Tạp chí Les Temps Modernes và cuộc chiến tranh của Pháp tại Đông Dương

Ngô Bắc dịch

Nguồn: David Drake, “Les Temps Modernes and the French war in Indochina”, Journal of European Studies, 28, n. 1-2 (March-June 1998): 25 (17 trang).

Lời người dịch:

Trong bài điểm sách quyển “Sartre: Triết Gia Của Thế Kỷ 20” của tác giả Bernard Henry Lévi, trên tờ The Economist số ra  ngày 28 Tháng Tám, 2003, có đoạn viết “Jean Paul Sartre có thể là kẻ lắm lời, lạc lối, và hay nổi đóa. Nhưng… không ai có thể nói rằng ông không nghiêm chỉnh.”

Nhiều nhà tư tưởng đã đóng góp cho triết học thế kỷ 20 nhiều hơn Jean-Paul Sartre, người đã từ trần vào Tháng Tư năm 1980. Nhiều tác giả khác đã viết các quyển truyện và các vở kịch hay hơn ông. Về mặt chính trị, ít người thay đổi lập trường thường xuyên như ông đã làm trong 30 năm đảm nhận vai trò chủ biên tờ Les Temps Modernes, tạp chí cánh tả hàng đầu của Pháp thời hậu Thế chiến II. Ngày nay, ông bị xem là một nhân vật mờ nhạt hay bị chế ngạo.

Tư tưởng của Sartre thì khó theo dõi, một phần bởi ông từ chối không đọc lại hay sửa chữa. Là người thích đối đáp ngắn gọn và sắc sảo, ông nói quyển sách hay nhất của ông luôn luôn là quyển ông sắp viết ra. Đằng sau câu nói này là một tư tưởng đã tô màu lên toàn thể triết lý của ông: ở bất kỳ khoảnh khắc nào, chúng ta tự do để tự tạo những gì chúng ta ước muốn. Phủ nhận sự tự do này – bằng việc chấp nhận khuôn đúc của những kẻ khác hay tự xem mình như nạn nhân của các tình huống – là sự tự lừa dối hay sự tin tưởng lầm lẫn. Đây là cốt lõi chủ nghĩa hiện sinh của Sartre.

Vào cuối thập niên 1940, Sartre bỏ việc dạy học và sống bằng nghề viết văn. Quyển tiểu thuyết mang tính chất triết lý nhất của ông, “Buồn Nôn” (1938), bán được hơn 1,6 triệu ấn bản khi ông còn sống, vở kịch về trách nhiệm chính trị, “Những Bàn Tay Bẩn” (1948), bán được gần 2 triệu cuốn. Kế đó, sau khi thất bại trong việc thích ứng các quan điểm về tự do của ông vào một chủ nghĩa Mác-xít cá nhân hóa cao độ, ông đã từ bỏ triết lý để theo đuổi chính trị.

Sartre có thể nhầm lẫn một cách bướng bỉnh: chủ hòa hơn là chống phát xít trong thập niên 1930; thân Xô Viết hồi đầu thập niên 1950; thân Castro trong năm 1960 và thân phe Mao sau năm 1968. Nhưng ông cũng có thể đúng một cách sáng chói: kết án cuộc xâm lăng Hungary của Xô Viết năm 1956, kêu gọi trả Algeria cho người dân Algeria (quân khủng bố chống độc lập đã hai lần đặt bom căn phòng sinh sống của ông tại Paris); ủng hộ Do Thái trong năm 1967; và vận động cứu vớt các thuyền nhân Việt Nam sau năm 1975…”

(nguồn: http://www.sartre.org)

Một số nhà phê bình văn học khác cho rằng sự đóng góp tồn tại lâu dài của ông là các vở kịch, ám chỉ các bài khảo luận và tiểu thuyết của ông sẽ không sống sót, và cho rằng ông là kẻ “chẳng bao giờ nắm bắt được thực tại”.

Trong nguyên bản, có xen lẫn các đoạn trích dẫn bằng tiếng Pháp, không được dịch sang Anh ngữ, nhưng tác giả có diễn giải ý nghĩa ở đoạn gần đó. Có thể đây là chủ ý của tác giả để người đọc tiếp cận trực tiếp với văn phong Pháp ngữ của tờ Les Temps Modernes. Người dịch giữ nguyên hình thức này của nguyên bản.

Jean-Paul Sartre, André Glucksmann và Raymond Aron tham dự một cuộc họp chính phủ tại Điện Élysée, Paris, ngày 26 tháng 6, 1979 (Ảnh: Richard Melloul http://ec-dejavu.ru). Các triết gia này là thành viên của Ủy Ban Một Con Tàu Cho Việt Nam nhằm trợ giúp dân tỵ nạn Việt Nam. Trong dịp này, Jean-Paul Sartre có phát biểu, “Một số trong họ không phải lúc nào cũng ở bên phía chúng tôi, nhưng lúc này chúng tôi không quan tâm đến chính trị của họ, mà đến việc cứu vớt sinh mạng của họ. Đây là một vấn đề đạo đức, một câu hỏi về luân lý giữa con người với nhau”…

Tóm tắt:

Tạp chí định kỳ hàng tháng Les Temps Modernes là ấn phẩm hàng đầu chống đối kịch liệt các chính sách thực dân hóa của chính phủ Pháp tại Đông Dương. Lý do chính cho sự chỉ trích khắc nghiệt của tạp chí chống chiến tranh tại Đông Dương là sự liên hệ chặt chẽ của nó với các triết gia hiện sinh Jean Paul Sartre và Simone de Beauvoir. Ngoài việc tường thuật những sai lầm và phê phán mạnh mẽ các chính sách của chính quyền Pháp tại Đông Dương, tờ nguyệt san này cũng ấn hành các bài viết về quan hệ giữa Pháp và Đông Dương và các bài tường thuật của sinh viên đấu tranh Đông Dương, Trần Đức Thảo.

***

À moi-même, menant une bien petite barque sur l’ocean de la guerre, l’Indochine apparaissait alors comme un grand navire désemparé que je ne pourrais secourir avant d’avoir longuement reuni les moyens du sauvetage. Le voyant s’éloigner dans la brume, je me jurais à moi-même de le ramener un jour.1

Với chính tôi, dẫn dắt một chiếc thuyền rất nhỏ bé trên một đại dương của chiến tranh, Đông Dương khi đó rõ ràng là một con tàu lớn què quặt mà tôi không thể giúp gì được trước khi tập hợp đầy đủ các phương tiện để cứu vớt. Ánh đèn tự tách ra xa giữa đám sương mù, tôi tự nhủ sẽ mang nó trở về một ngày nào đó.1

Các ước vọng của Charles de Gaulle tiếp theo sau sự sụp đổ của nước Pháp trong Tháng Sáu 1940 tuy thế đã không trở thành hiện thực. Vào cuối năm 1946, cuộc xung đột bất khả hòa giải giữa mong muốn của nước Pháp “mang Đông Dương trở về” và động lực cho nền độc lập của Việt Nam bộc phát thành một cuộc xung đột toàn diện mà cuối cùng đã được giải quyết bằng sự thất trận của quân đội Pháp bảy năm rưỡi sau đó vào Tháng Năm 1954 tại Điện Biên Phủ.

Một trong những tiếng nói chính yếu và nhất quán nhất phản đối sự dính líu của Pháp tại Đông Dương là nguyệt san Les Temps Modernes, số đầu tiên ra mắt vào Tháng Mười 1945. Trước khi phân tích những đóng góp của tạp chí cho vấn đề Đông Dương, cần đưa ra một phác thảo ngắn gọn về bối cảnh của cuộc chiến tranh và tờ tạp chí.

Sự đầu hàng của Nhật Bản vào Tháng Tám 1945 đã tạo ra một khoảng trống quyền lực tại Đông Dương. Bảo Đại, người đã tuyên bố nền độc lập của Việt Nam vào ngày 11 Tháng Ba với sự ủng hộ của Nhật Bản, không nhận được bất kỳ sự ủng hộ đáng tin cậy nào của quần chúng. Người Nhật bị mất tinh thần và rơi vào tình trạng rối loạn. Guồng máy quân sự và hành chính của Vichy, trước đó đã thiết lập một thỏa ước tạm thời (modus vivendi) với Nhật Bản sau Tháng Sáu 1940, đã bị tàn phá bởi cuộc đảo chính của Nhật Bản hôm 9 Tháng Ba [1945]. Các lực lượng Pháp Quốc Tự Do tại Đông Dương thì quá yếu để áp đặt thẩm quyền của nước Pháp; còn các binh sĩ Trung Hoa [Dân Quốc] và Anh, sẽ chiếm đóng Đông Dương phía bắc và phía nam vĩ tuyến 16 theo Thoả Ước Potsdam, vẫn chưa đến nơi. Một chiến dịch được tổ chức khéo léo bởi phong trào Việt Minh do Cộng Sản lãnh đạo đã lên đến đỉnh cao vào ngày 2 Tháng Chín 1945 tại Hà Nội, khi lãnh tụ Việt Minh, Hồ Chí Minh, tuyên bố sự ra đời của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa.

