VIỆT NAM PHONG TỤC: Phong tục trong gia tộc và tính tình trong xã hội

Cuốn sách “Việt Nam phong tục” của Phan Kế Bính là một công trình nghiên cứu nổi tiếng về các phong tục tập quán của người dân Việt. Xuất bản lần đầu năm 1915, tác phẩm không chỉ mô tả tập tục, lối sống của người Việt Nam mà còn là những đánh giá và cách nhìn riêng của tác giả: “Muốn đổi thì phải lựa dần dần, trước hết phải xét điều gì quá tệ mà bỏ bớt đi, rồi lâu lâu mới đem cái tục hay mà bổ hết cho các tục dở. Còn tục gì hay mà là quốc túy của ta thì cứ giữ lấy”. Tác phẩm được phân ra làm 3 chương, từ phong tục trong gia tộc đến phong tục hương đảng và phong tục trong xã hội. Tạp chí Phương Đông xin trích giới thiệu tới bạn đọc một phần chương I và III của cuốn sách (từ ấn phẩm được tái bản tháng 01/1975).

NÓI VỀ PHONG TỤC TRONG GIA TỘC

CHA MẸ VỚI CON

Cha mẹ

Hai tiếng cha mẹ, nước ta mỗi nơi gọi cũng hơi khác nhau: Nơi thì gọi là BốĐẻ, nơi thì gọi là ThầyU. Về đường ngược (Hưng Hóa) thì gọi mẹ là Bầm, về đường trong thì gọi là Bụ. Nam Kỳ thì gọi cha là Tía gọi mẹ là . Ở đây bây giờ lại nhiều người cho con gọi cha là Ba gọi mẹ là Me. Còn các nhà hiếm hoi thì chẳng cứ gì, người thì cho con gọi là Chú Thím, người thì cho con gọi là Anh Chị, Cậu Mợ. Ngày xưa lại có tiếng gọi mẹ là Cái nữa, tiếng ấy thì bây giờ không đâu dùng.

Sinh con

Đàn bà có mang ai cũng muốn sinh con giai mà ít người muốn sinh con gái. Hàng xóm bà con nghe thấy sinh con giai thì mừng. Trong khi có mang, váng đầu, đau mình gọi là ốm nghén; hay thèm ăn của chua, của chát gọi là ăn dở. Đến lúc sinh sản, mời bà tắm đến đỡ, con xổ ra rồi thì cắt rốn chôn nhau. Chôn phải chôn sâu, nếu chôn nông thì con hay chớ; mà phải tránh chỗ giọt gianh kẻo về sau con chốc đầu loét mắt.

Người mẹ thì phải kiêng khem gió máy, phải nằm than. Ăn cơm chỉ ăn muối hấp hay là nước mắm chưng, vài ba hôm mới dám ăn đến thịt. Đầy cữ (con giai bảy ngày, con gái chín ngày) xông muối xoa nghệ rồi mới ra đến ngoài.

Nhà nghèo nuôi con lấy, nhà giàu nuôi vú cho con. Có người cho vú đem về nhà nuôi. Cho bú độ ba bốn tháng thì cho ăn cơm và vẫn cho bú đến ba, bốn tuổi mới thôi.

Con nhà nào ba tháng biết lẫy, bẩy tháng biết bò, chín tháng biết lò cò chạy chơi, là hợp vào ca thì dễ nuôi mai sau làm nên người.

Tục ta hỏi thăm nhau đẻ con giai hay là con gái, người có chữ thường nói lộng chương hay lộng ngõa (nghĩa là chơi ngọc hay chơi ngói). Điển ấy do ở Kinh Thi: sinh con giai thì quí hóa mà cho chơi bằng hạt ngọc, sinh con gái thì khinh bỉ mà cho chơi bằng hòn ngói. Lại có người hỏi huyền hồ hay huyền cân (nghĩa là treo cung hay là treo khăn mặt). Điển ấy cũng do tục Tàu: đẻ con giai treo cái cung ngoài cửa, mà đẻ con gái treo cái khăn mặt. Ta dùng điển mà hỏi thăm, chớ không có tục ấy.

