. Tải mìn lên tàu sân bay tấn công ở Vịnh Subic. Bước 3: Thứ 3, ngày 22/4 1. Tiến hành các cuộc tập trận tại nhà máy mìn từ Căn cứ Không quân Hải quân Cubi Point dành cho nhân viên phi đội bay trên tàu sân bay. 2. Cung cấp số lượng thích hợp phi công A-6 của Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ với nhiệm vụ bổ sung tạm thời từ Đà Nẵng đến Căn cứ Không quân Hải quân Cubi để có đủ năng lực mìn. Thứ 6, ngày 25/4 3. Di chuyển 1.000 quả mìn từ Yokosuka đến Subic bằng tàu. Bước 4: Các hành động bổ sung để nghiên cứu và xem xét thêm; ngày sẽ được xác định sau. 1. Di chuyển các tàu SAR (cứu hộ trên không) và tàu PIRAZ (tuần tra bằng radar) phía Bắc từ các vị trí hiện tại ở phía Nam đến các trạm dừng trước khi ném bom. Cung cấp lực lượng hộ tống phù hợp, CAP (tuần tra chiến đấu trên không)… 2. Tăng cường trinh sát trên các tuyến đường ven biển dẫn đến Hải Phòng. 3. Tiến hành giám sát liên tục và chuyên sâu các tuyến đường biển tiếp cận Hải Phòng bằng máy bay P-3 và ASW (máy bay chiến tranh chống tàu ngầm). 4. Thả dù thủy lôi rỗng xuống khu vực giả vờ là bãi mìn ngoài khơi các tuyến đường biển tiếp cận Hải Phòng. (nếu thời gian cho phép, có thể sản xuất các vật có hình dạng giống thủy lôi, có thể hòa tan trong nước.) 5. Bố trí các phi đội tàu khu trục ở khu vực cách Hải Phòng 20 dặm để giả vờ đe dọa phong tỏa. 6. Nạp thủy lôi và di chuyển tàu ngầm từ Subic. 7. Bổ sung hoặc tăng lượng thủy lôi dự trữ ở Tây Thái Bình Dương từ các kho của Hoa Kỳ. 8. Tiến hành các cuộc thảo luận mua sắm kín đáo với các nhà sản xuất thủy lôi của Hoa Kỳ. Nguồn: Giải mật của Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ |
2. DUCK HOOK: Kế hoạch thả thủy lôi thực sự ở Cảng Hải Phòng, tháng 7/1969
Việc không thể đe dọa Bắc Việt bằng cách vờ thả thủy lôi đã khiến Nixon và Kissinger cân nhắc triển khai một chiến dịch thả mìn thực sự nhằm vào Hải Phòng. Để đáp lại yêu cầu của Nhà Trắng, các sĩ quan cấp cao của Hải quân đã chuẩn bị một kế hoạch rải mìn, có mật danh là DUCK HOOK (có một kế hoạch riêng khác về việc phong tỏa Sihanoukville, Campuchia, để ngăn chặn nguồn tiếp tế đến tay du kích ở miền Nam Việt Nam). Mặc dù Kissinger muốn Bộ Quốc phòng, đặc biệt là Bộ trưởng Quốc phòng Laird, không được tham gia, nhưng nghi thức quân sự lại quy định khác, và chính Laird là người đã chuyển bản kế hoạch này cho Kissinger.
Bản kế hoạch chi tiết dài khoảng 50 trang được chia thành các phần: tóm tắt, đánh giá tình báo, các khái niệm và phương án của kế hoạch thả thủy lôi, các quy tắc giao tranh, một phần đánh giá lạc quan về các phản ứng có thể xảy ra của thế giới, và những liên hệ đến luật pháp quốc tế (không có vấn đề gì, theo các nhà hoạch định của Hải quân). Nền tảng cơ bản của DUCK HOOK là: hàng nhập khẩu qua Hải Phòng là “đòn bẩy” chính cho nền kinh tế Bắc Việt. Các tác giả lập luận rằng việc đóng cửa khu cụm cảng Hải Phòng “sẽ có tác động lớn đến nền kinh tế Bắc Việt và khả năng hỗ trợ chiến tranh ở miền Nam của Bắc Việt”. Chiến dịch thả thủy lôi chống lại Hà Nội bao gồm 3 phương án. Phương án Alfa sẽ gồm 3 tàu sân bay, phương án Bravo 2 và Charlie 1. Với mỗi phương án, mục đích là chặn các tàu buôn lớn tiếp cận cảng Hải Phòng cũng như “phá vỡ” mọi nỗ lực của Hà Nội nhằm sử dụng tàu nhỏ, nhẹ hơn để dỡ hàng từ các tàu buôn neo đậu ngoài bãi mìn.
Trong những tháng tiếp theo, bản chất của kế hoạch DUCK HOOK sẽ thay đổi khi Kissinger và các phụ tá quyết định rằng chỉ cài mìn thôi là không đủ. Đến đầu tháng 10/1969, DUCK HOOK sẽ bao gồm các phương án ném bom vào các mục tiêu đô thị và công nghiệp ở Bắc Việt.
Sau đây là phần Tóm tắt của Kế hoạch DUCK HOOK.
3. Bản ghi nhớ Jean Sainteny gửi Tổng thống Nixon về việc chuyển “thông điệp” của Nixon cho Bắc Việt, tháng 7/1969
Đi kèm với DUCK HOOK là những lời đe dọa tàn khốc do Nixon và Kissinger truyền đạt trực tiếp và gián tiếp, cảnh báo Hà Nội rằng nếu họ không phản hồi tích cực với các yêu cầu đàm phán của Hoa Kỳ trước ngày 1/11, thì “các biện pháp có hậu quả nghiêm trọng và vũ lực” sẽ được thực hiện đối với Bắc Việt.
Theo khuyến nghị của Kissinger và phù hợp với ý định gia tăng đe dọa của họ, Tổng thống Nixon đã gặp Jean Sainteny vào ngày 15/7 để yêu cầu ông ta thực hiện một sứ mệnh tới Hà Nội. Nhiệm vụ chủ yếu dành cho Sainteny là chuyển một lời cảnh báo không thành văn từ Nixon, trong đó có một sự ám chỉ gián tiếp đến hoạt động rải mìn và phong tỏa mà Nixon và Kissinger khi đó đang cân nhắc:
Ông ấy [Nixon] đã quyết định hy vọng vào một kết quả tích cực từ các cuộc hội đàm tại Paris trước ngày 1/11 và ông ấy đã chuẩn bị thể hiện thiện chí bằng một số cử chỉ nhân đạo, mà ông Kissinger sẽ sẵn sàng thảo luận chi tiết. Tuy nhiên, nếu đến ngày này – ngày kỷ niệm lệnh ngừng ném bom [của Tổng thống Johnson năm 1968] – mà không có giải pháp có giá trị nào được đưa ra, ông ấy sẽ rất tiếc khi buộc phải dùng đến các biện pháp có hậu quả to lớn và vũ lực… Ông ấy sẽ dùng đến bất kỳ biện pháp nào cần thiết.
Hoàng Anh dịch