Trong diễn tiến của Thế Chiến II, de Gaulle đã nhận thức được rằng nếu Pháp vẫn duy trì được quyền kiểm soát trên các thuộc địa và vùng bảo hộ hải ngoại “của nó”, bản chất mối quan hệ của những xứ này với mẫu quốc Pháp sẽ cần phải được sửa đổi. Vào ngày 24 Tháng Ba 1945, chính phủ Pháp đã chính thức loan báo một cơ cấu liên bang mới cho Đông Dương (mà de Gaulle đã phác họa hôm 8 Tháng Mười Hai 1943) thay thế cho cơ cấu thực dân tập trung hóa kiểu cũ. Tuy nhiên, rõ ràng là ngay cả nếu cơ cấu mới có cấp tiến hơn cơ cấu mà nó sẽ thay thế, mục tiêu vẫn y nguyên: duy trì sự thống trị tiền chiến tranh của Pháp tại Đông Dương – một trường hợp plus ҫà change, plus c’est la même chose (càng thay đổi, càng giống nguyên như cũ).

Từ quan điểm Việt Nam, bản tuyên bố ngày 24 Tháng Ba không đáng tin cậy một chút nào. Nó được loan báo hai tuần lễ sau thất bại (chỉ trong một ngày) của Pháp trong cuộc đảo chính của Nhật tại Đông Dương và bản tuyên bố độc lập của Bảo Đại. Hơn nữa, nó không nhìn nhận sự thống nhất của Bắc Kỳ, Trung Kỳ, và Nam Kỳ và khẳng định mỗi miền, giống như Lào và Campuchia, có văn hóa, chủng tộc và truyền thống riêng. Đối với người dân bản xứ tin tưởng nền độc lập đang nằm trong tầm tay họ, các đề nghị của Pháp giống như chính sách “chia để trị” của một quyền lực đế quốc với thời hoàng kim đã đến rồi đi.

Đối với de Gaulle, kẻ vẫn còn nắm giữ quyền hành cho đến Tháng Một 1946, sự xác quyết chủ quyền của Pháp là một thành tố thiết yếu trong chiến lược của ông ta để bảo đảm Pháp được chấp nhận như một cường quốc thế giới quan trọng trên sân khấu chính trị hậu chiến. Để đạt được mục đích này, các binh sĩ Pháp đã được phái sang Đông Dương từ Tháng Chín 1945 dưới sự chỉ huy của Tướng Leclerc với nhiệm vụ tái thiết lập sự kiểm soát của Pháp, và đến Tháng Hai 1946, Tướng Leclerc báo cáo với chính phủ rằng ông đã “bình định” miền nam và phần lớn miền trung Việt Nam. Tuy nhiên, Việt Minh vẫn còn cố thủ vững chắc tại miền bắc.

Văn bản được ký kết tại Hà Nội hôm 6 Tháng Ba bởi Jean Sainteny, đại diện của Pháp, và Hồ Chí Minh, người đã đưa ra nhiều nhượng bộ quan trọng, mở ra khả năng thực sự cho một sự dàn xếp bằng thương thảo. Tuy nhiên, âm mưu của những người Pháp chủ trương cứng rắn tại Paris và Sài Gòn vốn là những kẻ tin tưởng rằng Pháp có thể và phải đánh bại Việt Minh về mặt quân sự, đã làm cho bản văn vẫn chỉ là một văn thư chết. Sau khi hội nghị Fontainebleau (Tháng Bảy 1946) không đem lại được bước tiến đáng kể nào, lập trường của cả đôi bên trở nên cứng rắn hơn. Tháng Mười Một 1946, trong một cuộc biểu dương sức mạnh chết người, Pháp đã oanh tạc khu sinh sống của người Việt Nam tại Hải Phòng và sau đó đã dùng xe tăng, pháo binh và không quân để giải tỏa khu vực, giết hại 6.000 người Việt Nam (20.000 theo các nguồn tin của Việt Minh). Phía Việt Nam, giờ đây tin rằng người Pháp quyết tâm không chỉ phủ nhận nền độc lập của Việt Nam mà còn mở một cuộc chiếm đoạt quân sự trên toàn thể Bắc Kỳ, đã đáp lại bằng việc tấn công vào các khu vực sinh sống của người Pháp tại Hà Nội. Cuộc chiến tranh Đông Dương đã thực sự khởi diễn.

Một trong nhà phê bình đầu tiên và bộc trực nhất sự dính líu của Pháp trong chiến tranh là tờ nguyệt san Le Temps Modernes, thành quả cụ thể của một dự án được vạch ra hồi mùa hè 1943 bởi một nhóm trí thức tụ tập chung quanh Jean-Paul Sartre. Số báo đầu tiên ra mắt hồi Tháng Mười 1945 và tờ Le Temps Modernes đã mau chóng chiếm cứ vị trí chế ngự trong thế giới các tạp chí Pháp (đặt cơ sở tại Paris). Trước đó, vị trí này thuộc về tờ Nouvelle Revue Franҫaise cho đến khi nó biến thể thành một tạp chí của những người cộng tác [với phe Trục] dưới quyền biên tập của Drieu La Rochelle, trong thời kỳ Chiếm Đóng [nước Pháp bởi phe Trục, chú của người dịch].

Vị trí thống lĩnh mà tờ Les Temps Modernes thụ hưởng tại nước Pháp thời hậu Giải Phóng có được một phần vì mối liên hệ của tạp chí này với chủ nghĩa hiện sinh thông qua Jean-Paul Sartre và Simone de Beauvoir. Việc ấn hành số đầu tiên của tạp chí trùng hợp với bài diễn thuyết dành cho công chúng của Sartre, Chủ Nghĩa Hiện Sinh Là Một Chủ Nghĩa Nhân Bản (L’Existentialisme est un humanism),2 và xuất hiện chỉ một tháng sau hai tập đầu tiên của bộ sách ba tập Chemins de la liberté (Các Con Đường Đến Tự Do) của ông.3 Điều này có nghĩa tờ Les Temps Modernes là một trong các hợp tố then chốt của sự việc được mệnh danh là “cuộc tấn công của chủ nghĩa hiện sinh” đã càn quét khắp giới trí thức Paris và rộng hơn thế trong mùa thu 1945. Đáng chú ý, tờ Les Temps Modernes là một cuộc mạo hiểm kết hợp “excellence littéraire et pholosophique, liberté et engagement, rigeur et capacité de penser toute chose”,4 và không bị ràng buộc với bất kỳ chủ thuyết chính thống hay liên kết với bất kỳ đảng phái chính trị nào. Ban biên tập hỗn tạp của nó, khởi thủy gồm Sartre, de Beauvoir, Maurice Merleau-Ponty, Raymond Aron, Jean Paulhan, Michel Leiris và Albert Ollivier, đã hoạt động giống như một khối nam châm đối với các trí thức “tự do” khác. Một lý do khác nữa cho thành công của tờ tạp chí là uy tín và vị thế độc đáo của Sartre, người đồng sáng lập và đồng biên tập, bởi vào lúc tờ Les Temps Modernes ra số đầu tiên, ông đã sẵn tạo lập được danh tiếng của mình như một tiểu thuyết gia, một triết gia, một kịch tác gia, một nhà phê bình và một ký giả.

Ở trọng tâm của chủ nghĩa hiện sinh của Sartre là hai ý niệm liên kết chặt chẽ với nhau là trách nhiệm và sự cam kết (sự dấn thân), và sự tán đồng các khái niệm này là đặc điểm trung tâm trong bài “Giới Thiệu” số đầu tiên của tờ Les Temps Modernes.5 Trong những dòng mở đầu của bài Giới Thiệu, Sartre đã nhắc nhở độc giả: “tous les écrivains d’origine bourgeoise ont connu la tentation de l’irresponsabilité”,6 nhưng tiếp tục lập luận nhiệt tình rằng bất luận các người viết có thích hay không, họ không thể trốn tránh được hoàn cảnh và trách nhiệm của họ: “Pour nous, en effet, l’écrivain n’est ni Vestate, ni Ariel: il est “dans le coup”, quoi qu’il fasse, marquée, compromise, jusque dans sa plus lointaine retraite”.7 Ở trang kế tiếp, ông đã ghi nhận: “Puisque l’écrivain n’a aucun moyen de s’évade, rnous voulons qu’il embrasse étroitement son époque; elle est sa chance unique”.8 Như một phần trong cam kết của ông với thời đại của mình và cam kết của các cộng tác viên khác trong tạp chí, Sartre hứa hẹn rằng Les Temps Modernes sẽ tự đứng vào hàng ngũ với những người muốn thay đổi “à la fois la condition sociale de l’homme et la conception qu’il a de lui-même”,9 và sẽ thể hiện lập trường về các vấn đề xã hội và chính trị tương lai khi chúng phát sinh. Như Sartre về sau có viết, Sartre và Merleau-Ponty sẽ là “des chasseurs de sens” với vai trò phơi bày sự thực về thế giới.10

Một trong các khía cạnh của thế giới mà tờ tạp chí đã gắng sức phát hiện sự thực là Đông Dương; và trong lĩnh vực tri thức, nó đã đóng một vai trò nổi bật trong việc chống lại sự nghèo nàn và không chính xác của tin tức về Đông Dương, trong nỗ lực nâng cao nhận thức của quần chúng và duy trì một sự cáo giác nhất quán đối với chính sách của chính phủ. Bình luận về phẩm chất và số lượng các bài viết ấn hành trong tờ Les Temps Modernes, Alain Ruscio, một học giả hàng đầu về Cuộc Chiến Tranh Đông Dương, viết rằng trong tất cả các ấn phẩm chống đối Cuộc Chiến Tranh, “c’est sans nul doute la revue fondle par Jean-Paul Sartre à la Libération, Les Temps Modernes qui a le plus contribute à une connaissance approfondie de la question vietnamienne, de 1946 à 1954”.11 Một yếu tố nhấn mạnh hơn nữa sự đóng góp của tờ Les Temps Modernes là sự đa dạng của các bài viết, bao gồm các phân tích về quan hệ Pháp-Đông Dương từ năm 1940, phân tích chiến thuật và chiến lược của phong trào đòi độc lập, thư độc giả, một thỉnh nguyện thư hòa bình, phóng sự, điểm báo, các bài viết của nhân chứng tại chỗ, phân tích chiều kích quốc tế của cuộc xung đột, phê phán chính sách chính phủ, cũng như nhiều phân tích phê phán về chính sách thực dân nói chung.