Trẻ em thuộc tầng lớp khá giả ở Bắc Kỳ, 1915. Ảnh: Léon Busy

Cúng mụ

Trong sách “Bắc hộ lục” có nói rằng: Tục Lĩnh Nam nhà giàu đẻ con được ba ngày, hoặc đầy tháng thì tắm cho con, làm một bữa tiệc, gọi là đoàn du phạn (nghĩa là bữa cơm tròn trặn trơn tru). Sách “Vân Đài Loại Ngữ” của ông Lê Quý Đôn thì nói rằng: Tục nước ta đẻ con được ba ngày, làm vài mâm cỗ cúng mụ. Đến hôm đầy tháng, hôm một trăm ngày, hôm đầy tuổi tôi, đều có làm cỗ cúng gia tiên, bày tiệc ăn mừng. Bà con, người quen thuộc, dùng thơ, câu đối, đồ chơi, đồ quần áo trẻ để mừng nhau. Mà nhất là tiệc một trăm ngày và tiệc đầy tuổi tôi to hơn cả.

Cứ như tục thành phố Hà Nội bây giờ thì đẻ con ra đầy cữ, đầy tháng, đầy tuổi tôi, mới làm cỗ cúng mụ. Trong lễ cúng thì dùng mười hai đôi hài, mười hai miếng trầu, cua, ốc, nham, bánh đúc… Vì tin rằng có mười hai bà mụ nặn ra người.

Thử con

Tàu có tục để con đầy một năm thì làm một tiệc thử con. Hôm ấy tắm rửa cho con sạch sẽ, mặc quần áo mới cho con, con giai thì bày đồ cung tên, bút giấy; con gái thì bày đồ kim chỉ, dao, kéo. Lại bày những đồ chơi quý báu ở trước mặt đứa trẻ để nghiệm xem nó tham liêm ngu trí làm sao, chữ gọi là tiệc thí nhi (thử trẻ). Các nhà đại gia ở ta cũng theo dùng tục ấy, nhưng chỉ bày ít món đồ chơi ấn triện, cung tên, bút mực, cày bừa, gọi là trong bốn món văn, vũ, canh, độc, để nghiệm đứa trẻ mai sau làm gì thôi.

Thuật kiêng cữ

Con nhà nào sinh phải giờ con sát, hay phải giờ kim xà thiết tỏa, sợ mai sau khó nuôi thì cúng đổi giờ. Nhà nào sinh con muộn mằn sợ khó nuôi thì làm lễ bán cửa tĩnh hoặc bán cửa chùa nào cho làm con Thánh con Phật gọi là bán khoán. Bán cho cửa tĩnh thờ Đức Thánh Trần, thì đổi họ gọi là họ Trần, bán cho cửa nhà chùa thì đổi họ gọi là họ Mầu, đến mười hai tuổi mới làm lễ mà chuộc về làm con mình.

Đưa con cho người khác bế, không được đưa qua cửa, mai sau sợ con đi ăn cắp ăn trộm. Ẵm con đi đâu, phải bôi ít nhọ chảo trên trán, hoặc cầm con dao, cái kéo hay là chiếc đũa đi theo, kẻo sợ người ta quở quang.

Con hay khóc đêm, gọi là dạ đề thì mượn một người khác lấy cái cọc chuồng lợn ném xuống gầm giường thì khỏi khóc. Có người lạ vào, con khóc mãi không thôi thì lấy một bó lửa ném vào trước mặt người ta thì con thôi khóc.

Con ngủ lì không dậy, lấy vài cái tóc mai của người ngoài phẩy vào miệng đứa trẻ thì khỏi.

Con hay trớ, lấy nước lòng đỏ cho uống thì khỏi.

Con nấc, lấy ngọn lá trầu không dán vào chỗ trán cho nó. Con ngủ giật mình, luộc một cái trứng gà, con giai thì cắt làm bảy miếng, con gái thì cắt làm chín miếng, và bảy hay là chín nắm cơm, hú vía cho nó rồi cho nó ăn thì nó khỏi sợ.

Con đau bụng khóc lắm, mượn người nhổ bão (nhổ ít tóc trên đầu) cho mẹ nó thì khỏi.

Con lồi rốn, mượn kẻ ăn mày cầm gậy chọc vào rốn thì khỏi.