Các bài viết đăng tải trong tờ Les Temps Modernes về Đông Dương có thể được sắp xếp theo trình tự thời gian thành bốn thời kỳ: a) từ số đầu tiên của tờ Les Temps Modernes (Tháng Mười 1945) đến cuộc oanh tạc của Pháp tại Hải Phòng (Tháng Mười Một 1946); b) từ Tháng Mười Hai 1946 đến sự bùng nổ Chiến Tranh Triều Tiên (June 1950); c) từ sự bùng nổ Chiến Tranh Triều Tiên đến Tháng Bảy 1953; d) từ Tháng Tám 1953 đến Tháng Năm 1954.

Tháng Mười 1945 – Tháng Mười Một 1946: Giữ Khoảng Cách Xa

Trong suốt thời kỳ này, tờ tạp chí chỉ đăng tải một bài viết duy nhất về Đông Dương, nhan đề “Sur l’Indochine”,12 vào Tháng Hai 1946. Đó là bài viết của Trần Đức Thảo, một cựu sinh viên tốt nghiệp ban triết học Trường Cao Đẳng Sư Phạm (École Normale Superieure) và là học trò cũ của Merleau-Ponty. Vào Tháng Mười 1945, ông Trần Đức Thảo là một trong khoảng năm mươi nhà đấu tranh của Đông Dương bị bắt giữ và buộc tội kế đó sau khi phân phát tại Paris các truyền đơn về tình hình Đông Dương. Cuối cùng những lời buộc tội đã được bãi bỏ và tờ Les Temps Modernes đã cung cấp cho ông Trần Đức Thảo, tác giả tờ truyền đơn vi phạm, cơ hội để trình bày các quan điểm của mình.

Bài viết này, bài đầu tiên xuất hiện trên tờ Les Temps Modernes, quan trọng vì một số lý do. Trước tiên, nó phản ảnh tinh thần của tờ tạp chí mở rộng trang báo của mình cho một nhà đấu tranh dấn thân vì một chính nghĩa, trong trường hợp này là nền độc lập của Việt Nam, trong đó tác giả nói trực tiếp với độc giả thay vì đưa ra các quan điểm đã được gạn lọc thông qua một trung gian. Thứ nhì, phân tích của ông Trần Đức Thảo về các quan điểm đối lập nhau của Việt Nam và Pháp về sự dính líu của Pháp tại Đông Dương được rút ra cả từ chủ nghĩa Mác-xít lẫn hiện tượng học và, như tác giả Howard Davies đã ghi nhận, “chuyển cuộc tranh luận ra khỏi những điều đúng và sai được xem là khách quan của chính quyền thực dân, và thay vào đó, đặt vấn đề như là vấn đề của nhận thức và của sự xung đột về nhận thức”.13 Thứ ba, mặc dù việc đăng tải bài viết này trùng hợp với “cuộc bình định” miền trung và miền nam Việt Nam của các lực lượng Pháp và đã xuất hiện vài tháng trước cuộc oanh tạc Hải Phòng, phân tích của ông Trần Đức Thảo khẳng định rằng cuộc đấu tranh đã được khởi động giữa người Pháp, phía từ chối không chịu từ bỏ quyền chủ tể, và người Việt Nam, những người coi chế độ thực dân Pháp là có tính chất đàn áp, trấn áp, và xâm lược, và xem phương án thay thế duy nhất là một nước Việt Nam độc lập. Tuy nhiên, vào lúc này, tờ Les Temps Modernes chưa có một lập trường về Đông Dương. Điều này được chứng minh trong lời ghi nhận của chủ biên trước bài viết, trong đó nói rõ rằng bài viết biểu lộ quan điểm của tác giả, và không được hậu thuẫn bởi tạp chí.

Tháng Mười Hai 1946 – Tháng Sáu 1950: Cam Kết I

Bài xã luận trong số Tháng Mười Hai 1946,14 bị khích động bởi cuộc oanh tạc của Pháp tại Hải Phòng, đánh dấu một khoảnh khắc xác định trong lịch sử của lập trường của tờ tạp chí về chính sách thực dân nói chung và Đông Dương nói riêng. Nó không chỉ khởi đầu một chiến dịch chống lại riêng cuộc phiêu lưu thực dân đó, mà còn ấn định chủ trương chống thực dân như là một trong các nguyên tắc xác định của tờ tạp chí mà nó chưa bao giờ từ bỏ.

Được viết bởi Jean Pouillon, nhưng kết ước chung cho toàn bộ tờ tạp chí, bài xã luận ‘Et Bourreaux et Victimes…’ đã phê phán gay gắt sự xuyên tạc, sự ưa thích đưa tin giật gân và cơn sốt chiến tranh của báo chí Pháp, và tố cáo cuộc xung đột tại Đông Dương như một cuộc chiến đáng ghê tởm nhất trong tất cả các loại chiến tranh – một cuộc chiến tranh thực dân. Bài xã luận đã gây ra một cơn thịnh nộ khi thẳng thắn chỉ ra sự tương đồng giữa sự chiếm đóng của Đức tại Pháp và sự can dự của Pháp tại Đông Dương, và kêu gọi binh sĩ Pháp rút quân. Michel-Antoine Burnier, tác giả quyển Les Existentialistes et la politique, tóm lược tầm quan trọng của bài xã luận như sau:

D’abord parce que [sic] c’est le premier òu la revue se heurte de front et globalement à l’ensemble de la politique gouvernementale, c’est le premier òu elle prend une position aussi tranchée. Ensuite, parce que la politique colonial des Temps Modernes restera constant pendant pros de vingt ans … [I]l est à noter que, dès le debut, Les Temps Modernes ont prit une position nette sur les guerres colonials, ont defend les colonises contre les colonisateurs, sans ambiguité d’aucune sorte. Ils furent les premiers à voir l’importance de ces questions pour la France et pour la gauche franҫaise, les premiers à reclamer l’independence immediate et sans contrepartie.15

Trong suốt thời kỳ này (Tháng Mười Hai 1946 – Tháng Sáu 1950), tờ Les Temps Modernes đã mở rộng các trang báo của nó cho một số người viết thảo luận về cùng một không gian (Đông Dương) và cùng thời kỳ (sau 1940 hay sau 1945) và những người, thông qua các bài viết của họ, phần lớn được đăng tải trong số Tháng Ba 1947, đã dựng lên một bức tranh đa diện, phức hợp, về những gì đang xảy ra tại Đông Dương.

Một chiều kích quan trọng của bức tranh hỗn tạp này là những bài viết có tính chất riêng tư của các cá nhân có kinh nghiệm trực tiếp về Việt Nam: một tường thuật về việc tuần tra để truy tìm quân nổi loạn Nhật Bản;16 chuyện đời một người lính trong Lực Lượng Viễn Chinh Pháp trong các năm 1945/1946;17 chuyện kể của một người lính về hai năm quân vụ tại Đông Dương;18 và tường thuật về sự tàn bạo của Pháp được viết chi tiết bởi Jeanne Cuisinier, một nhà xã hội học tôn giáo đã làm việc tại miền bắc Đông Đương trong mười năm dưới sự bảo trợ của viện bảo tàng Musée de l’Homme.19

Trong các phân tích về tình hình Đông Dương từ năm 1940, hai bài viết có một chiều kích cá nhân mạnh mẽ. Một bài viết có tác giả, giống như Cuisinier, đã từng sinh sống tại Việt Nam trong khoảng mười năm, đả phá người Pháp về việc ước lượng thấp sức mạnh của cảm thức muốn giành độc lập trong nước và về việc lựa chọn một chính sách vũ lực thay vì thương thuyết tức thời.20 Bài viết kia,21 được viết bởi một sĩ quan mới phục vụ ở Nam Kỳ, phác họa cuộc xung đột tại Việt Nam trong thực chất như một cuộc tranh giành giữa Bắc Kỳ (Tonkin) và Nam Kỳ (Cochinchina). Bài viết phủ nhận có một phong trào quần chúng đòi độc lập tại Nam Kỳ, tuyên bố Việt Minh chỉ là một nhóm nhỏ những kẻ khích động và Nam Kỳ có quyền quyết định tương lai của chính nó.

Các phân tích khác bao gồm bài viết thứ hai của Trần Đức Thảo về quan hệ Pháp-Việt trong thời kỳ giữa Tháng Tám 1945 và Tháng Mười Hai 194622 và một bài khác của Cuisinier về quan hệ giữa người Pháp và người dân Việt Nam, và về những mối quan hệ cực kỳ phức tạp liên quan đến nhà chức trách Pháp, Việt Minh, và ở một mức độ ít hơn, người Anh, người Hoa và người Nhật.23 Ngoài ra, đã có một cuộc bút chiến quan trọng giữa Trần Đức Thảo và một cựu học trò khác của Merleau-Ponty, Claude Lefort thuộc phe Trotskyist, về chiến lược và chiến thuật của Việt Minh,24 trong đó Trần Đức Thảo cho rằng sự cáo buộc tàn tệ của Lefort về “đường lối phản cách mạng” của Việt Minh đã đặt ông ta một cách khách quan vào phe đế quốc chủ nghĩa.25

Tuy nhiên, như bài xã luận Tháng Mười Hai 1946 cho thấy, tờ Les Temps Modernes không chỉ có mục đích tạo một diễn đàn, một đường dẫn thụ động để qua đó người ta có thể tự phát biểu về vấn đề Đông Dương. Trước tiên, tầm mức các ý kiến trong tờ tạp chí bị hạn chế, không có đất cho các lập trường bảo thủ hay phản động: các quan điểm được phát biểu bởi Dannaud,26 được tạp chí miêu tả là “cấp tiến” (liberal), là mức xa nhất mà tờ tạp chí sẵn sàng bước tới. Thứ nhì, mặc dù những người đóng góp có thể tự do phát biểu, tờ tạp chí cũng có thể tự do bình luận trên các bài viết đăng tải. Ví dụ, trong bài xã luận “Indochine S.O.S.”,27 số Tháng Ba 1947, bài viết của Dannaud được mô tả như “un mélange stendhalien d’ingenuité et de ruse”, và tường thuật của ông bị cho là “typiquement celui d’un soldat, c’est-à-dire d’un home qui risque sa vie là òu les autres travaillent, passé là òu ils demeurent, et, presque inévitablement, tient pour secondaire ce qu’ils prennent au sérieux et qui est la substance de leur vie”;28 bài xã luận này cũng bất đồng sâu sắc với lời tố cáo chống lại đường lối Stalin của tác giả Lefort.

Thứ ba, tờ báo đã tham gia tích cực vào các cuộc tranh luận phát sinh từ lập trường của chính nó. Ví dụ, bài xã luận “Indochine S.O.S.” đã đả kích phản hồi của Franҫois Mauriac (đăng tải trên tờ Le Figaro) đối với bài xã luận Tháng Mười Hai 1946 của tạp chí và cũng đăng tải một bài phúc đáp cho lá thư của một quân nhân trở về từ Đông Dương trong Tháng Mười Một 1946 chỉ trích giọng điệu của bài xã luận Tháng Mười Hai 1946 và bênh vực các chiến hữu của anh ta vẫn còn ở Đông Dương.29 Thứ tư, trong khi nhìn nhận các chiều kích quốc tế của cuộc xung đột tại Đông Dương (xem bên dưới), tờ Les Temps Modernes tiếp tục tố cáo nó về cơ bản là một cuộc chiến tranh thực dân30 và chỉ trích chính phủ, quốc hội và các đảng phái chính trị Pháp (kể cả đảng Đảng Cộng Sản Pháp) vì đã không tranh luận vấn đề một cách thấu đáo, công khai và không có hành động hữu hiệu.31 Cho đến Tháng Năm 1947, khi các bộ trưởng phe Cộng Sản bị bãi chức khỏi chính phủ, Đảng Cộng Sản đã không công khai chống đối cuộc chiến tranh. Ví dụ, khi các thành quả chiến tranh được tranh luận hồi Tháng Ba 1947, các bộ trưởng Đảng Cộng Sản Pháp đã bỏ phiếu tán thành còn các dân biểu Cộng Sản không bỏ phiếu. Điều này cho thấy rõ, như tác giả Ian Birchall đã nhận xét,32 rằng mãi cho đến Tháng Năm 1947, lập trường chủ trương bởi tờ Les Temps Modernes rõ ràng nằm bên cánh tả của SFIO [tức Section Française de l’Internationale Ouvrière : Phân Bộ Pháp Quốc Của Công Nhân Quốc Tế, đảng chính trị theo khuynh hướng xã hội chủ nghĩa của Pháp, chú của người dịch], và Đảng Cộng Sản. Thứ năm, và quan trọng, tạp chí đã không chỉ đơn thuần nhằm vào việc cung cấp thông tin, mà còn nỗ lực để động viên ý kiến công chúng phản đối chiến tranh. Một bản tuyên bố dài ba trang với chữ ký của hơn 50 nhà trí thức, ngoài de Beauvoir, Sartre và Merleau-Ponty, gồm André Breton, Jean Cocteau, Henri Matisse, kêu gọi hòa bình tại Việt Nam, được công bố vào cuối năm 1948.33 Bản tuyên bố này khác biệt rõ rệt với bài xã luận năm 1946 kêu gọi sự triệt thoái của Pháp. Bài xã luận năm 1946 về bản chất là một tuyên bố về sự phẫn nộ về mặt đạo lý (moral outrage), một tuyên bố về nguyên tắc (‘Chúng ta đã sai khi hiện diện tại Đông Dương và chúng ta phải rời đi’), và như thế chỉ dành ít khoảng trống cho một lập luận chính trị thuyết phục nhằm tán thành việc Pháp rút lui, và cũng không có tư tưởng nào được đăng tải về việc Pháp sẽ rút lui như thế nào hay đâu là tác động sẽ có trên nước Pháp. Bản tuyên bố năm 1948 có tính chất “chính trị” nhiều hơn bởi nó tố giác phí tổn của cuộc chiến, tỷ lệ tử trận cao trong các binh sĩ và sự thiếu mạch lạc trong chính sách của chính phủ. (Trong Tháng Sáu 1948, như một phần trong “giải pháp Bảo Đại”, Pháp đã ký kết một hiệp ước với vị hoàng đế thừa nhận nền độc lập và sự thống nhất của Việt Nam như một Quốc Gia Liên Kết trong Liên hiệp Pháp – đây chính là những điều mà Hồ Chí Minh đã tìm cách đạt được tại Hội Nghị Fontainebleau hai năm trước đó).

Các động năng nội bộ của tờ Les Temps Modernes và lập trường của nó về Đông Dương cũng cần được xem xét dưới một góc nhìn chính trị rộng hơn. Ngay từ lúc khởi sự tình trạng căng thẳng Pháp-Việt thời hậu chiến, các phát ngôn viên từ cánh Tả và Hữu tại Pháp đã sử dụng viễn cảnh quyền lực và ảnh hưởng của nước Pháp tại Đông Dương bị thay thế bởi quyền lực và ảnh hưởng của các cường quốc khác như một mối đe dọa nhằm biện minh cho sự can thiệp của Pháp.34 Tuy thế, tình trạng căng thẳng từ Tháng Tám 1945 đến Tháng Mười Một/Tháng Mười Hai 1946 và sự xung đột công khai tiếp sau đó ban đầu được nhìn chính yếu như một sự va chạm giữa quyền lợi của Pháp và Việt Nam. Tuy nhiên, trong diễn tiến của năm 1947, chiến tranh tại Đông Dương ngày càng bị gộp vào trong một kịch bản Chiến Tranh Lạnh, một khuynh hướng gia tăng mạnh mẽ với chiến thắng của Cộng Sản Trung Quốc hồi Tháng Mười 1949 và sự bùng nổ chiến tranh tại Triều Tiên vào mùa hè 1950.