Con chơi phải chỗ cỏ ngứa, nổi mần tịt cả mình mẩy gọi là ma tịt, thì giải một cái nón mê, tế bảy hoặc chín miếng trầu lá lốt cúng ông Cầu bà Quán cho nó thì khỏi.

Con lên đậu, ngoài cửa ngõ treo một bó vàng và trồng một cây lá ráy vào một cái nồi đất ở trước cửa, hoặc cài một cành kinh giới để giữ cho con được bình yên.

Con hắt hơi, thì nói: “Sống lâu, trăm tuổi, già đầu, thượng thọ” để chúc thọ cho con.

Con quặt quà quặt quẹo thì bế đứa con đưa qua cái săng người già chết thì nó được sống lâu.

Cách đặt tên

Con mới sinh ra thì thường gọi là thằng đỏ con đỏ, về nhà quê thì thường gọi thằng cu con đĩ, ở về vùng Thanh Nghệ thì thường gọi là thằng cò con hĩm, chớ không mấy người mới sinh ra đã đặt tên. Đặt tên thì nhà thường dân hay bạ tên gì đặt tên ấy, hay lấy vần hoặc lấy nghĩa gần nhau với tên cha mẹ mà đặt. Ví như cha mẹ là Lần thì đặt là Thần; cha mẹ là Nhăng thì con đặt là Nhố, hoặc cha mẹ là Đào thì đặt con là Mận, cha mẹ là Sung thì con đặt là Vả… Kẻ hiếm hoi thường lấy tên xấu xí mà đặt cho con, như gọi là thằng Cún (con chó cún) thằng Đực (chó đực)… Nhà có học thì thường kiếm những tên đẹp đẽ mà đặt cho con, mà nhứt là hay tìm từng bộ chữ nho. Ví như người thì dùng toàn một bộ chữ Ngọc như anh là Hoàng thì em là Hành, là Cư, là Vũ; người thì dùng toàn bộ chữ Thủy như anh là Giang thì em là Hoài, là Hà, là Tế…

Cho con đi học

Nhà nho gia cho con độ năm, sáu tuổi, nhà thường dân con độ mười một, mười hai tuổi thì cho con đi học. Người biết chữ thì dạy lấy, hoặc mời ông thầy trong làng. Lúc mới học phải hiện lễ giàu, rượu hoặc con gà ván xôi, để ông thầy làm lễ Thánh sư, rồi dạy vỡ lòng cho con dăm ba chữ hoặc bảy tám chữ, dần dần mới lại kén thầy mà học rộng mãi ra. Con gái thì ít người cho đi học mà có cho đi học, đủ biên sổ sách và biết tính toán mà thôi. Về phần nhà nghèo thì con lên bảy, tám tuổi còn phải ở nhà bồng em làm đỡ cho cha mẹ, chín, mười tuổi đã phải tập nghề làm ăn, không mấy nhà cho đi học.

Tổng đốc Hà Đông, ông Hoàng Trọng Phu và gia đình, 1914-1915. Ảnh: Léon Busy

Lo lắng cho con

Con độ mười bốn, mười lăm tuổi trở lên, cha mẹ đã đem lòng lo bề gia thất, con giai thì mong dựng vợ, con gái thì mong gả chồng. Xong việc vợ chồng thì lo đến cách lập thân cho con, ngần nào lo phường lo trưởng, lo nhiêu lo xã, cho con bằng mày bằng mặt với làng nước; ngần nào lo sinh cơ lập nghiệp cho con mai sau có chỗ nương nhờ. Nước ta lắm người đẻ nhiều con thì phải lo hết con này đến con khác, có người lo cả đời chưa hết.

Xét cái tục ta, sinh ra con ai cũng biết thương, biết mến, biết chăm chỉ nuôi nấng, dạy dỗ cho con nên người, nưng như nưng trứng, hứng như hứng hoa, thực là hết lòng hết dạ. Loài người cũng nhờ có tánh ấy mà bảo tồn được chủng loại cho mỗi ngày sinh sôi nẩy nở thêm ra, thì lòng nhân từ ấy rất là hay lắm. Nhưng chỉ hiếm ta khi xưa chưa hiểu cách vệ sinh, trong khi sinh sản, nào nằm than, uống nước tiểu, rất là một các làm cho sinh bệnh, không trách đàn bà ta nhiều người hay sinh ra hậu sản mà ốm mòn. Đến lúc nuôi con, thì lại hay tin những điều nhảm nhí, không có bậc triết học nào mà triết hết được những sự huyền hão ấy. Cho đi học, không có qui củ cách thức nào. Còn phần nhiều thì học năm mười năm mà dốt vẫn hoàn dốt, cho nên trong nước một trăm người mới được một hai người biết chữ, cũng chỉ vì cách dạy dỗ không tiên liệu đấy thôi.