Trong ban biên tập của tờ Les Temps Modernes, sự khởi đầu của Chiến Tranh Lạnh cũng được cảm nhận và vào Tháng Sáu 1946 đã dẫn đến việc Raymond Aron và Albert Ollivier từ bỏ hàng ngũ để ngả sang cánh thân Hoa Kỳ/chống cộng sản. Tuy thế, như đã được ghi nhận, trong khi vị thế cá nhân của Sartre như một nhân vật trí thức đã nâng cao danh tiếng của tờ Les Temps Modernes, chính Merleau-Ponty là người đầu tiên mang lại sự lãnh đạo chính trị và vị thế của ông trong ban biên tập đã được tăng cường nhờ sự ra đi của Aron và Ollivier. Khoảng mười lăm năm sau, khi trình bày về lập trường chính trị của ông vào thời điểm đó, Sartre có viết ”ma pensée politique était confuse, mesidées pouvaient nuire”.35 Merleau-Ponty thực sự là người cố vấn chính trị của ông.36

Các lập trường chính trị mà tờ Les Temps Modernes lựa chọn (chống phe de Gaulle, chống thực dân, chống phe chống cộng) đã đặt nó bên cánh tả của diễn trường chính trị. Nhưng mặc dù có cảm tình với Đảng Cộng Sản Pháp và Liên Bang Xô Viết, tờ tạp chí đã từ chối không đứng trong hàng ngũ của Liên Xô hay Đảng Cộng Sản Pháp. Một bài xã luận viết bởi Merleau-Ponty đăng tải trong Tháng Một 1946 đã tóm lược trọn vẹn lập trường chính trị của ông (và của tạp chí) vào thời kỳ đó.37 Lịch sử đã vươn tới một khoảnh khắc mơ hồ: giới tư sản bị sa lầy vào những mâu thuẫn của chính nó và chủ nghĩa tư bản đã không thể tự thể hiện mình như một lực lượng tích cực, trong khi cùng lúc, tầng lớp lao động thì quá yếu ớt để trở thành một nhân tố tự trị của lịch sử và tiến trình cách mạng ở Liên Xô đang bị ngưng trệ. Theo quan điểm của Merleau-Ponty, tương lai dù bất định nhưng sự trật bánh này của lịch sử không phải là một lý do để từ bỏ chủ nghĩa Mác. Hy vọng Liên Xô sẽ tìm lại được động năng cách mạng của mình, Merleau-Ponty chủ trương rằng tạm thời, việc quan trọng là cần bảo đảm rằng phong trào vô sản không bị ngăn chặn bởi bất cứ thứ gì. Tuy nhiên, đến năm 1947, ông đã trở nên bi quan hơn về viễn cảnh kinh nghiệm Xô Viết sản sinh ra một đường lối thực hành Mác-xít nhân bản, không giáo điều mà ông tâm đắc. Song, mặc dù ngày càng bi quan và vỡ mộng về đường lối Mác-xít kiểu Stalin, ông vẫn từ chối chạy sang phe chống cộng sản.

Ngay từ Tháng Ba 1947, tờ Les Temps Modernes đã ngầm phản ứng trước cáo buộc rằng Chiến Tranh Đông Dương chỉ là một phần của một “âm mưu Cộng Sản”. Một bài xã luận, đã được đề cập ở trên, ghi nhận rằng Việt Minh đã không nhận được bất kỳ sự ủng hộ đáng kể nào từ Liên Xô, rằng phần lớn vũ khí của Việt Minh đến từ Trung Hoa (lúc đó vẫn chưa là một quốc gia Cộng Sản), rằng Liên Xô đã tìm cách thỏa hiệp, chứ không muốn có một cuộc chiến tranh với nguy cơ đưa đến sự can dự của Anh Quốc và Hoa Kỳ, và rằng Đảng Cộng Sản Pháp, với tư cách là các thành viên của chính phủ, cũng phải chịu trách nhiệm về chính sách thực dân của Pháp tại Đông Dương.38 Bài viết kết luận rằng việc trách móc Liên Xô về chiến tranh Đông Dương cũng tương tự như các cảnh sát trưởng quy trách mọi vấn đề cho một nhóm nhỏ những kẻ gây rối.39

Tuy nhiên, khi cuộc chiến tranh tiếp diễn, ngôn từ Chiến Tranh Lạnh của những người ủng hộ sự dính líu của Pháp trở nên công khai hơn và inh tai hơn, trong khi những lời biện minh cho việc theo đuổi chiến tranh thuần túy vì quyến lợi quốc gia của Pháp ngày càng trở nên thiếu thuyết phục. Đối diện với sự căng thẳng gia tăng của Chiến Tranh Lạnh và cuộc chiến tranh tại Đông Dương, tờ Les Temps Modernes đã tích cực vận động vì hòa bình. Chính trong bối cảnh này mà lời thỉnh nguyện cho hòa bình đề cập ở trên đã được đặt ra, cũng như bài viết của René Étiemble nhan đề “De la bombe atomique et de ses conséquences”, đăng tải trên tờ Les Temps Modernes số Tháng Hai 1949.40

Đầu năm 1948, Sartre và Merleau-Ponty gia nhập Tập Hợp Cách Mạng Dân Chủ (Rassemblement Democratique Revolutionnaire) mới được thành lập, một tổ chức cánh tả rộng rãi nối kết cách mạng với tự do, hy vọng mang lại một giải pháp dân chủ triệt để thay thế cho chủ nghĩa Stalin và chủ nghĩa tư bản. Ngoài việc phản đối tính hiếu chiến của Chiến Tranh Lạnh bằng những đòi hỏi chung về hòa bình, Tập Hợp RDR cũng cam kết riêng cho hòa bình tại Đông Dương, và vào Tháng Một 1949, đã tung ra một thỉnh nguyện kêu gọi điều đình ngay lập tức với Hồ Chí Minh.41

Mùa hè 1950-Mùa Hè 1953: Thời Kỳ Gián Đoạn

Đầu năm 1950, nhận thức về chiến tranh tại Đông Dương đã thay đổi sâu sắc. Tháng Mười 1949, Đảng Cộng Sản Trung Quốc giành được quyền lực và vào Tháng Mười Hai đã cho đồn trú các binh sĩ tại biên giới Việt Nam. Tháng Một 1950, Trung Quốc và Liên Xô thừa nhận Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Không lâu sau đó, Bắc Triều Tiên và các nước Đông Âu cũng thừa nhận, và trong mùa xuân, Hồ Chí Minh đã thăm Bắc Kinh và Matxcơva, nơi ông gặp gỡ Mao Trạch Đông và Stalin. Trong khi đó, Hoa Kỳ, Anh Quốc, và các nước thuộc khu vực quyền lợi của Mỹ công nhận chế độ Bảo Đại, và trong Tháng Ba, những chiếc tàu Mỹ đầu tiên chuyên chở vũ khí cho các lực lượng của Pháp bắt đầu cập bến Sài Gòn, trong khi vũ khí Trung Quốc được cung cấp cho Việt Minh. Tới mùa xuân 1950, Đông Dương hẳn nhiên đã trở thành một chiến trường trung tâm của Chiến Tranh Lạnh. Sau đó vào Tháng Sáu, Bắc Triều Tiên đã xâm lăng phần đất phía nam của bán đảo Triều Tiên.

Sự bùng nổ Chiến Tranh Triều Tiên đã đánh dấu một điểm khủng hoảng cho tờ Les Temps Modernes. Như đã được ghi nhận, Merleau-Ponty, cố vấn chính trị của tờ tạp chí, ngày càng trở nên mất ảo tưởng về Liên Xô và các đảng Cộng Sản theo đường lối Stalin. Song, vào năm 1949, trong bối cảnh của vụ án Kravchenko (*a), ông đã cố gắng tương đối hóa (relativize) các hành vi đàn áp của Xô Viết bằng việc so sánh các trại giam Xô Viết với các thuộc địa của phương Tây, và còn tuyên bố rằng, bất kể mọi điều, vẫn có thể biện hộ cho Liên Xô, miễn là nó không hành động theo một cung cách đế quốc hay quân phiệt hung hãn. Nhưng đối với Merleau-Ponty, sự khai diễn cuộc Chiến Tranh Triều Tiên là giọt nước làm tràn ly. Ông đành phải kết luận rằng Stalin đã nhìn chiến tranh là không thể tránh được, rằng Liên Xô là một quyền lực đế quốc chủ nghĩa và không có lựa chọn nào giữa nó và chủ nghĩa đế quốc của Mỹ. Giờ đây, đối với ông – và, trong quan điểm của ông, đối với tờ tạp chí – lựa chọn duy nhất là im lặng.42

Merleau-Ponty, người đã sẵn thu mình nội bên trong tờ tạp chí từ năm 1949, giờ đây hoàn toàn thoái lui. Hành động của ông tước mất của tờ tạp chí một người đã từng đóng góp quá nhiều vào đường hướng chính trị của nó và đã mở ra một thời kỳ mà Sartre gọi là ‘thời kỳ gián đoạn’ mà theo Sartre, kéo dài cho đến năm 1952,43 mặc dù, theo tác giả Howard Davies, Merleau-Ponty cuối cùng đã không bỏ đi cho mãi đến Tháng Một 1953.44 Nếu tờ Les Temps Modernes vào đầu thập niên 1950 được xem xét chỉ từ quan điểm của các bài viết được đăng tải về Đông Dương, rõ ràng là chiến tranh không trở thành tâm điểm chú ý một lần nữa cho mãi đến mùa hè 1953, bởi chỉ có một bài báo duy nhất có thực chất được công bố về đề tài này trong thời kỳ giữa mùa hè 1950 và Tháng Bảy 1953;45 tuy nhiên, không nên quên rằng từ năm 1952, Sartre đã tích cực hoạt động chính trị trong một cuộc đấu tranh do Đảng Cộng Sản Pháp cầm đầu đòi trả tự do cho Henri Martin, một thủy thủ bị kết án tù năm năm hồi năm 1950 vì vận động chống chiến tranh tại Đông Dương.46

Sự tham gia của Sartre vào chiến dịch của Đảng Cộng Sản Pháp đòi phóng thích Martin đã là màn dạo đầu cho một thời kỳ hợp tác chặt chẽ của ông với Đảng này kéo dài cho đến khi Liên Xô xâm lược Hungary vào năm 1956. Lý do cho quyết định của Sartre trở thành một người bạn đồng hành từ năm 1952 nằm ngoài phạm vi của bài viết này, nhưng có thể được tìm thấy trong bài “Les Communistes et la paix” (Những người Cộng Sản và Hòa bình) đăng tải trong tờ Les Temps Modernes năm 1952.47

Giữa năm 1950 và 1953, cuộc thảo luận của tờ Les Temps Modernes về chủ nghĩa thực dân trở nên khái quát hóa hơn, và chỉ có một bài viết duy nhất về Đông Dương trong số các bài viết có tính chất lý thuyết về hiện tượng của chủ nghĩa thực dân và về chủ nghĩa thực dân tại các vùng khác trên thế giới (tức Nam Phi, Algeria, Morocco và Tunisia).

Mùa Hè 1953 – Tháng Năm 1954: Cam Kết II

Vào mùa hè 1953, tờ Les Temps Modernes lại đặt Cuộc Chiến Tranh Đông Dương lên hàng đầu trong nghị trình của nó bằng việc ấn hành một số đặc biệt về Việt Nam.48 Vào lúc đó, ngày càng trở nên rõ ràng rằng người Pháp sẽ không thể chiến thắng tại Đông Dương với số nhân lực và khối lượng quân dụng thuộc quyền điều động của họ, và rằng chính phủ Pháp đã không chuẩn bị để gia tăng sự cam kết của nó và rằng dù có làm như thế, chiến thắng còn lâu mới được bảo đảm chắc chắn. Như với tập hợp các bài viết được ấn hành hồi Tháng Ba 1947, số báo đặc biệt Tháng Tám và Tháng Chín đưa ra một loạt các “lập trường” khác biệt về chiến tranh thông qua mười bảy bài viết trong đó. Giống như trong số báo Tháng Ba 1947, cũng có tường thuật của một người bên dân sự mới trở về từ Việt Nam,49 và các trích đoạn từ quyển nhật ký của một binh sĩ Pháp đã từng phục vụ tại Việt Nam.50 Ngoài ra, khác với năm 1947, tờ TM có đăng tải một quan điểm về cuộc chiến tranh từ một thành viên thuộc tổ chức bí mật của Việt Nam.51 Bên cạnh một bài viết về sự thất bại của chính sách thực dân Pháp từ quan điểm kinh tế,52 cũng có một bài viết về Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa,53 về những gì mà nhà nước này đã đạt được với và cho các nông dân (tức việc thành lập các nông hội, cuộc chiến chống nạn mù chữ, cải cách ruộng đất)54 và về Quân Đội Nhân Dân Việt Nam.55

Số báo bao gồm một bài viết đả kích chính sách của chính phủ Pháp ủng hộ cho Bảo Đại, một bài khác điểm mặt các nhân vật chính trị và quân sự then chốt bên phía Pháp,56 và hai bài viết – một về Việt Nam và Hoa Kỳ,57 bài kia về Việt Nam và Trung Hoa58 – phản ảnh chiều kích quốc tế mà cuộc xung đột đã khoác lấy, đặc biệt từ năm 1950. Cũng có những bài viết về văn hóa – các bài thơ và bài hát về kháng chiến Việt Nam59 và một bài điểm sách ngắn về các tác phẩm của các tác giả Pháp cố gắng biện minh cho chính sách Pháp tại Đông Dương thông qua các bài viết của họ.60 Trong số báo Đặc Biệt này, chúng ta tìm thấy âm hưởng của bài xã luận năm 1946 thông qua phép so sánh thường xuyên xuất hiện trong các bài báo được đăng tải, giữa quân đội Pháp tại Đông Dương và quân Đức tại Pháp trong thời Chiếm Đóng.61 Việc tuyển chọn các bài viết được đăng tải cũng làm sáng tỏ sự hiệp đồng của tờ tạp chí với cuộc đấu tranh giành độc lập của người Việt, sự chán ghét của tờ báo đối với chính sách của Pháp, và một sự lặp lại lời kêu gọi thương thảo với Hồ Chí Minh, được trình bày một cách công khai như là giải pháp của tờ tạp chí cho cuộc xung đột trong một bài viết của Jean Pouillon.62

Lời nói đầu của số Tháng Năm 1954 khẳng định rằng sự thực của thất bại của Pháp ở Điện Biên Phủ là cuộc chiến tranh tại Việt Nam đã bị thua.63 Tạp chí đã không cảm thấy rằng đó là sự thất trận của nó, cũng không phải của nước Pháp, hay của những người lính đã chiến đấu tại Đông Dương, mà là thất bại của những kẻ phụ trách chính sách của Pháp, những kẻ đã bác bỏ một giải pháp hòa bình, những kẻ đã nói dối và giấu giếm, và những kẻ giờ đây đang tìm kiếm một giải pháp “danh dự”. “[T]oute defaite, pour eux”, bài viết ghi nhận, “sera dishonorante, parce que la guerre l’était”.64 Giải pháp hòa bình duy nhất lúc này, theo bài xã luận, là nước Pháp thừa nhận Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và lập tức triệt thoái các đoàn quân viễn chinh.

Trong suốt cuộc xung đột, mục đích chính yếu của tờ tạp chí là nhằm giáo dục độc giả về những gì đang xảy ra tại Đông Dương, làm cho dân chúng tại Pháp hiểu được các khát vọng của người Việt Nam và các ảnh hưởng tàn phá của chính sách của Pháp. Chiều hướng này được Sartre phát biểu rõ trong số báo Tháng Năm 195465 tiếp theo sau việc gạt bỏ vào giờ chót một bài xã luận về Đông Dương trong ấn phẩm tháng trước đó. (Bài viết, “Nous ne partirons pas pour la croisade”, được viết bởi Marcel Peju, rõ ràng có được liệt kê trong bảng mục lục và, theo các tác giả Contat và Rybalka, chính Sartre là người đã quyết định gỡ bỏ bài viết khỏi tờ tạp chí sau khi nó đã được chấp nhận và in ra).66 Không rõ lý do rút lại bài báo là gì,67 nhưng trong số báo Tháng Năm, Sartre đã nhắc lại mục tiêu của tờ tạp chí về Đông Dương và tóm tắt một cách trọn vẹn thái độ của nó trong suốt cuộc chiến mà đã được khảo sát ở trên.

Ce que le public demande à notre revue, ce n’est pas d’agiter mais d’exposer les évènements, d’analyser les situations, d’en éclairer les sens, s’il se peut, bref de commenter et de convaincre … Tous nos lecteurs savent que nous tenons la politique du gouvernement pour nefaste et pour méprisables les homes qui l’inspirent: mais notre tache est de le démontrer sans cesse.68

Bất kể nỗ lực nhất quán của tờ Les Temps Modernes để nâng cao ý thức của quần chúng về cuộc chiến, dường như tờ tạp chí chỉ có rất ít tác động trên công luận. Thí dụ, trong một cuộc thăm dò ý kiến được thực hiện hồi Tháng Một 1948, số người coi cuộc chiến tranh tại Đông Dương như là một trong các biến cố chính của năm 1947 thì ít đến nỗi nó bị gộp vào nhóm 6% “các biến cố khác”. Khi cuộc chiến tranh tiếp diễn, sự lưu tâm đến các biến cố tại Đông Dương thì cực kỳ giới hạn. Vào Tháng Mười 1950, 20% số người được phỏng vấn và vào Tháng Hai 1954, 30% số người được phỏng vấn cho biết họ không có ý kiến gì về các biến cố tại Đông Dương. Tháng Năm 1953, một cuộc thăm dò ý kiến những người là độc giả của một hay nhiều tờ báo (giả định là những người có hiểu biết về chính trị) phát hiện rằng chỉ có 30% số mẫu thăm dò thường xuyên theo dõi tin tức về Đông Dương, và vào Tháng Hai 1954, ba tháng trước khi Pháp thất bại tại Điện Biên Phủ, con số đã tụt xuống tới 23%, với 45% nói rằng họ chỉ thỉnh thoảng đọc tin tức về Đông Dương, và 32% trả lời họ chưa từng đọc về nó gì cả. Trong số những người phát biểu quan điểm về cuộc chiến tranh, cần ghi nhận rằng số người ủng hộ sự can thiệp của Pháp tại Đông Dương chưa bao giờ chiếm đa số, và vào Tháng Hai 1954 đã tụt xuống chỉ còn 8% dân số Pháp. Với 19 chính phủ tại Pháp từ năm 1945 đến 1954, chính sách của Pháp thường xuyên mang vẻ lưỡng lự, mâu thuẫn và thiếu mạch lạc.69

Vì thế, rõ ràng là mặc dù cuộc Chiến Tranh của Pháp tại Đông Dương chỉ ngắn hơn cuộc Chiến Tranh tại Algeria khoảng một năm hay ít hơn (vốn khởi sự chỉ bốn tháng sau trận Điện Biên Phủ), nó không hề có cùng tác động trên chính trị Pháp, công luận Pháp hay môi trường trí thức Pháp như cuộc Chiến Tranh Algeria đã gây ra, ngoại trừ sự chấn động về thất bại tại Điện Biên Phủ). Các lý do của thực trạng này không khó để nhận biết.