Đến lúc con lớn thì lại lo thay cho con quá. Má nào lo có ra lo, lo những ngôi thứ trong làng, lo những danh phận vô ích. Chớ nào có lo nên một bậc người gì, hay là thành được một nghề gì đâu. Cái lo lắng ấy, hẳn sinh ra lười biếng, hay ăn chơi. Cho nên lắm người, đời cha mẹ hàn gắn chắt chiu, làm nên giàu có mà đến đời con thì chỉ ăn chơi chỉ phá, chẳng bao lâu mà lại hết nhẵn như không.

Cứ như Âu châu, khi sinh sản, các bà đỡ, cô đỡ chuyên môn đến đỡ, có thuốc có thang, ăn uống sạch sẽ.

Khi còn thơ ấu, nuôi nâng có điều có độ, từ lúc cho bú, lúc cho ngủ, lúc cho chơi cũng có thì có giờ, thực là hợp cách vệ sinh. Khi biết học thì cho vào trường học, dạy dỗ có thứ tự, có khuôn phép. Đến lúc khôn lớn, mặc ý cho mà lập thân, không cần gì phải lo lắng thay cho nữa. Bởi vậy con ít tật bệnh; mà nhiều người thông thái, lại gây cái tính tự lập cho con.

Ít lâu nay ta cũng đã có nhiều người nhiễm theo thói Âu châu, trong cách sinh sản, nuôi nấng, cũng đã đổi bỏ thói cũ, có lẽ về sau cũng theo nhau mà đổi được hết.

NÓI VỀ PHONG TỤC TRONG XÃ HỘI

TÍNH TÌNH

Tính tình nên chia làm hai hạng là tính tình đàn ông và tính tình đàn bà.

1. Tính tình đàn ông

Bậc sĩ phu trọng nhất là luân thường, dẫu nghèo khổ thế nào mặc lòng nhưng trái luân thường thì ai cũng chê cười. Lại có tính ưa nhàn, lấy cảnh phong nguyệt hoa thảo làm vui thú, lấy cuộc cầm kỳ thi tửu làm phong lưu. Về phần nông công thương cổ thì phần nhiều là người cần kiệm, an phận làm ăn, tuân giữ phép nước, mà nhất là lấy sự quyến luyến ở trong gia đình làm vui, bần cùng mới phải đi làm ăn xa, chớ có thể ở nhà được thì không ai chịu đi đâu cả.

Dân tình rất yêu sự yên ổn; quí hồ làm ăn cho đủ đóng đủ góp với làng nước; ra đến đình không ai nói động đến mình là mãn nguyện rồi.

Ai ai cũng biết trọng sự học hành; trừ ra nhà nghèo quá thì mới không sao cho con đi học được, chớ còn ai có con, độ lên bảy, tám tuổi cũng đã cho con đi học. Nhà thường thường cho con đi học độ dăm ba năm thì xoay ra làm nghề, nhà phong lưu phú quí thì con cho đi học thành người mới thôi.

Một nhóm hương chức ở Bắc Kỳ, 1914-1918. Ảnh: Léon Busy

Từ người sang cho chí người hèn; ai cũng lấy lễ nghĩa làm trọng. Mà nhất là các nơi hương thôn lại hay câu nệ lễ nghĩa từng tí. Ai không có lễ nghĩa thì thiên hạ chê cười là đồ ngạo ngược.

Ngoài các tính trên này, ai có những tính thực thà, cẩn thận, trung hậu, nhún nhường, hòa nhã, công liêm, trầm tĩnh, khảng khái, ngạnh trực, can đảm, quả quyết, kính bậc đạo đức, nhớ người ân nghĩa, trọng đường công nghiệp, giữ cái danh giá, có tư cách, có nghĩa khí, có lượng khoan dong, có lòng nhân đức, có chí nhẫn nại, có khí cương cường, trọng ái tình, yêu nhân loại, yên phận mình, giúp kẻ khốn, ghét sự ác, vui sự thiện, ẩn nhân chi ác, thành chi nhân mỹ, lúc nên xa xỉ cũng xa xỉ, lúc nên hào hoa cũng hào hoa v.v… Như thế gọi là tính khí quân tử.