Như đã ghi nhận, sự tái khẳng định quyền lực của Pháp tại Đông Dương và các nơi khác của đế chế Pháp là một phần trong chiến lược của de Gaulle để bảo đảm vị thế “đại cường” mà Pháp đã thụ hưởng trên thế giới thời hậu Thế Chiến. Tuy nhiên, trong thời kỳ 1944-1947 mà tác giả Martin Shipway đã gọi là “con đường dẫn đến chiến tranh”70 tại Đông Dương, (các) chính phủ Pháp và dân chúng tại mẫu quốc Pháp đã xem xét các sự việc khác cấp bách hơn: cho đến năm 1945, nhiệm vụ chính hiển nhiên là đảm bảo nước Pháp được xem là đóng vai trò tích cực trong việc đánh bại chủ nghĩa Quốc Xã của Đức (Nazism). Sau khi phe Quốc Xã thất trận, ưu tiên được dành cho việc xây dựng một nước Pháp mới, và đặc biệt là tái cấu trúc nền kinh tế què quặt của Pháp, bao gồm cơ sở hạ tầng bị tàn phá của nó, cũng như ấn định các định chế chính trị của nền Đệ Tứ Cộng Hòa mới thành lập. Mặc dù đã có sự đồng thuận trong tầng lớp chính trị rằng Đông Dương phải dính liền với Pháp trong Liên Hiệp Pháp, vẫn còn cả một chặng đường dài, trong cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng, xa cách với các mối quan tâm tức thời và cấp bách của mẫu quốc Pháp thời hậu Giải Phóng.

Hơn nữa, Đông Dương không có một thành phần dân Pháp hay Châu Âu đông đảo có thể so sánh với dân số pied noir (chân đen) của Algeria và, một điểm quan trọng là, trong khi Đông Dương bao gồm các vùng đất bảo hộ và một thuộc địa, Algeria về mặt thể chế được xem là một phần của mẫu quốc Pháp, chỉ bị tách rời về mặt địa dư bởi Địa Trung Hải. Một điểm khác biệt then chốt khác là tại Algeria, khác với Đông Dương, sự trông cậy ngày một gia tăng được đặt trên số lính trưng binh, trong khi tại Đông Dương, cuộc chiến tranh không chỉ được chiến đấu bởi các binh sĩ chuyên nghiệp, mà còn có một sự gia tăng liên tục và mạnh mẽ số lính bản địa (người Đông Dương) được Pháp điều động. Điều này có nghĩa là số người tại Pháp mất con, mất cha hay bè bạn tại Đông Dương còn tương đối nhỏ. Chính vì thế, trong suốt diễn trình của nó, cuộc Chiến Tranh Đông Dương vẫn chủ yếu là “cuộc chiến tranh bị lãng quên”.

Jamais, dans ses profondeurs, la nation n’a considéré le conflit au bout du monde comme méritant une attention permanente, nécessitant des initiatives massives et suivies visant à inflechir la politique gouvernementale dans un sens ou dans l’autre. À l’exception de deux franges militants, les “pour” et les “contre”, il n’y eut ni actions ni attention permanente.71

Tuy thế, như một phần của phong trào “phản chiến’, tờ Les Temps Modernes đã nỗ lực một cách nhất quán để làm sáng tỏ những gì đang xảy ra tại Đông Dương, và từ Tháng Mười Hai 1946 đã duy trì không lay chuyển lập trường của nó kêu gọi Pháp rút lui. Lập trường kiên quyết của tờ tạp chí về Đông Dương có nghĩa là khi cuộc phiêu lưu (sai lạc) thực dân kế tiếp của Pháp khởi sự tại Algeria, ít tháng sau vụ Điện Biên Phủ, tờ Les Temps Modernes đã được thiết định như một “tiếng nói” được công nhận của chủ trương chống thực dân. Điều này cho phép tờ tạp chí giữ một vai trò quan trọng hơn nhiều trong suốt cuộc khủng hoảng Algeria và, ngay từ lúc khởi đầu các chiến sự, tờ Les Temps Modernes đã được nhìn nhận, và tự nhận mình, là một tiêu điểm cho những người phản chiến. Hơn nữa, sự chống đối chiến tranh của Pháp tại Đông Dương có nghĩa là Sartre và tờ Les Temps Modernes đã  tạo lập được uy tín chống chủ nghĩa thực dân của họ trước khi, vào thập niên 1960, họ tham gia vào phong trào chống lại sự can thiệp của Mỹ tại Việt Nam và có thể chứng minh rằng họ đã là những người ủng hộ trung thành nền độc lập của Việt Nam từ năm 1946.

Chú thích

1. Charles de Gaulle, Mémoires de guerre, Vol. I: L’Appel 1940-1942 (Paris: Plon, 1954), 137, được trích dẫn trong sách của Jean Lacouture, De Gaulle, Vol. II: Le Politique 1944-1959 (Paris: Éditions du Seuil, 1985), 156.

2. L’ Existentialisme est un humanism (Chủ nghĩa hiện sinh là một chủ nghĩa nhân bản) (Paris: Nagel, 1946) bản văn được tu chỉnh chút ít của bài diễn thuyết trước công chúng được đưa ra tại Câu Lạc Bộ Club Maintenant tại Paris hôm 28 Tháng Mười 1945.

3. Các tác phẩm L’Age de raisonLe Sursis được ấn hành bởi nhà xuất bản Gallimard trong Tháng Chín 1945.

4. Anna Boschetti, Sartre et ‘Les Temps Modernes’ (Paris: Minuit, 1985), 187.

5. Jean-Paul Sartre, ‘Présentation’, Les Temps Modernes, I (Oct. 1945), 1-21. Tên của tạp chí từ giờ về sau được viết tắt là TM.

6. Cùng nơi dẫn trên, 1.

7. Cùng nơi dẫn trên, 3.

8. Cùng nơi dẫn trên, 4.

9. Cùng nơi dẫn trên, 7-8.

10. ‘Merleau-Ponty’, trong sách của Sartre, Situations IV (Paris: Gallimard, 1964), 206.

11. Alain Ruscio, ‘Les Intellectuels franҫais et la guerre d’Indochine: une repetition générale’, Cahiers de l’Institut d’Histoire du Temps present, 34 (1996), 127. Về mặt số lượng các bài viết đã đăng tải, tờ tranh đua gần nhất của TM là ấn phẩm Démocratie nouvelle của Đảng Cộng Sản Pháp, được thành lập vào năm 1947. Từ 1947 đến 1954 (kể gôm 1954, TM đã ấn hành 38 bài viết có nội dung vững chắc về Đông Dương, tờ Démocratie Nouvelle ấn hành 31 bài và tờ Esprit ấn hành 14 bài. (Ngoài ra, tờ TM còn đăng tải một bài viết trong năm 1946 và Esprit ấn hành 2 bài trong năm 1948). Các ấn phẩm khác chống đối chính sách của Pháp tại Đông Dương được trưng dẫn bởi Ruscio, bao gồm Témoignage chrétien, L’Observateur, (sau đổi thành France-observateur), Combat, France-Tireur.

12. Trần Đức Thảo, ‘Sur l’Indochine’, TM, v (Feb. 1946), 878-900.

13. Howard Davies, Sartre and ‘Les Temps Modernes’ (Cambridge: Cambridge University Press, 1987), 19.

14. ‘Et Bourreaux et Victimes …’, TM, xv (Dec. 1946), trước trang 385.

15. Michel-Antoine Burnier, Les Existentialistes et la politique (Paris: Gallimard, 1966), 39.

16. Jean H. Roy, ‘Les Indochines’, TM, xvi (Jan. 1947), 743-50.

17. J.-B. Pontalis, biên tập, ‘Un soldat franҫais en Indochine’, TM, xvii (Feb. 1947), 895-905.

18. Patrick P. Michael, ‘Deux and d’Indochine’, TM, xli (March 1949), 503-4.

19. Jeanne Cuisinier, ‘Détails’, TM, xviii (March 1947), 1115-32.

20. N…, ‘Regards sur notre action politique en Indochine’, TM, xviii (March 1947), 1133-49.

21. Jean-Pierre Dannaud, ‘Service inutile’, cùng nơi dẫn trên, 1095-114.

22. Trần Đức Thảo, ‘Les Relations franco-vietnamiennes’, TM, xviii (March 1947), 1053-67.

23. Jeanne Cuisinier, ‘La France vue de Saigon’, TM, xxiii-xxiv (Aug. – Sept. 1947), 551-76.

24. Claude Lefort, ‘Les Pays coloniaux: analyse structurelle et strategie révolutionnaire’, TM, xviii (March 1947), 1068-94; Trần Đức Thảo, ‘Sur l’interpretation trotzkyste [sic] des évenements d’Indochine’, TM, xxi (June 1947), 1696-1705.

25. Trần Đức Thảo, ‘Sur l’interpretation …’, 1967. Trần Đức Thảo, trở về Việt Nam trong năm 1951 và làm giáo sư tại Đại Học Hà Nội cho đến năm 1958 khi ông bị bãi nhiệm. Như một phần của sự tự phê bình, được đăng tải vào Tháng Năm 1958 trên nhật báo của Đảng Cộng Sản Việt Nam, Đảng Lao Động, ông Trần Đức Thảo thú nhận đã “tiếp nhận và phổ biến ‘văn chương đồi trụy’ từ Pháp (kể cả các ấn bản của tờ Les Temps Modernes), và trong khi ở Pháp có liên hệ với tờ Les Temps Modernes, được mô tả như một ‘nhóm Trotskyist’ (Olivier Todd, Un Fils Rebelle (Paris: Grasset – Livre de Poche)), 1981, 236.

26. Dannaud, ‘Service inutile’.

27. ‘Indochine S.O.S.’, TM, xviii (March 1947), 1046. Nhan đề của bài xã luận được lấy từ một quyển sách có cùng nhan đề do Andree Viollis viết trong thập niên 1930 (Paris: Gallimard, 1935, với lời đề tựa của André Malraux).

28. Cùng nơi dẫn trên, 1048-51. Phần nhấn mạnh của nguyên bản.

29. Jean H. Roy, ‘Correspondance’, TM, xviii (March 1947), 1150-2.

30. Jean Pouillon, ‘Mythe contre mythe’, TM, xx (May 1947), 1345.

31. Cùng nơi dẫn trên, 1345-60.

32. Thư tín trao đổi với tác giả, 25 November 1997.

33. ‘Pour la paix au Vietnam’, TM, xxxix (Dec. 1948 – Jan. 1949), 122-5.

34. Cả de Gaulle lẫn Đảng Cộng Sản Pháp đều lo sợ rằng nếu Pháp giải kết ra khỏi Đông Dương, nước Anh và/hay Mỹ sẽ nhảy vào thay thế nó. Về de Gaulle, xem Jean Lacouture, De Gaulle, Chương 7, đặc biệt trang 165. Về Đảng Cộng Sản Pháp, xem, thí dụ, ‘Appel du Comité central du PCF’, 3 Tháng Năm 1947 trong sách của Jacob Moneta, Le PCF et la question colonial (Paris: Maspero, 1971), 159.

35. Sartre, ‘Merleau-Ponty’, 199.

36. Cùng nơi dẫn trên, 215.

37. Merleau-Ponty, ‘Pour la vérité’, TM, iv (Jan. 1946), 577-600.

38. ‘Indochine S.O.S.’, 1043.

39. Cùng nơi dẫn trên, 1044.

40. René Étiemble, ‘De la bombe atomique et de ses consequences’, TM, xl (Feb. 1949), 287-97.

41. Burnier, 71-2.

42. Sartre, ‘Merleau-Ponty’, 236.

43. Cùng nơi dẫn trên, 246.

44. Davies, 41.

45. Paul Mus, ‘Insertion du communisme dans le movement nationaliste Vietnamien, TM, lxxviii (April 1952), 1795-809.

46. Sartre có biên soạn một quyển sách về vụ này nhan đề là L’Affaire Henri Martin (Paris: Gallimard, 1953).

47. ‘Les Communistes et la paix’, TM, lxxxi (July 1952), 1-50; lxxxiv-lxxxv (Oct.-Nov. 1952), 695-763. Phần thứ ba xuất hiện trên tờ TM, ci (April 1954), 1731-819.

48. TM, số đặc biệt (numero special), xciii-xciv (Aug. – Sept. 1953).

49. Louis Dalmas, ‘En un combat douteux’, TM, xciii-xciv (Aug. – Sept. 1953), 195-207.

50. Philippe Arnoulx de Pirey, ‘Opération Gachis’, Cùng nơi dẫn trên, 225-73.

51. Hien, ‘La Mèré’, Cùng nơi dẫn trên, 319-27.

52. Henri Moscat, ‘Un échec: 50 ans de colonialism économique en Indochine’, Cùng nơi dẫn trên, 388-400.

53. Marcel Ner, ‘La République democratique du Vietnam’, Cùng nơi dẫn trên, 334-63.

54. Gilles Martinet, ‘La République Vietnamienne et la révolution paysanne’, Cùng nơi dẫn trên, 363-72.

55. Guy de Chambure và Jean-Jacques Salomon, ‘L’Armée populaire’, Cùng nơi dẫn trên, 293-318.

56. Jean-R. Clémenti, ‘Bảo Đại existe-t-il?’, Cùng nơi dẫn trên, 207-19; Claude Bourdet, ‘Les Hommes de la guerre’, Cùng nơi dẫn trên, 401-25.

57. Louis de Villefosse, ‘Les États-Unis en Indochine’, Cùng nơi dẫn trên, 447-57.

58. Marcel Ner, ‘Le Vietnam et la Chine de 1945 à 1953’, Cùng nơi dẫn trên, 373-86.

59. Chính Hữu [?], ‘Poèmes et chansons de la Resistance’, Cùng nơi dẫn trên, 327-32.

60. Jean-Henri Roy, ‘La Littérature et le napalm’, Cùng nơi dẫn trên, 274-80.

61. Xem, thí dụ, Dalmas, 195; Louis de Villefosse, ‘La Stratégie de “plein employ”’, TM, xciii-xciv (Aug. – Sept. 1953), 287; Introduction to ‘La Mère’, 318-9.

62. Jean Pouillon, ‘Il faut négocier avec Ho Chi Mính, TM, xciii-xciv (Aug. – Sept. 1953), 458-64.

63. ‘Le Rendez-vous de Điện Biên Phủ’, TM, cii (May 1954), 1921-3.

64. Cùng nơi dẫn trên, 1922.

65. Jean-Paul Sartre, ‘À nos lecteurs’, TM, cii (May 1954), 1923-4.

66. Michel Contat và Michel Rybalka, Les Écrits de Sartre (Paris: Gallimard, 1970), 276.

67. Lý do Sartre đưa ra là bài xã luận một sự phản đối ‘sự cảnh cáo’ mà John Foster Dulles đang đe dọa chuyển đến Trung Quốc. Theo Sartre, từ lúc viết cho đến khi xuất bản bài xã luận, Dulles, dưới áp lực từ phía Anh Quốc, đã từ bỏ đề nghị này. Bài xã luận do đó gặp rủi ro của việc xuất hiện lỗi thời và thừa thãi. TM cũng được khuyến cáo rằng nếu bài xã luận xuất hiện, có nguy cơ tất cả các ấn bản của số báo này sẽ bị tịch thu và giữ lại (xem ‘À nos lecteurs’, 1924). Theo Contat và Rybalka, có khả năng Sartre đã có quyết định ngoại lệ đối với một số câu được dùng trong bài xã luận mà ban đầu đề cập đến người Việt Nam như ‘những người dân da vàng nhỏ bé này: ces petits homes jaunes’. L’Express (2 May 1954) nêu ý kiến rằng bài xã luận đã bị rút lại bởi nó viết rất dở (Contat và Rybalka, 276-7).

68. ‘À nos lecteurs’, 1924.

69. Đoạn văn này trích yếu từ tác giả Alain Ruscio, ‘L’Opinion franҫaise et la guerre d’Indochine (1945-1954) sondages et témoignages’, Vingtième Siècle, 29 (1991), 35-45.

70. Martin Shipway, The Road to War: France and Vietnam 1944-1947 (London: Berghahn, 1997).

71. Alain Ruscio, ‘Les Intellectuels franҫais et la guerre d’Indochine: une repetition générale?’, 113.

Phụ chú của người dịch

*a) Victor Andreevich Kravchenko (sinh ngày 11 Tháng Mười 1905, mất ngày 25 Tháng Hai 1966), sinh ra tại Ukraina trong một gia đình không đảng phái, Kravchenko trở thành một kỹ sư và gia nhập Đảng Cộng Sản Liên Xô năm 1929. Ông chứng kiến giới nông dân Ukraina chết đói hàng loạt do chính sách tập thể hóa nông nghiệp của Stalin. Sự ghê tởm về số tổn thất nhân mạng lớn lao của chính sách này ngày càng làm ông chán ghét chế độ Xô Viết. Trong Thế Chiến II, ông phục vụ với cấp bậc Đại Úy trong quân đội Xô Viết trước khi được cử sang làm việc tại Soviet Purchasing Commission (Ủy Hội Tạo Mãi Xô Viết) tại Washington, D.C.

Năm 1944, ông xin tỵ nạn chính trị tại Hoa Kỳ. Tuy nhiên nhà chức trách Xô Viết đã yêu cầu dẫn độ tức khắc ông về Nga, gọi ông là kẻ phản bội. Đại Sứ Joseph E. Davies đã khiếu nại trực tiếp với Tổng Thống Hoa Kỳ Franklin D. Roosevelt nhân danh Stalin đòi trao trả Kravchenko. Kravchenko được chấp thuận cho tỵ nạn nhưng buộc phải sống với một tên giả để tránh nguy cơ bị điệp viên Xô Viết ám sát.

Kravchenko có viết quyển sách nhan đề I Choose Freedom xuất bản năm 1946 để trình bày về cuộc sống của ông tại Liên Bang Xô Viết như một viên chức Xô Viết và trải nghiệm của ông dưới chế độ tư bản Mỹ. Ông mất tại New York, năm 1966.

Nguồn: Wikipedia

 

BÌNH LUẬN

BÀI VIẾT LIÊN QUAN