Ai có những tính hồ đồ, ngờ vực, nhút nhát, lười biếng, ghen ghét, khoe khoang, hợm hĩnh, khép nép, câu nệ, sợ đầu sợ đuôi, nghĩ quanh nghĩ quẩn, chẳng ác mà cũng chẳng thiện, chẳng dở mà cũng chẳng hay, ham sự cờ bạc rượu chè, thích sự quây quần ăn uống, chẳng hại gì ai mà cũng chẳng ích gì cho ai, đưa đả theo thói đời, gió chiều nào che chiều ấy, người ta xuôi cũng xuôi, người ta ngược cũng ngược, người ta nói cũng nói, người ta cười cũng cười… Như thế thì gọi là tính khí thường nhân.

Còn ai có những tính: gian giảo, kiêu ngạo, ương ách, phản trắc, tham lam, thô tục, cục cằn, hay khoe hợm, hay xóc móc, hay kiện cáo, hay tranh giành, hay nịnh hót người quyền thế, hay khinh bỉ người hiền lành, hay dọa nạt kẻ ngu hèn, hay a dua kẻ bạo ác, hay sinh sự, hay thù hằn, ăn trộm, ăn cướp, xỏ lá ba que, đàng điếm, hoang tàn, ngông nghênh, huỳnh hãm, đài các giả, phong lưu mượn, tinh ranh vặt, lý sự cùn, anh hùng rơm, nhanh ẩu đoảng, thị phí khinh bần, thị cường lăng nhược, vong ân bội nghĩa, phản bạn lừa thầy, ố nhân thắng kỷ, ích kỷ hại nhân v.v… Như thế gọi là tính khí tiểu nhân.

2. Tính tình đàn bà

Đàn bà nhất là trọng điều liêm sỉ tiết nghĩa. Con gái chưa chồng, phần nhiều là biết giữ mình, con nhà sang không ai dám xâm phạm đã đành, dẫu đứa hèn hạ có người trêu ghẹo cũng biết xấu hổ, có khi văng ra những điều thô tục để cự lại.

Người có chồng rồi, lại nghiều người giữ gìn lắm, chỉ e mang tiếng với chồng. Mà đàn ông ta cũng yên chí rằng người đã có chồng như sản vật đã có chủ, không ai tưởng đến sự xâm chiếm nữa. Đàn bà cũng yên chí mình là một người riêng của chồng, dẫu sống chết chỉ biết có chồng mà thôi. Lúc còn con gái, nhỡ nhàng phải một sự xấu thì không tài nào mà gột rửa cho sạch, dù con nhà sang, dù con nhà hèn mặc lòng, ai ai cũng khinh bỉ mà không khi nào lấy được người tử tế nữa.

Trong vợ chồng cũng phải chính đính, những người tử tế không mấy khi nói những tiếng lả lơi nhả nhớt.

Ai bất hạnh góa chồng thì dù còn trẻ tuổi nhan sắc cũng muốn thủ tiết với chồng để giữ lấy danh giá. Bất đắc dĩ mà bước đi bước nữa, thì đã lấy làm xấu hổ, mà người ngoài cũng đã hơi khinh. Nếu ở vậy mà nhỡ ra khôn ba năm dại một giờ thì phải trốn tránh đi đất khác kẻo sợ người cười và e dân làng ngả vạ.

Có chồng mà tư gian với giai thì nhà chồng phú về ngay, mà cũng không ai lấy nữa.

Đàn bà thành phố lắm người khéo buôn bán có khi đàn ông cả đời chỉ trông về vợ mà ăn chơi.

Đàn bà nhà quê hay làm, chăm chú công việc, nào người chợ búa, nào người cày cấy, ai ai cũng lấy đảm đang được công việc nhà chồng là giỏi. Ta thường coi nhà nào có đàn bà giỏi là nhà ấy thịnh vượng.

Thiếu nữ Hà Nội nấu cơm, khoảng năm 1915-1916. Ảnh: Léon Busy

Ngoài các tính trên này, ai có những tính: khoan hòa, nhân đức, hiếu thuận, hiền từ, khôn ngoan, mực thước, đủ cả tam tòng từ đức, giữ được trinh tiết thủy chung, ăn nói dịu dàng, nết na đứng đắn, biết nghĩa chiều chồng nuôi con, có thao lược gánh vác việc cửa nhà, có can đảm mở mang việc buôn bán, biết giúp chồng cho nên người vẻ vang, biết dạy con cho nên người tử tế, như thế gọi là bậc hiền phụ.

Ai có những tính: tần tảo, chắt hiu, cơ chỉ, hàn gắn, chín chắn, nhu mì, thật thà, cẩn thận, biết đường ăn ở, biết điều phải chăng, biết quí chồng, biết yêu con, biết lo biết lắng. Biết nói biết cường, biết tề gia nội trợ, biết kính trọng anh em nhà chồng, có ghen tuôn mà ghen tuông biết điều, có nóng nảy mà nóng nảy vừa mực, tuy không có đức hạnh thao lược bằng bậc hiền phụ, nhưng cũng không đến nỗi hèn mạt như kẻ vô loài, như thế là bậc kha khá trung bình, cũng nên gọi là lệnh phụ.

Còn ai có những đức tính: gian dối, chua ngoa, cay độc, bạc bẽo, hoang tàn, lừa lọc, lẳng lơ, giáo giở, giang hồ, giăng gió, khinh chồng như lợn, như gà, rủa con có ngành có ngọn, mắt quằm quặm như diều hâu, mồm toang toác như quạ cái, điêu toa, hớt lẻo, tức tối ghen tuông, lăng toàn, nghiệt ngã, thì gọi là kẻ ác phụ. Lại còn hạng ngu si, đần độn, hay ăn, làm biếng, ăn chẳng nên đọi nói chẳng nên lời, buôn bán vụng về, nói năng cẩu nhẩu, u vai, thịt bắp, mặt xỉa mày sưng, mặt tày lệnh, cổ tay cong, tối như đêm, dầy như đất, như thế gọi là bọn xuẩn phụ.

Trong các tính tình đàn ông đàn bà không mấy người toàn hay cả mà cũng không mấy người dở cả. Đại để trong mười phần được bảy phần, tám phần hay đã là hay. Người hay thì ai ai cũng trọng, mà người dở thì ai ai cũng khinh.

Mỗi nước có một tính tình riêng, có tính tình nước kia cho là dở mà nước này cho là hay; có tính tình nước này cho là hay, mà nước kia cho là dở. Cái hay cái dở đó tùy theo cái trình độ của dân trí mà phân biệt và theo cái thói quen mà thôi.

Nước ta học theo Khổng giáo cho nên trọng nhất là luân lý cương thường. Bất cứ đàn ông, đàn bà, hễ giữ được luân lý cương thường là hay, mà trái lại với luân lý cương thường là dở. Mà luân lý của đàn ông thì lại trọng nhất là trung hiếu, luân lý của đàn bà thì lại trọng nhất là trinh tiết. Cho nên điều khác hay dở thế nào mặc lòng mà hai mối đó thì là mối quan hệ thứ nhất, cái danh giá ấy nặng nhẹ, trước hết phải lấy đó mà cân, rồi mới cân đến điều khác được.

Ấy là cái tính tình của riêng ta, chớ so với lý tưởng các nước văn mình, thì vị tất điều hay của ta đã toàn là hay, điều dở của ta đã toàn là dở.

Thiết tưởng cái trình độ dân trí của ta, mỗi ngày một tấn tới hơn một chút, thì tính tình chắc sao cũng thay đổi ít nhiều. Nhưng trong tính tình đó chắc sao cũng nhiều điều là quốc túy của ta và cũng hợp với lẽ phải chung cả hoàn cầu, như những điều lễ nghĩa liêm sỉ, đạo đức trung thành v.v… thì dẫu đến bao giờ cũng không nên đổi, mà cũng không sao đổi được cái lẽ tự nhiên của tạo hóa ấy.■

Phan Kế Bính

BÌNH LUẬN

BÀI VIẾT LIÊN QUAN